284 Anh Hùng Hào Kiệt Của Việt Nam

NGUYỄN DUY CUNG



Nguyễn Duy Cung quê ở ấp Thanh Liêm, xã Tủ Bình, quận Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Ông thi đỗ cử nhân, dạy học một thời gian. Năm 1882 ông được cử làm Thượng biện sơn phòng, giữ chức vụ đó trong 3 năm. Khoảng tháng 3 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, người đứng đầu phe chủ chiến biết rõ tư chất của ông nên cử ông vào giữ chức án sát tỉnh Bình Định để tăng cường lực lượng, nên nhân dân gọi ông là án Cung.

Vua Hàm Nghi xuất bôn, kêu gọi nhân dân hưởng ứng chiếu Cần vương. Hồng lô Tự thiếu khanh Đoàn Doãn Địch một quan lại trí sĩ, tập hợp 600 nghĩa quân khởi nghĩa hưởng ứng chiếu Cần vương, án sát Nguyễn Duy Cung trở thành trợ thủ số một cho Đoàn Doãn Địch. Từ thành Bình Định, nghĩa quân mở nhiều trận đánh từ Trường Úc đến Phong Miêu, có kẻ phản bội, bắt Nguyễn Duy Cung bỏ ngục rồi mở cửa thành đầu hàng quân Pháp. Nguyễn Duy Cung vượt ngục ra vùng cửa sông Tiền phát lời kêu gọi nhân dân đánh Pháp. Người ứng nghĩa rất đông, Nguyễn Duy Cung lập ra phòng tuyến trước sông Cửa Tiền từ Cầu Gạch đến Chóp Vung để chống Pháp ở mặt Đông. Án Cung bí mật liên lạc với Mai Xuân Thưởng, người thôn Phú Lạc, huyện Bình Khê lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Phú Phong.

Tháng 8/1885 Nguyễn Duy Cung được tin Lê Trung Đình. Nguyễn Tự Tân đã chiếm thành Quảna Ngãi. Các ông làm chủ được 5 ngày thì quân Pháp, Nguyễn Thân đem quân đến đánh, Nguyễn Duy Cung đem quân vào cứu. Khi ông dẫn quân tới nơi thì Nguyễn Tự Tân đã hy sinh, Lê Trung Đình bị Nguyễn Thân bắt, thành lọt vào tay giặc, Nguyễn Duy Cung đem quân trở về Bình Định tiếp tục xây dựng phòng tuyến từ Cầu Gạch đến Chóp Vung. Người đến tham gia nghĩa quán ngày càng đông, trong đó có cả Lê Bá Thân, Tổng đốc Bình Định cũng bí mật tham gia. 

Tháng 8 năm 1885, quân Pháp từ biển đổ bộ vào chiếm Quy Nhơn. Nguyễn Duy Cung đưa toàn bộ quân sĩ cùng văn thân nghĩa sĩ trong tỉnh ra chặn giặc. Thế giặc mạnh, ông bị thua, phải lui quân về An Nhơn, gia nhập cuộc khởi nghĩa do Mai Xuân Thưởng lãnh đạo. Giặc Pháp, Nguyễn Thân đem quân đến đánh nhiều lần không được. Chúng sử dụng chiến tranh gián điệp, mua chuộc, dụ dỗ những tên ham sống, sợ chết trong nội bộ nghĩa quân làm phản. Nguyễn Cung không ngờ kẻ phản bội mình lại là Tổng đốc Lê Bá Thân. Hắn khuyên ông trở lại Bình Định mở một trận tấn công quân Pháp, đánh chiếm vùng rừng núi phía Tây của tỉnh xây dựng căn cứ để từ đó đánh thọc xuống đồng bằng, tỉnh thành và vùng ven biển. Nguyễn Duy Cung tin lời hắn, hẹn địa điểm, ngày giờ hội quân. Tên Lê Bá Thân lập tức mật báo cho giặc Pháp, Nguyễn Thân đặt quân mai phục bắt ông rồi mở cửa thành đầu hàng giặc Pháp. 

Giặc Pháp, Nguyễn Thân, Lê Bá Thân dùng chức tước, tiền bạc dụ dỗ ông ra làm quan cho chúng, bị ông cự tuyệt và chửi mắng bọn Việt gian đầu hàng giặc. Bọn chúng dùng cực hình thời trung cổ tra tấn ông, hòng ông khuất phục, khai báo cơ sở và đồng chí của mình. Ông vẫn một lòng kiên trinh sắt đá phục vụ lý tưởng cứu nước của mình. Chúng tống giam ông và ngục Bình Định. Trong ngục, Nguyễn Duy Cung xé vạt áo cắn ngón tay lấy máu viết tâm thư gửi cho Mai Xuân Thưởng và Nghĩa binh tại mật khu Linh Đỗng (Bình Khê). Bức thư bằng máu này có nhiều tên gọi khác nhau như Huyết lệ tâm thư. Hịch kêu gọi chống Pháp, Hịch Bình Tây, và còn có tên gọi là Bình Thành Cáo thị vì nó được viết từ thành Bình Định.

Chúng tôi dẫn toàn văn văn kiện trên:

Thiết vị:
Quốc gia đa sự,ninh từ huống tụy dĩ tuyên lao 
Thần tử phỉ cung, cảm vị tồn vong nhi cải tiết 
Cái năng tận thần đạo,
Phương khả uỷ quân tâm.
Nhan Châu khanh tư chuẩn Đường nguy, đoạn thiệt hà phương ư Hy Liệt;
Lý Thị Chế kỳ thanh tống nạn, phanh can hà uỷ ư Bá Nhan.
Viễn giám tiền nhăn Sự đồng kim nhật Ty dĩ
Thượng Châu tiện phẩm,
Ngãi tỉnh hàn nho.
Lạm dự khoa danh,
Hạnh bồi văn tịch
Sơn phòng tham biện, tích tổ hiệu ư tứ niên;
Lân tỉnh đề hình, hoá vị chu ư tam nguyệt.
Đồng niệm đế kinh luân một, oán kết thống tâm, 
Sấu tư hoàng giá bá thiên, cừu thảm khiết xỉ.
Kế dĩ cô thành khởi sự, hội chúng mưu nhi thu thập nhân tâm.
Tạc văn lân tỉnh hưng binh, tán dinh soái nhi trù duy quốc kế.
Phương hỷ binh dân văn tập,
Tương kỳ tướng sĩ lôi oanh.
Tưởng tha soái phủ khả minh công. Cần Hải chi lang yên tiêu tức;
Nại thử tướng nhân vô hiệu ỉực,
Bình thành chi nhung mã tung hoành.
Ty, tự liệu tài sơ, Nan kham kế hoạch.
Dục hướng An Nhân thoái thủ, khủng vi mệnh dĩ cầu sinh;
Phục hồi ban tỉnh ngự phòng, quyết vong thân nhi tuẫn quốc.
Bất ý gian thần mại quốc,
Nhẫn tương thổ địa dữ tha.
Bài cỉúmq nghị dĩ khoa trương, chiến cục phiên thành hoà cục;
Khai thành môn nhi nghinh tiếp, nam nhân hoán tác Tây nhân.
Kỷ nhật đề lao cấm cố, hiếp ty đẳng cữ thành hoà hảo chi mưu;
Sổ ngôn hoạ kết binh liên, gia ty dẳnq mật klìải văn thân chi tội.
Ty tự niệm.
Ninh vi trung nghĩa quỷ;
Bất vi tàm phụ nhân.
Thệ cửu tử dĩ hà từ, đỉnh hoạch sình tiền an túc uý;
Túng nhất sinh nhi hữu khiểm, đao phong tử hậu hiũi thuỳ tri.
Thể bất tịnh sinh,
Phận cam vạn tử.
Bá thử trung can nghĩa phủ, đối cố chủ dĩ vô tàm;
Cảm vân tráng tiết hoàn danh, dữ cổ nhân như tịnh liệt.
Thử tại tâm trung tự hứa;
Chuyên khảo chư liệt chứng tri.
Cảm tương tu ngã qua mâu, địch khái chi hùng tâm vị tỏa;
Kỳ dĩ dữ đồng bào trạch, Cần vương chi tráng chi vô vong.
Thiên ý nhược hưrĩg Lưu, Quang Vũ chi đông đô phục chấn;
Nhân tâm như đái Tống, Cao tông chi nam độ trùng hưng.
Vương nhất khuông tương, hạnh bằng chúng trí. 
Kinh thành khôi phục, ký dữ chư công Huyết lệ thư phong,
Chúc duy cáo thị.

Toàn văn bản dịch của Nguvễn Bích Ngô:

Thiết nghĩ:
Quốc gia khi nhiều việc phải nên tận tưỵ chịu gian lao.
Tôi con quyết một lòng, há vi mất còn thay khí tiết.
Vì có hết đạo kẻ dưới,
Mới khỏi phụ lòng bề trên.
Nhan Châu Khanh lo cứu nguy nhà Đường, bị cắt lưỡi nhưng kinh gì Hy Liệt;
Lý Thị Chế mong yên nạn nhà Tống, bị moi gan nhưng nào sợ Bá Nhan.
Xa trông người trước,
Việc giống ngày nay.
Cung này, thân phận hèn ở Tượng Châu.
Nhà nho nghèo ở Quảng Ngãi.
Lạm dự đỗ đạt, may bổ quan văn.
Sung chức Sơn phòng, tham biện mới được bốn năm.
Đổi sang tỉnh cạnh đề hình chưa đầy ba tháng.
Xót nghĩ kinh thành thất thủ, oán kết ruột đau, sầu lo xa giá chạy dài, hằn sâu răng nghiến.
Liệu giữ cô thành tính việc, hội chúng mưu mà thu thập lòng người;
Chợt nghe tỉnh cạnh dấy binh giúp đinh soái để toan lo việc nước.
Vua mừng quân dân mây hợp,
Hầu mong tướng sĩ sấm vang.
Tưởnq phá soái phủ để ghi công, bể Cần Hải khói lang bay báo.
Ngờ đâu tướng thần không gắng sức, thành tỉnh Bình ngựa giặc dọc ngang.
Cung này, tự liệu tài hèn;
Không bày kế hoạch.
Muốn lui đến An Nhân tìm thế thủ, e rằng trái mệnh cầu sinh.
Nên lại về bản tỉnh để đề phòng quyết kế quên mình mà báo quốc.
Không ngờ gian thần bán nước,
Nỡ đem lãnh thổ cho Tây.
Bác chúng nghị để làm càn, chiến cục xoay thành họa cục.
Mở cửa thành ra đón tiếp, nqười Nam đổi dạng người Tây.
Mấy ngày cấm cố đề lao, hiếp bọn Cung tác thành mưu hoà hảo.
Câu chuyện động binh gây vạ, buộc bọn Cung vào tội họp văn thân.
Cung này tự nghĩ:
Thà làm ma có hồn trung vía nghĩa 
Không làm người đeo mặt ngựa đầu trâu 
Chín phần thề chết chẳng từ, sống dẫu nấu vạc xanh không núng chí.
Một đời sống thêm còn mang tội, chết còn nhiều hình phạt có ai hay.
Thế chẳng đều sinh 
Phận cam vạn tử.
Bày hết gan trung ruột nghĩa, đối chủ cũ cũ không thẹn lương tâm.
Dám cầu cao tiết thơm danh, cùng người xưa sánh hàng liệt sĩ.
Chính bởi trong lòng tự quyết.
Dám mong các bạn chứng tri,
Xin trong tay sắp sẵn qua mâu, lòng địch khái còn hăng chưa nhụt.
Xin cùng nhau trọn lòng giáp trụ, chí Cần vương còn mạnh không quên,
Lòng trời còn tựu Lưu, Quang Vũ đóng phía Đông lại thịnh;
Nhà nước được vững vàng, từ nay mong nhờ chúng trí.
Kinh thành lại khôi phục, sau đây cậy có các ông.
Lệ máu dán thư,
Mấy lời bá cáo.

Viết xong Huyết lệ tâm thư, ông tìm cách gửi ra ngoài rồi ông tự tử trong ngục giữ tròn khí tiết. Ông hy sinh năm 1886.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.