Công Viên Khủng Long Kỷ Jura
2. KHU NHÀ NGHỈ
– Có việc gì xảy ra cho Tim chăng? Vẫn không có lời nào?
– Tôi không rõ.
– Kỳ cục thật phải không? Thật là kỳ cục. – Malcolm thều thào.
Hammond lắc đầu:
– Ai mà tưởng tượng được có ngày lại xảy ra cơ sự như thế này.
Ellie:
– Rõ ràng là tiến sĩ Malcolm đã tưởng tượng được đấy chứ.
Malcolm:
– Tôi không tưởng tượng. Tôi đã tính toán.
Hammond thở dài:
– Thôi đừng nói đến chuyện này nữa. Ông ta lại cứ “Tôi đã bảo ông như thế” cả giờ cho mà xem. Nhưng chẳng có ai muốn sự việc như thế này xảy ra.
Malcolm:
– Đấy không phải là việc muốn hay không. – ông nhắm mắt lại vì tác dụng của thuốc – Đấy là việc ông cho là ông có thể làm được. Khi một người thợ săn dầm mưa đi vào rừng để kiếm thực phẩm cho gia đình, anh ta có trông mong là sẽ điều khiển thiên nhiên không? Không. Anh ta tưởng tượng là thiên nhiên ở ngoài tầm tay anh ta. Ngoài sự hiểu biết của anh ta. Ngoài sự điều khiển của anh ta. Có lẽ anh ta cầu nguyện thiên nhiên, cầu nguyện sự hào phóng thiên nhiên đã cung cấp cho anh ta. Anh ta cầu nguyện vì biết mình không điều khiển được. Anh ta tùy thuộc vào sự ban ơn của thiên nhiên.
Nhưng ông thì ông khẳng định là mình không tùy thuộc vào ân huệ của thiên nhiên. Ông khẳng định là ông sẽ điều khiển thiên nhiên và từ lúc đó ông lún sâu vào sự rắc rối, bởi vì ông không thể điều khiển được. Nhưng ông đã tạo nên những hệ thống đòi hỏi ông điều khiển. Và ông không thể điều khiển – và ông chưa từng – và ông sẽ không bao giờ điều khiển được. Đừng có nhầm lẫn những điều này. Ông có thể làm một chiếc tàu, nhưng ông không thể tạo nên đại dương. Ông có thể làm một chiếc máy bay nhưng ông không thể chế tạo không khí. Sức mạnh của ông yếu hơn nhiều so với những ước mơ lý luận mà ông sẽ tin tưởng vào.
Hammond lại thở dài:
– Ông ta lại làm tôi lạc lối. Thằng Tim nó đi đâu được nhỉ? Nó có vẻ là một đứa nhỏ biết trách nhiệm mà.
Malcolm:
– Tôi tin chắc là nó đang cố gắng kiểm soát được tình huống. Cũng như mọi người khác.
– Và cả ông Grant nữa. Việc gì xảy ra cho Grant?
Ông đi lên lầu, đến khu cửa kính, cửa đã khóa. Ông cầm một thẻ an toàn để mở cửa đi vào xa hơn.
Ở một nơi nào đó dọc theo hành lang, ông nghe tiếng mấy con raptor gầm gừ.
– Anh Tim. – Lex la lớn.
Tim loạng choạng đứng dậy. Con velociraptor non đáp trên vai cậu kêu chíp chíp vì sợ. Tim và Lex lúc này ở trong phòng nuôi thú mới nở, sơn màu trắng. Mấy món đồ chơi lăn lóc trên nền nhà: một quả bóng màu vàng, một con búp bê, một chiếc cào bằng nhựa. Lex chỉ con thú đang bấu chặt vào vai anh:
– Đấy là con raptor con đấy.
Con raptor con rúc đầu vào cổ Tim. Con vật tội nghiệp có lẽ đang đói, Tim nghĩ bụng.
Lex đến gần hơn và con thú con nhảy qua vai cô bé. Nó cọ đầu vào cổ Lex, cô hỏi anh:
– Tại sao nó làm thế này? Nó có sợ không?
– Tao chả biết.
Cô bé trao con raptor cho anh. Con thú non kêu chíp chíp, nhảy lên nhảy xuống trên vai Tim một cách kích động. Nó không ngừng nhìn quanh, đầu cử động nhanh nhẹn. Không nghi ngờ gì nữa, con thú non đang sợ hãi và…
– Anh Tim? – Lex la lên nho nhỏ.
Cánh cửa mở ra hành lang không đóng lại sau khi chúng vào phòng nuôi thú non. Bây giờ mấy con velociraptor lớn đang đi vào. Con thứ nhất rồi con thứ hai.
Rõ ràng là bị chao động, con thú nhảy nhót và kêu chíp chíp trên vai Tim. Tim biết cậu phải thoát đi. Có lẽ con raptor con làm chúng chú ý. Dù sao chăng nữa, đấy cũng là một con con. Cậu gỡ con thú khỏi vai và ném nó ngang qua căn phòng. Con thú con rúc vào giữa chân mấy con thú lớn. Con raptor thứ nhất hạ thấp mõm xuống, khịt khịt mũi ngửi vào con thú con vẻ vừa ý như đang ngửi một món ăn ngon lành.
Tim nắm tay Lex kéo em vào sâu trong phòng nuôi. Cậu phải tìm một cánh cửa, một lối thoát.
Có tiếng kêu xé tai. Tim nhìn lui và thấy con thú con trong hàm của con thú lớn. Con velociraptor thứ hai tiến đến và cắn vào con con, cố giật con thú non khỏi miệng con thứ nhất. Hai con thú lớn giành nhau con thú con trong khi nó kêu thét. Máu bắn tung tóe thành từng giọt lớn trên nền nhà.
– Chúng ăn nó. – Lex nói.
Hai con raptor giành nhau phần còn lại của con thú non. Tim tìm được cửa – cửa không khóa. Và đi qua, kéo em theo.
Hai đứa ở trong một phòng khác, và qua ánh sáng màu lục đậm, Tim nhận ra đấy là phòng thí nghiệm rút chất DNA, với các dãy kính hiển vi điện tử, những mẫu nghiệm chờ phân giải, những hình ảnh đen trắng của những côn trùng khổng lồ. Những con ruồi và muỗi đã từng cắn con khủng long hàng triệu năm trước, hút máu chúng để giờ đây được dùng để tái tạo lại những con khủng long trong công viên. Hai đứa chạy qua phòng thí nghiệm, và Tim có thể nghe tiếng khịt mũi, tiếng gầm gừ của mấy con raptor đuổi theo chúng, càng lúc càng đến gần, và rồi cậu bé đi ra phía sau phòng thí nghiệm xuyên qua một cửa hẳn phải có hệ thống báo động, bởi vì trong hành lang hẹp một hồi còi lanh lảnh hú từng hồi khi lên cao khi xuống thấp, và đèn trên cao chớp tắt đỏ. Chạy về phía cuối hành lang, Tim như bị ném vào bóng tối – rồi lại sáng – rồi tối lại. Qua âm thanh báo động, cậu nghe tiếng raptor khịt mũi khi chúng đuổi theo cậu. Lex thì đang khóc thút thít và rên rỉ. Tim thấy một cửa khác phía trước, có bảng đề phòng thí nghiệm sinh học, cậu xô sầm vào cửa, lọt qua bên kia và đột nhiên chạm vào một vật gì to lớn. Lex hét lên trong kinh hãi.
– Nào bình tĩnh lại đi, hai cháu. – Một giọng nói cất lên.
Tim chớp mắt không tin được. Đứng một bên cậu là tiến sĩ Grant. Và kế ông ta là ông Gennaro.
Ở ngoài hành lang, Grant mất gần hai phút mới nghĩ ra rằng người bảo vệ chết nằm dưới tiền sảnh có thể có một thẻ an toàn mở cửa. Ông đã đi lui để lấy thẻ, rồi lên lại hành lang tầng trên, đi nhanh về phía cuối các phòng. Ông đã đi theo tiếng gầm gừ của mấy con raptor và thấy chúng đánh nhau trong phòng nuôi. Ông biết chắc là hai đứa bé sẽ chạy qua phòng kế và lập tức đi vào phòng thí nghiệm rút DNA. Và ông đã gặp hai đứa nhỏ ở đấy.
Bây giờ, hai con raptor đang tiến về phía họ Mấy con thú dường như do dự trong chốc lát, ngạc nhiên vì thấy có thêm người xuất hiện.
Grant đẩy hai đứa bé vào tay Gennaro và bảo:
– Đem chúng lui vào một nơi nào thật an toàn.
– Nhưng…
– Đi qua chỗ kia. – Grant chỉ tay lui qua vai về phía một cánh cửa đằng xa – Đem chúng vào phòng điều khiển nếu có thể được. Tất cả sẽ an toàn ở đấy.
– Ông định làm gì?
Mấy con raptor đứng gần cửa, Grant lưu ý thấy chúng chờ cho cả bọn đến đủ rồi mới tiến tới trước, thành một nhóm. Tập tính săn mồi theo bầy. Grant rùng mình. Ông bảo Gennaro:
– Tôi đã có kế hoạch. Ông đem chúng đi đi.
Gennaro dẫn hai đứa bé đi. Mấy con raptor tiếp tục tiến chầm chậm về phía Grant, đi ngang các máy super computer, ngang các màn hình nhấp nháy liên tục những chuỗi mã số. Mấy con raptor tiến tới không chút do dự, mũi khịt khịt ngửi nền nhà, đầu nhấp nhô lên xuống.
Grant nghe tiếng cửa gài “tách” sau lưng mình và nhìn lui. Ba người đã đứng qua bên kia cánh cửa gương, đang nhìn ông. Gennaro lắc đầu. Grant hiểu Gennaro muốn nói gì. Không có lối đi đến phòng điều khiển. Gennaro và hai đứa trẻ mắc kẹt trong ấy.
Mọi thứ tùy thuộc vào ông lúc này.
Grant đi chầm chậm, sát quanh tường phòng thí nghiệm, dẫn mấy con raptor đi xa chỗ Gennaro và hai đứa bé. Ông có thể thấy một cửa khác, ghi TO LABORATORY. Cho dù nó có ý nghĩa gì, ông đã có một ý nghĩ, và ông hy vọng ông nghĩ đúng. Cánh cửa có dấu hiệu thí nghiệm sinh vật màu xanh. Mấy con raptor đến gần hơn. Grant quay người xô mạnh cánh cửa ấy và lọt người qua, vào một căn phòng dài, ấm và yên lặng.
Ông quay lại.
Đúng thế. Ông đã vào chỗ muốn vào, trong phòng ấp trứng: dưới ánh sáng hồng ngoại, các chiếc bàn dài, với những dãy trứng và những đám khói mù trắng bao phủ. Máy lắc trên mấy dãy bàn kêu tanh tách và xáo trứng trong chuyển động đều đặn. Đám khói trắng bao lấy hai bên mép bàn và rồi là đà trôi xuống nền nhà, ở đấy chúng bay tản đi và bốc hơi.
Grant chạy thẳng tới cuối phòng ấp, vào một phòng thí nghiệm, vách ngăn bằng gương, thắp sáng bằng ánh sáng tử ngoại, áo quần ông trở nên màu xanh tím. Ông nhìn quanh những dụng cụ thí nghiệm bằng kính, những ống cắm đầu các ống nghiệm, những đĩa thủy tinh… tất cả đều là những dụng cụ thí nghiệm dễ vỡ…
Mấy con raptor tiến vào phòng, thoạt tiên rất thận trọng, ngửi vào khoảng không khí ẩm ướt, nhìn vào các chiếc bàn đầy trứng đang lắc lư. Con vật dẫn đầu đưa chi trước chùi đôi hàm dính đầy máu bằng lưng bàn tay. Yên lặng, mấy con raptor di chuyển giữa những dãy bàn dài. Chúng đi ngang qua căn phòng theo đội hình hàng ngang, thỉnh thoảng cúi đầu nhìn xuống dưới các dãy bàn.
Chúng đang tìm ông. Grant bò xuống, và chuyển đến phía sau phòng thí nghiệm, nhìn lên, và thấy một nắp hộc bằng sắt có vẽ dấu sọ người và hai khúc xương chéo. Một hàng chữ ghi: Cẩn thận độc chất AH. (Thận trọng trước khi dùng). Grant nhớ lại là Regis nói đấy là chất độc cực mạnh. Chỉ một vài phân tử thôi là giết chết…
Chiếc nắp đậy nằm sát với mặt bàn thí nghiệm. Grant không thể nào luồn tay dưới nắp được. Ông thử mở, nhưng có khuy khóa, không có tay kéo, không thấy có gì… Grant đứng lên từ từ và ngoái nhìn gian phòng chính. Mấy con raptor vẫn di chuyển giữa các dãy bàn.
Ông quay lại chiếc nắp hộc. Ông thấy một nắp nhỏ nằm lún vào mặt bàn. Trông giống như một ô chứa nút bấm điện có nắp hình tròn đậy lại. Ông dỡ nắp lên, thấy một nút bấm. Ông ấn nút.
Với tiếng xì xì nhẹ, chiếc hộc từ từ nâng lên.
Ông thấy các ngăn kệ bằng kính trên cao, và những dãy chai lọ đánh dấu bằng sọ người với hai xương chéo. Ông nhìn vào các nhãn dán. Chất lỏng trong lọ có màu xám dưới ánh sáng cực tím. Cạnh đấy ông thấy một đĩa thủy tinh đựng các ống tiêm. Các ống tiêm nhỏ, mỗi ống chứa một lượng rất ít một chất lỏng sóng sánh. Bò xuống trong ánh sáng xanh tối, Grant với lấy đĩa đựng ống tiêm. Các kim tiêm đầu ống đều có đậy các nắp nhựa. Ông gỡ nắp một cái. Ông nhìn chiếc kim nhỏ.
Ông chuyển mình tới phía mấy con raptor.
Ông đã miệt mài hết cả đời mình để nghiên cứu khủng long. Vào lúc này ông có thể thấy mình đã thật sự hiểu chúng đến mức nào. Loài velociraptor là loài khủng long ăn thịt sống, giống như loài oviraptor hay dromacosaur, những con thú từ lâu đã được cho là có thói đánh cắp trứng. Cũng y như một số loài chim ngày nay chuyên ăn trứng các loài chim khác, Grant luôn luôn nghĩ rằng lũ velociraptor sẽ ăn trứng các khủng long khác nếu chúng có dịp.
Ông bò tới chiếc bàn có đặt trứng gần nhất ở phòng ấp. Chầm chậm ông với tay lên đám hơi và lấy một quả trứng to ở chiếc bàn đang lắc lư. Quả trứng to gần bằng quả bóng đá, màu kem có vân màu hồng nhạt. Ông giữ quả trứng thật cẩn thận và đâm đầu kim qua vỏ trứng, tiêm vào đấy chất lỏng chứa trong ống tiêm. Quả trứng biến màu thành xanh nhạt.
Grant lại cúi xuống bàn. Ở dưới bàn, ông thấy chân mấy con raptor và hơi bay từ trên bàn bay xuống. Ông lăn quả trứng óng ánh lên nền nhà, về phía mấy con raptor. Chúng ngẩng đầu, nghe tiếng lăn nhè nhẹ của quả trứng, đầu giật giật nhìn quanh. Rồi chúng trở lại việc tìm kiếm từ từ của chúng.
Quả trứng dừng lại cách con raptor vài mét.
Chó đẻ thật?
Grant làm lại lần nữa: yên lặng lấy quả trứng khác, đem xuống tiêm chất thuốc vào, và lăn về phía mấy con raptor. Lần này quả trứng dừng lại bên chân của một con. Quả trứng lắc lư nhẹ, chạm vào ngón chân cái có vuốt to của con thú.
Con raptor nhìn xuống, ngạc nhiên với món quà mới này. Nó cúi đầu ngửi khịt khịt vào quả trứng. Nó dùng mõm lăn lăn quả trứng trên nền nhà một lúc.
Rồi bỏ qua.
Con velociraptor đứng lên lại và tiến tới chậm chậm, tiếp tục tìm kiếm.
Không tác dụng.
Grant với lấy quả thứ ba tiêm vào một ống khác. Ông giữ quả trứng trong hai tay, và lăn lần nữa. Nhưng ông lăn quả này nhanh, như một quả bóng gỗ. Quả trứng kêu sột soạt lớn khi lăn qua nền nhà.
Một con raptor nghe tiếng lăn – cúi đầu xuống – nhìn quả trứng lăn đến – và theo bản năng đuổi theo vật di động, nó lướt nhanh giữa đám bàn để chặn quả trứng lại. Đôi hàm lớn táp xuống cắn quả trứng, vỏ trứng vỡ.
Con raptor đứng lên, lòng trắng trứng màu xám chảy giọt xuống từ đôi hàm. Nó liếm mép và khịt mũi. Nó cắn nữa, và liếm láp quả trứng giữa nền nhà. Nhưng dường như đấy chưa phải là cú cắn cuối gây tai họa cho nó. Nó lại cúi xuống, ăn thêm quả trứng vỡ. Grant nhìn xuống xem có việc gì xảy ra.
Từ bên kia căn phòng, con raptor thấy ông. Nó nhìn ngay vào ông.
Con velociraptor gầm gừ đe dọa. Nó di chuyển về phía Grant, đi ngang qua căn phòng với những bước dài và nhanh nhẹn khó tin được. Grant choáng người khi thấy sự việc xảy ra và tê cứng người trong sợ hãi. Bỗng con vật thở ngáp lên mấy tiếng ùng ục và thân hình to lớn nhào sấp xuống nền nhà. Chiếc đuôi bự đập phành phạch trong cơn co giật. Con raptor tiếp tục rít lên, chen lẫn những tiếng thét lên the thé. Nước bọt sùi ra từ miệng. Đầu giần giật. Đuôi giãy đành đạch.
Một con, Grant nghĩ thầm.
Nhưng con thú không chết liền. Dường như còn lâu nó mới chết. Grant với lấy một trứng khác – và thấy mấy con raptor kia trong phòng khựng lại trong một cử động nửa chửng. Chúng lắng nghe con vật giẫy chết. Một con ngóc ngóc đầu, rồi con khác ngóc. Con đầu tiên đến gần nhìn vào con raptor nằm giữa nhà.
Con raptor hấp hối lúc này đang co rúm, toàn bộ thân hình run rẩy trên nền nhà. Nó rên rỉ đau đớn. Bọt trào ra ở miệng nó nhiều đến nỗi Grant không còn nhìn thấy đầu nó nữa. Nó quằn quại trên nền nhà và lại rít lên những âm thanh rên rỉ.
Con raptor thứ hai cúi mình lên con raptor giẫy chết, xem xét. Nó có vẻ ngạc nhiên với tình trạng hấp hối đau đớn. Thận trọng, nó nhìn chiếc đầu đầy bọt, rồi nhìn xuống chiếc cổ đang co giật, mấy xương sườn phập phồng, hai chân.
Và nó cắn một miếng vào chân sau.
Con vật giãy chết gừ lên, và thình lình cất đầu lên, cong thân hình cắn phập hàm răng vào cổ con vật tấn công nó.
Thế là hai con, Grant nghĩ thầm.
Nhưng con thú đang đứng xoay mình giật ra được. Máu từ cổ nó chảy ra. Nó tấn công bằng chi sau, và với chỉ một động tác nhanh nhẹn, nó xé toang bụng con vật nằm. Những cuộn ruột lòi ra như những con rắn mập tròn. Tiếng thét của con vật hấp hối tràn ngập căn phòng. Con thú tấn công quay người đi, dường như thấy đánh nhau quá rắc rối .
Nó đi ngang căn phòng, cúi đầu xuống, và ngẩng đầu lên với một quả trứng óng ánh nơi miệng! Grant nhìn con raptor cắn vào quả trứng, chất sóng sánh nhỏ giọt từ cằm nó.
Giờ mới thật là hai con.
Con thứ hai hình như gục ngay lập tức, hộc lên và nhào tới trước khi nó ngã, nó va nhằm một chiếc bàn. Hàng tá trứng lăn lông lốc khắp nền nhà. Grant nhìn các quả trứng, mất hết tinh thần.
Vẫn còn một con thứ ba trong phòng.
Grant còn một ống thuốc nữa. Với quá nhiều trứng trên nền nhà như thế, ông phải làm một điều gì khác. Ông đang cố nghĩ xem phải làm gì thì con thú cuối cùng khịt mũi khó chịu. Grant nhìn lên – Con vật đã nhìn thấy ông.
Con raptor cuối cùng này không động đậy một lúc lâu, nó chỉ đứng nhìn. Và rồi nó từ từ, yên lặng tiến tới. Chặn bắt ông. Đầu nó nhấp nhô, nhìn xuống dưới bàn trước, rồi nhìn trên mặt bàn. Nó di chuyển cân nhắc, thận trọng, không hấp tấp như khi nó tấn công cùng với bầy. Chỉ một mình vào lúc này, nó phải cẩn thận. Nó không bao giờ rời mắt khỏi Grant. Grant nhìn quanh thật nhanh. Không có chỗ nào cho ông nấp được. Không có gì cho ông có thể…
Cái nhìn của Grant gắn chặt vào con raptor, đang chậm chậm lách ngang. Grant cũng di chuyển. Ông cố giữ cho có nhiều bàn giữa ông và nó được chừng nào càng tốt chừng ấy khi con thú tiến tới từ từ chầm chậm, nó lách ngang qua phía trái…
Con raptor chuyển tới trong ánh sáng mờ mờ đỏ tím của căn phòng ấp trứng. Hơi thở nó thoát ra thành những tiếng rít nhẹ.
Grant nghe thấy tiếng trứng vỡ dưới chân ông, lòng trứng dính vào đế giày. Ông bò xuống, thấy chiếc máy vô tuyến căng lên trong túi mình.
Chiếc radio.
Ông lấy ra khỏi túi và bật lên.
– Hello, đây là Grant đây.
– Tiến sĩ Grant hả? – Giọng Ellie – ông Grant?
– Nghe đây. – ông nói nhỏ – Cứ nói chuyện đi nhé.
– Ông Grant? Phải ông đấy không?
– Cứ nói đi. – ông nói lại lần nữa, và ông đẩy chiếc máy vô tuyến trên nền nhà ra xa người ông, về phía con raptor đang đi tới.
Ông bò ra sau một chân bàn và chờ. Giọng Ellie:
– Ông Grant, nói với tôi đi.
Và rồi một tiếng rẹt, và im lặng. Chiếc radio lại im tiếng. Con raptor tiến tới. Tiếng thở phì phì.
Chiếc radio vẫn im.
Có chuyện bồi với cô ta vậy! Cô ta không hiểu sao? Trong bóng tối con raptor đến gần hơn.
– …tiến sĩ Grant?
Tiếng nói nho nhỏ từ chiếc máy vô tuyến làm con vật to lớn ngừng lại. Nó khịt mũi vào không khí, dường như đánh hơi thấy ai khác trong phòng.
– Tiến sĩ Grant, tôi đây. Tôi không hiểu ông có nghe thấy tôi không?
Con raptor quay khỏi Grant tiến về chiếc radio.
– Ông Grant, hãy trả lời…
Tại sao ông đã không đẩy chiếc radio ra xa hơn. Con raptor đi về phía chiếc máy, nhưng nó gần quá. Bàn chân to lớn bước tới quá gần ông. Grant có thể thấy làn da nhăn như vỏ hạt tiêu, màu lục nhạt óng ánh. Những yết máu khô trên mấy chiếc vuốt cong. Ông có thể ngửi thấy mùi tanh tanh của loài bò sát.
– Tiến sĩ Grant, hãy nghe tôi, …tiến sĩ Grant?
Con raptor cúi xuống, chọc mõm vào chiếc radio, vẻ suy nghĩ. Thân hình nó quay lui về phía Grant. Chiếc đuôi to lớn ngay trên đầu Grant. Grant với tới cắm ngập mũi kim tiêm vào bắp thịt đuôi, và đẩy thuốc.
Con raptor gừ lên và nhảy. Với tốc độ kinh hoàng, nó quay lui về phía Grant, hàm mở rộng. Nó táp, đôi hàm ngậm vào mép bàn, đầu nó giật lên. Chiếc bàn bị hất tung lên, và Grant nhào lui, lúc này hoàn toàn lộ người ra. Con raptor mờ mờ trên người ông. Đầu nó chạm mạnh vào mấy bóng đèn cực tím phía trên, làm chúng đong đưa quay cuồng.
– Tiến sĩ Grant?
Con raptor thụt lùi, nhấc chân sau đầy móng vuốt lên dẫm tới. Grant lăn tròn tránh, và bàn chân dẫm mạnh xuống, chỉ hụt ông một tí. Ông cảm thấy đau như xé thịt dọc theo xương bả vai, máu lập tức chảy thấm qua lớp áo. Ông lăn ngang qua căn phòng, làm vỡ những quả trứng, vấy bẩn cả tay lẫn mặt. Con raptor lại đạp một cú nữa lên chiếc radio, tóe ra những tia lửa. Nó gừ lên trong cơn giận dữ và dẫm một cú thứ ba, Grant đã lăn đến chân tường, không còn lăn đi đâu được nữa. Con vật đưa chân lên lần cuối cùng.
Và nó ngã nhào xuống.
Con thú đang oằn oại, bọt từ miệng sùi ra.
Gennaro và hai đứa bé bước vào phòng. Grant ra dấu cho hai đứa bé lùi lại. Lex nhìn con thú đang hấp hối, thốt lên:
– Eo ơi!
Gennaro giúp Grant đứng dậy. Cả bọn xoay người, chạy về phía phòng điều khiển.
– Tôi chẳng biết gì về computer.
Nhưng Tim đã ngồi vào ghế. Cậu sờ vào màn hình thật nhanh. Trên màn hình giám sát từ xa, cậu có thể thấy con tàu di chuyển gần hơn tới Puntarenas. Lúc này chỉ còn cách cảng chừng hai trăm mét. Trên màn hình giám sát khác, cậu thấy khu nhà nghỉ, với mấy con raptor đu người xuống từ trên trần nhà. Qua máy vô tuyến, cậu có thể nghe tiếng chúng gầm gừ. Lex la lên:
– Làm cái gì đi anh Tim…
Cậu bé đè tay lên SETGRIDS DNL, dù các ô lệnh đang nhấp nháy.
Màn hình trả lời:
Coi chừng – Lệnh thực hiện sẽ bị cắt nửa chừng – Năng lượng phụ sắp cạn
– Thế này nghĩa là gì? – Tim hỏi.
Gennaro gõ gõ mấy ngón tay:
– Việc này trước đây có xảy ra. Nó có nghĩa là nhiên liệu máy phụ đã cạn. Cháu phải dùng năng lượng chính.
– Cháu phải làm ?
Cậu sờ vào ELECTRIAL MAIN. Màn hình nhấp nháy một menu khác. Tim rên lên. Grant hỏi:
– Cháu đang làm gì vậy?
Tim ấn vào MAIN của mệnh mới.
Không có việc gì xảy ra. Màn hình tiếp tục nhấp nháy.
Tim ấn MAIN GRID P. Cậu cảm thấy bao tử thắt lại.
Mạng điện chính không hoạt động/Chỉ có năng lượng phụ
Màn hình tiếp tục nhấp nháy. Cậu ấn MAIN SET 1: Nguồn năng lượng chính hoạt động.
Tất cả đèn trong phòng sáng lên. Tất cả màn hình giám sát điều khiển từ xa ngừng nhấp nháy.
– Ô! Được rồi!
Tim ấn RESET GERDS (Điện vào các mạng điện) Không có gì xảy ra trong chốc lát. Cậu liếc nhìn các video giám sát, rồi nhìn lại màn hình điều khiển.
Bạn muốn điện vào mạng nào
Grant nói điều gì đó mà Tim không nghe rõ. Cậu chỉ nhận thấy sự căng thẳng trong giọng nói. Ông nhìn Tim lo lắng.
Tim nghe tim đánh thình thịch trong ngực mình. Lex đang la hét với cậu. Cậu không muốn nhìn vào các video giám sát nữa. Cậu có thể nghe các thanh sắt bị uốn cong trong khu nhà nghỉ, và tiếng mấy con raptor gầm gừ. Cậu nghe tiếng Malcolm “Chúa ơi”. Cậu bấm LOGE. Màn hình hỏi:
Cho biết số mạng điện.
Trong mấy giây khựng người tưởng như dài vô tận, cậu không thể nhớ con số, nhưng rồi cậu nhớ F4, và cậu bấm. Màn hình:
Mạng điện F4 khu nhà nghỉ hoạt động
Trên máy video giám sát từ xa, cậu thấy nổ tóe các tia lửa điện, rơi tung tóe trên trần nhà căn phòng khách sạn. Màn hình trắng xóa. Lex la lớn “Anh làm gì vậy!” nhưng hầu như ngay lập tức các hình ảnh trở lại và họ có thể thấy hai con raptor bị kẹt giữa các thanh sắt, quằn quại và kêu thét lên giữa các tia lửa điện xẹt xuống như thác, trong khi Muldoon và các người khác reo mừng, giọng họ reo nghe văng vẳng qua radio.
– Thế đấy! – Grant vỗ vào lưng Tim – Thế đấy! Cháu ngon lành lắm.
Mấy người trong phòng điều khiển đều đứng và nhảy cẫng lên, trong khi Lex chợt hỏi:
– Thế còn chiếc tàu thì sao?
– Chiếc gì?
– Chiếc tàu. – Cô bé trả lời và chỉ vào màn hình.
Trên màn hình, những cao ốc phía bên kia con tàu dường như to hơn nhiều, và chạy dạt qua về phía phải trong khi con tàu quay về phía trái và bắt đầu cập bến. Tim thấy các thủy thủ lên cả trên boong đi về phía đầu tàu chuẩn bị neo tàu.
Cậu lại buông ngươi xuống ghế và nhìn vào màn hình với những ô lệnh START UP.
Cậu đánh lệnh TELECOMRSD.
Màn hình trả lời:
Bạn có 23 cú gọi/ lời nhắn đang chờ. Bạn muốn nhận ngay không?
Tim đánh lệnh NO. Lex bảo anh:
– Có thể chiếc tàu là một trong những người đang chờ gọi. Có thể anh cho nói chuyện và nhờ đó biết được số điện thoại họ.
Cậu giả lơ cô em. Màn hình trả lời:
Cho biết số bạn muốn gọi hoặc bấm F7 để có hướng dẫn
Cậu bấm F7 và đột nhiên tên và số lần lượt xuất hiện chạy ngược lên trên màn hình, một số lượng khổng lồ. Các tên không theo thứ tự abc. Phải mất một lúc cậu bé mới nhận ra được những gì cậu đang tìm. Bây giờ điều cậu phải làm là đoán ra cách quay số Cậu bấm một dãy nút ở đảy màn hình:
– Quay ngay hay chốc nữa?
Cậu bấm DIAL NOW. Màn hình trả lời :
Xin lỗi cú gọi của bạn không thể thực hiện được như đã quay số.
Nhầm lẫn.
Xin làm lại.
Cậu bấm lại.
Cậu nghe tiếng quay số tự động liên tiếp nhau thật nhanh.
– Thế được chưa? – Grant hỏi.
– Tốt quá, anh Tim. – Lex bảo – Nhưng họ gần như vào bến rồi.
Trên màn hình, họ có thể thấy mũi tàu đã vào sát cảng Punteneas.
Họ nghe những âm thanh the thé, rồi một giọng cất lên:
– A, hello, ông Hammond. Đây là Ferddy. Ông nghe tôi không?
Lex bảo:
– Trả lời đi.
Lúc này người nào cũng nhấc ống nghe có trước mặt lên, nhưng họ chỉ nghe được tín hiệu quay số. Cuối cùng, Tim thấy một ống nghe đặt bên cạnh bàn điều khiển với ánh đèn đang nhấp nháy.
– A, hello, phòng điều khiển. Đây là Ferddy. Anh nghe tôi không?
Tim chụp lấy ống nghe:
– Hello, đây là Tim Murphy, và tôi muốn ông…
– À xin nói lại. Tôi không nghe được, ông Hammond.
Tim nói lớn:
– Đừng có cho tàu cập bến. Có nghe không?
Một lúc yên lặng. Rồi một giọng nghe có vẻ ngạc nhiên:
– Nghe như một ranh con nào.
Tim hét:
– Đừng có cập bến. Hãy cho tàu trở lại đảo ngay!
Những giọng nói nghe xa xa và lao nhao:
– Nó nói… tên… Murphy? – Một giọng khác – Tôi không – rõ tên.
Tim nhìn như điên vào mấy người khác. Gennaro cầm lấy ống nghe:
– Để bác nói cho. Cháu biết tên ông ta không?
– …là một lời đùa hay… gì đó. Một đứa chết rấp nào… đấy .
Tim xoay sang bàn phím. Có thể có một cách nào đó để biết Ferddy là ai…
– Này, ông có nghe tôi không? – Gennaro nói vào ống nghe – Nếu nghe rõ tôi, hãy trả lời ngay.
– Cậu nhóc ơi – Giọng trả lời kéo dài – Chúng tôi chẳng biết nhóc là ai cả. Nhưng nhóc đừng có đùa. Chúng tôi sắp cập bến và còn khối việc để làm. Nào, cho biết nhóc là ai hay cúp máy đi.
Tim nhìn màn hình khi dòng chữ xuất hiện: FARRELL, FEREDERICK D. ( CAPT).
– Nghe đây để biết chúng tôi là ai, – Gennaro nói, mắt nhìn màn hình – Thuyền trưởng Ferederick. Nếu ông không quay tàu ra biển và quay lại đảo này ngay lập tức, ông sẽ bị truy tố là vi phạm điều khoản 509 của bộ luật hàng hải quân vận, ông sẽ bị bắt buộc phải hủy bỏ giấy phép đăng ký tàu, sẽ bị phạt 50.000 đôla và ngồi tù 5 năm. Ông nghe rõ chứ?
Một lúc yên lặng.
– Nghe rõ chưa, thuyền trưởng Ferederick Farrell?
Và rồi xa xa, họ nghe tiếng nói trả lời:
– Tôi nghe rõ rồi. – và một tiếng khác – Tất cả lên khoang lái. – Chiếc tàu bắt đầu quay mũi khỏi cảng.
Lex bắt đầu reo mừng. Tim sụm người xuống ghế, chùi mồ hôi. Grant hỏi:
– Bộ luật hàng hải quân vận là luật gì?
– Nào ai biết đấy là luật gì? – Gennaro cười to.
Cả bốn người nhìn màn hình với vẻ thỏa mãn. Con tàu đã quay đầu rời bờ bể một cách dứt khoát. Gennaro nói:
– Tôi cho rằng phần gay go đã chấm dứt.
Grant lắc đầu:
– Phần gay go chỉ mới bắt đầu.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.