Linh Hồn Của Tiền

Chương 4: SỰ ĐẦY ĐỦ: SỰ THẬT ĐÁNG NGẠC NHIÊN



Khi bạn ngừng cố gắng kiếm thêm những thứ bạn không thật sự cần, những đại dương năng lượng sẽ được giải phóng. Bạn sẽ có thể tạo ra sự khác biệt bằng những thứ bạn có. Khi bạn tạo ra sự khác biệt bằng những thứ bạn có, nó sẽ mở rộng ra.

Đã gần mười năm trôi qua kể từ lần đầu tôi gặp gỡ những thổ dân Achuar ở Ecuador nhưng tôi vẫn nhớ rõ kỷ niệm đó − một trải nghiệm hoàn toàn khác so với lần tôi chạm trán cái đói và cái nghèo ở Ấn Độ. Trong khu rừng nhiệt đới bên những người Achuar, tôi gặp những người sống sung túc tự nhiên. Họ sống sung túc mà không phải chiến thắng trong cuộc chơi kinh tế khốc liệt nào. Họ sống sung túc mà không cần làm ai đó chịu thiệt thòi. Họ không đánh bại ai trong chuyện gì cả. Họ sống sung túc theo cách họ ở bên nhau, sống thống nhất với những luật lệ bất biến của thế giới tự nhiên, những luật lệ tối cao tác động lên tất cả chúng ta.

Nền văn hóa của họ không có bóng dáng của tiền. Tiền là vật thể lạ họ chỉ gặp lần đầu khi họ ra khỏi khu rừng. Đối với họ, đó là thứ vật thể kỳ cục, chỉ mang tính bổ sung, không phải là một phần cuộc sống hàng ngày hay suy nghĩ của họ. Mặc dù không có tiền, không có sở hữu, không có tích lũy của cải, và không có bất cứ tiện nghi nào của cuộc sống phương Tây như chúng ta, họ vẫn không hề thấy thiếu thốn, không lo sợ về chuyện không có đủ những thứ họ cần. Họ không chạy đua để có nhiều hơn, không cam chịu hay tin rằng họ đang sống cuộc đời kém hơn người khác. Họ đã sống (và vẫn đang sống), trải nghiệm và thể hiện sự đầy đủ. Thay vì tìm kiếm nhiều hơn, họ trân trọng và quản lý cẩn thận những thứ đang có sẵn. Thực tế, hiện giờ họ tập trung bảo vệ thứ đang ở ngay trước mắt – khu rừng – nguồn tài nguyên cho tất cả mọi người. Đối với người Achuar, giàu có nghĩa là được nếm trải và chia sẻ sự trọn vẹn, phong phú của hiện tại.

Chúng ta, những người sống trong nền văn hóa tiền bạc, cũng có thể tìm thấy sự thanh thản và tự do ấy trong chính môi trường của mình và với tiền bạc. Tôi đã học được nhiều bài học ý nghĩa và đáng ngạc nhiên về sự đầy đủ và mối quan hệ của chúng ta với tiền từ những người có rất ít hoặc chẳng hề có tiền như những người Achuar, hay những người đang đương đầu với cuộc chiến dữ dội nhất để tồn tại trong những hoàn cảnh ta khó có thể hình dung. Một trong những bài học ấy đến từ một ngôi làng hẻo lánh ở Senegal.

Senegal là một đất nước nhỏ ven biển, nằm ở cực Tây của lục địa châu Phi. Trong suốt thời kỳ đầu của nạn buôn bán nô lệ, đây là vùng thuộc địa giàu có của Pháp. Lâu đài của các chủ nô lệ với những khu hầm tối như nhà tù ngày nay vẫn còn đứng ngạo nghễ, trở thành điểm thu hút khách du lịch và những tượng đài đầy sức gợi về con người và sự tàn bạo thời kỳ đó.

Phần lớn diện tích đất nước Senegal được bao phủ bởi sa mạc Sahel rộng lớn, mỗi năm lại đều đặn lấn ra phía biển. Sa mạc Sahel là một môi trường khắc nghiệt, không thân thiện với bất cứ sự sống nào, kể cả các loại cây cối và động vật thích nghi với môi trường sa mạc. Cát ở đây mịn như bụi, và mang màu cam nhạt. Thứ bụi mịn ấy tràn ngập khắp nơi, phủ lên tất cả mọi thứ gần sa mạc một lớp cát màu vàng nhạt: đường phố, nhà cửa, cây cối, những con đường – và cả những con người.

Chúng tôi, 18 người cộng tác và lãnh đạo trong Dự án Xóa đói, đến gặp các cư dân của một ngôi làng nằm sâu trong sa mạc, cách vài tiếng đồng hồ đi xe để bàn về nhu cầu muốn tìm nguồn nước mới hoặc một nơi sống mới của họ. Khi những người lái xe đưa xe lăn bánh trên con đường rời thành phố và đi sâu vào sa mạc, người chúng tôi bắt đầu bị phủ đầy những lớp cát mỏng và mịn ấy. Chúng len vào phổi chúng tôi theo từng hơi thở. Càng tiến sâu mãi vào những cơn gió màu vàng cam trên con đường gập ghềnh, chúng tôi càng thấy vắng vẻ bóng người, cây cối cũng như động vật. Không lâu sau đó, mắt chúng tôi chẳng còn nhìn thấy gì ngoài vùng đất cằn cỗi. Trời nóng và khô, nhiệt độ lên tới hơn 35˚C. Tôi đội mũ và quấn một chiếc khăn lớn trên mặt để tránh hít phải cát. Khung cảnh hoang vắng đến nỗi tôi khó có thể hình dung có người sống được ở đây.

Chúng tôi đang đi trên một con đường gồ ghề không lát đá. Rồi con đường biến mất hút vào trong cát. Anh lái xe bắt đầu đưa xe đi trên xa mạc chỉ dựa vào la bàn. Những người lái xe người Senegal của chúng tôi thuộc lòng vùng sa mạc này. Đột nhiên, người lái xe đi đầu đoàn dừng lại và tắt máy. Hai người kia cũng làm theo. Khi lắng tai nghe, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng trống xa xa vọng lại. Anh lái xe mỉm cười, khởi động chiếc xe và bắt đầu lái nó về phía tiếng trống. Chúng tôi càng tiến gần, tiếng trống càng to và rộn rã. Không lâu sau, phía chân trời, chúng tôi bắt đầu nhìn thấy những chấm nhỏ xíu đang di chuyển. Chúng tôi nghĩ đó là loài vật nào đó. Nhưng khi tiến lại gần, chúng tôi nhận ra đó là những đứa trẻ, hàng chục em bé chạy về phía xe của chúng tôi, hò hét vì phấn kích.

Vậy là chúng tôi đã đến nơi, một nơi không hề có dấu hiệu của sự sống, được chào đón bởi những đứa trẻ hiếu khách, vui vẻ, tràn trề sức sống và sự trẻ trung. Nước mắt tôi tuôn ra, và tôi có thể nhận ra những người đồng hành của mình cũng đang xúc động trước màn chào đón hân hoan này. Nhiều bóng nhỏ khác cũng đang hướng về phía chúng tôi, và phía trên chúng, từ xa chúng tôi có thể nhận ra hai cây bao báp lớn đứng hiên ngang giữa mênh mông hoang vắng. Cây bao báp là loài cây có thể sống mà hầu như không cần nước, mang đến bóng râm và chỗ khuất gió hiếm hoi cho những người sống trong sa mạc.

Phía trước chúng tôi, dưới bóng hai cây bao báp, khoảng hơn 100 người đang tụ tập. Những người đánh trống đứng giữa đám đông, và bên trong vòng tròn, có những người phụ nữ đang nhảy múa. Khi khoảng cách giữa chúng tôi thu hẹp dần, tiếng trống hòa vào không khí một nguồn năng lượng sôi nổi, và màn chào đón càng mãnh liệt. Chúng tôi đón vài đứa trẻ lên xe. Những đứa khác chạy dọc theo xe. Khung cảnh khó tin này dường như xuất hiện từ hư không. Chính họ đây, đàn ông, phụ nữ và trẻ em, nhảy múa, đánh trống, vui mừng, vỗ tay, và hò hét lên những lời chào mừng phái đoàn đến thăm.

Chúng tôi ra khỏi xe. Hàng chục người phụ nữ chạy về phía chúng tôi, họ mặc những bộ quần áo Senegal truyền thống đẹp đẽ, với khăn trùm đầu và bộ boubou dài bằng vải bông – loại váy dài, rộng và sặc sỡ. Trống vẫn dồn dập, trẻ con hò hét, những người phụ nữ hò reo vì hạnh phúc, những người đàn ông ca hát. Đó là một cuộc chào đón xưa nay tôi chưa từng thấy.

Dường như họ biết tôi là người đứng đầu, và họ kéo tôi vào giữa vòng tròn, nơi những người phụ nữ nhảy múa xung quanh. Tôi bị cũng cuốn theo, đưa người hòa cùng họ, theo nhịp điệu tự nhiên và tự do. Họ hò reo và vỗ tay. Những bạn đồng hành của tôi cũng tham gia, và chúng tôi cùng nhảy múa, vỗ tay, cười nói. Thời gian và khoảng cách như dừng lại. Trời không còn khô nóng nữa, cũng không còn đầy bụi và gió nữa − tất cả đã biến mất.Chúng tôi được bao bọc trong không khí lễ hội tưng bừng. Chúng tôi hòa làm một.

Tiếng trống đột nhiên ngừng bặt. Đã đến lúc bắt đầu cuộc họp. Mọi người ngồi xuống nền cát. Người tộc trưởng tự giới thiệu, rồi giới thiệu tôi. Với sự giúp đỡ của người phiên dịch, ông giải thích rằng làng của họ cách đây vài km. Họ đến để đón chúng tôi và đều rất biết ơn khi chúng tôi đề nghị hợp tác. Ông nói rằng họ đều là những người khỏe mạnh và khéo léo, rằng sa mạc là ngôi nhà tinh thần của họ. Nhưng họ và 16 làng khác ở phía Đông đang gặp cảnh khó khăn, khi nguồn nước khan hiếm đang dần đẩy họ đến chỗ không còn lựa chọn nào. Họ không biết gì khác ngoài cuộc sống trên sa mạc này, họ là những người con kiêu hãnh của vùng đất này, nhưng họ cũng biết rằng không thể tiếp tục sống nếu tình hình nước sinh hoạt không được cải thiện.

Các hỗ trợ xã hội không đến được với những người ở đây, ngay cả trong lúc khủng hoảng nhất. Họ mù chữ và không được tính đến khi điều tra dân số. Họ thậm chí không được tham gia bầu cử. Họ hầu như không có dấu ấn nào đối với chính phủ. Họ là những người rất kiên cường, nhưng những chiếc giếng nông của họ đã cạn nước, và họ biết rằng họ sẽ cần đến một điều gì đó vượt lên khỏi suy nghĩ hiện thời của mình để có thể vượt qua mùa khô tiếp theo.

Những người này theo đạo Hồi, và khi chúng tôi ngồi bên nhau thành một vòng tròn để thảo luận, những người đàn ông giành toàn quyền phát biểu. Phụ nữ không ngồi ở vòng tròn trong, mà xếp thành một vòng tròn thứ hai bên ngoài, từ đó họ có thể lắng nghe và quan sát, nhưng họ không nói gì. Tôi có thể cảm thấy sức mạnh của những người phụ nữ ngồi phía sau tôi, và cảm giác họ chính là chìa khóa cho vấn đề. Trên miền đất cằn cỗi màu vàng cam này, có vẻ không thể tìm ra một giải pháp, nhưng thái độ, sự kiên cường và phẩm giá của những người này lại nói lên một điều khác. Chắc chắn sẽ có cách giải quyết, và chúng tôi sẽ cùng nhau tìm ra.

Sau đó, tôi yêu cầu đuợc gặp riêng nhóm phụ nữ. Đó là một đề nghị lạ lùng đối với nền văn hóa đạo Hồi này, nơi các giáo sĩ và tộc trưởng được quyền nói thay cho tất cả, nhưng thật ngạc nhiên là họ cũng đã chấp thuận. Những người phụ nữ trong nhóm chúng tôi và những người trong bộ lạc tập hợp trên mặt đất nóng bỏng và ngồi sát lại gần nhau. Phiên dịch của chúng tôi là một người đàn ông, và các giáo sĩ cho phép anh tham gia.

Trong số những người phụ nữ này, một vài người tự nhận vai trò lãnh đạo và lên tiếng ngay. Họ nói rằng họ biết rõ có một chiếc hồ nước ngầm bên dưới vùng này. Họ có thể cảm thấy nó; họ biết chắc chắn nó ở đó. Họ cần chúng tôi giúp đỡ để xin phép những người đàn ông đào một cái giếng đủ sâu để chạm đến nguồn nước. Những người đàn ông không cho phép điều đó, vì họ không tin rằng có nước và cũng không muốn phụ nữ làm công việc đó. Theo phong tục của họ, chỉ một số công việc nhất định được giao cho phụ nữ. Dệt vải và trồng trọt được cho phép. Lên kế hoạch và đào giếng thì không.

Những người phụ nữ nói hùng hồn, mạnh mẽ và thuyết phục. Tôi nhận ra rằng họ biết rõ điều họ biết, và họ đáng tin tưởng. Tất cả những gì họ cần là được những người đàn ông cho phép họ làm theo linh tính. Đó là điều họ cần từ nguồn giúp đỡ bên ngoài. Đó là điều họ cần chúng tôi giúp.

Tôi cảm thấy một nguồn năng lượng và quyết tâm bùng lên. Tôi nhìn xung quanh. Không khí nóng như thiêu, vo ve hàng nghìn con ruồi. Miệng và phổi tôi đầy bụi cát. Bạn có thể hình dung nơi này thật khó chịu, nhưng tôi nhớ tôi không hề thấy khát hay khó chịu – tôi chỉ cảm thấy sự hiện diện của hy vọng và khả năng ở những người phụ nữ đẹp và can đảm này.

Khi chúng tôi khởi hành đến vùng sa mạc Sahel, tôi đã lo lắng sẽ gặp phải những người tuyệt vọng, đói khát, ốm yếu và nghèo khó. Những người này rõ ràng cần thức ăn và nước uống nhưng họ không hề “nghèo”. Họ cũng không cam chịu. Họ hào hứng tìm cách vượt qua thử thách, và họ đốt lên ngọn lửa của khả năng. Họ đều ẩn chứa một nguồn nghị lực, một kho báu chứa đầy sự kiên nhẫn và khéo léo. Họ muốn sự cộng tác của chúng tôi – họ không cần tài liệu, tiền hay thức ăn – sự tôn trọng và cộng tác bình đẳng là sự giúp đỡ chúng tôi mang đến.

Sau nhiều lần nói chuyện với cả nhóm phụ nữ và những người đàn ông, chúng tôi thỏa thuận được với các giáo sĩ và tộc trưởng rằng chúng tôi sẽ làm việc với những người phụ nữ, bởi vì chính họ đã tìm ra cách này. Do có chúng tôi cộng tác, những người đàn ông đồng ý để phụ nữ bắt đầu đào giếng. Trong suốt năm tiếp theo, khi mọi người cẩn thận phân chia nguồn nước còn lại, những người phụ nữ đào giếng bằng cả những công cụ bằng tay và những thứ thiết bị đơn giản chúng tôi mang đến. Họ đào càng ngày càng sâu xuống đất, vừa làm vừa ca hát, đánh trống, và chăm sóc con cái cho nhau, không bao giờ nghi ngờ rằng có một nguồn nước nằm ngay bên dưới họ.

Những người đàn ông quan sát công việc bằng cặp mắt nghi ngờ, nhưng vẫn cho phép tiếp tục công việc. Tuy nhiên, những người phụ nữ không chút nao núng. Họ đều chắc chắn rằng nếu họ đào xuống đủ sâu, họ sẽ tìm thấy nước. Và quả vậy. Họ đã đào đến chiếc hồ ngầm mà họ đã hình dung ra.

Trong những năm tiếp đó, những người ở đây đã xây dựng một hệ thống bơm và một tháp dự trữ nước. Không chỉ một, mà cả 17 làng đều đã có nước. Cả vùng đó thay da đổi thịt. Những nhóm phụ nữ lãnh đạo là trung tâm của mọi hành động trong cả 17 làng. Người ta tổ chức tưới tiêu và chăn nuôi gia cầm. Người ta mở các lớp dạy chữ và phát triển ngành dệt in hoa. Mọi người đều phát đạt và đóng góp cho đất nước. Khi gặp những thử thách mới, họ đương đầu vẫn bằng những phẩm chất và quyết tâm như trước. Những người phụ nữ giờ trở thành một phần được kính trọng của cộng đồng theo cách mới, với nhiều cơ hội lãnh đạo hơn, và cả bộ lạc đều tự hào rằng chính những người trong số họ, chính công sức của họ và mảnh đất họ sinh sống là chìa khóa dẫn đến sự sung túc của mình.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.