Tình Yêu Thời Thổ Tả
Chương 12
Phlôrêntinô Arixa vẫn chưa hoàn hồn khi Lôrenxô Đaxa cầm cánh tay cậu dắt đi qua quảng trường Nhà Thờ lớn cho đến tận mái vòm quán cà phê Parôkia, rồi ông mời cậu ngồi xuống ngay ngoài sân hiên. Vào giờ này trong quán cà phê chưa hề có một khách hàng nào, chỉ có một bà lao công da đen đang dùng mùn cưa và xà phòng lau sàn gạch gian hàng quá rộng. Tại gian phòng này, các ghế vẫn còn xếp chổng bốn chân lên trời trên những mặt bàn làm bằng đá hoa cương. Rất nhiều lần Phlôrêntinô Arixa nhìn thấy Lôrenxô Đaxa có mặt trong quán cà phê Parôkia này. Ông ở đây để chơi cờ và uống rượu đựng trong thùng phuy với những người vùng Axturiat đến đây để chơi chợ phiên trong khi họ gào to đánh lộn lẫn nhau vì những cuộc chiến tranh triền miên khác vốn không phải là của chúng ta. Nhiều lần, do có ý thức về nỗi bất hạnh của tình yêu cậu đã tự hỏi cuộc gặp gỡ sớm hay muộn giữa cậu và ông ấy sẽ ra sao và cậu tự biết rằng trong một sức mạnh nhân tạo nào đó có thể ngăn chặn được nỗi bất hạnh đó bởi vì đã từ lâu và mãi mãi sau này nó đã in dấu lên số phận hai người. Cậu dự tính ông như là một địch thủ không tương sức không chỉ vì Phecmina Đaxa đã báo trước cho cậu biết về điều đó trong những bức thư nói về tình nết điên khùng của cha cô mà còn vì chính cậu từng nhận thấy rằng đôi mắt của ông giống như một kẻ điên ngay cả khi ông cười ha hả trong bàn bạc. Toàn bộ con người ông là một sự bổ trợ cho cái thô kệch: cái bụng phệ nom đến gớm mắt, cái giọng nói oang oang chói tai, cái bộ râu cáo, đôi tay to bè thô kệch đeo cái nhẫn mặt ngọc đến to. Cái đặc điểm dễ thương nhất của ông mà Phlôrêntinô Arixa nhận ra ngay từ lần đầu tiên thấy ông đi, là chính cái cách đi nhẹ nhàng như con hươu giống hệt cách đi của cô gái. Tuy nhiên, khi ông chỉ cho cậu chiếc ghế để cậu ngồi xuống thì cậu thấy ông không khó chịu như đã tưởng, và cậu lấy lại bình tĩnh khi ông mời cậu cốc rượu hồi. Phlôrêntinô Arixa không bao giờ uống rượu vào lúc tám giờ sáng nhưng lần này cậu đã nhận nó với tất cả tấm lòng biết ơn vì cậu hiện đang cần.
Quả nhiên, Lôrenxô Đaxa không diễn giải dài dòng những lí lẽ của mình quá năm phút đồng hồ. Ông đối xử với cậu rất chân thành và cởi mở đến mức Phlôrêntinô Arixa phải lúng túng. Khi bà vợ chết ông chỉ còn một mục đích duy nhất là phấn đấu để cô con gái trở thành một bà lớn. Con đường đó thật sự là dài dặc và mờ mịt đối với một kẻ đi buôn lừa vốn không biết đọc cũng không biết viết mà danh tiếng bợm nghịch của ông vẫn chưa được chứng nghiệm nhiều như nó từng được tuyên truyền khắp tỉnh Xăng Hoan đê la Xiênaga. Ông châm một điếu thuốc lá, thứ thuốc những người đánh xe ngựa thường hút, và ông than vãn rằng: “Điều tệ hại duy nhất là người không có sức khỏe thì chẳng bao giờ có danh vọng”. Tuy nhiên, ông nói rằng điều bí ẩn thật sự của tài sản của ông ở chỗ ông có một quyết tâm làm giàu thật sự và ông đã làm việc cật lực tới mức không một con lừa nhỏ nà của ông sánh kịp. Ông say sưa làm việc ngay cả trong thời kì khó khăn nhất của cuộc chiến tranh, khi các làng mạc thức dậy trong tro tàn và đồng ruộng đều bị bỏ hoang hóa. Dẫu rằng cô gái chưa bao giờ phải suy nghĩ lao lung về số phận của mình, cô ta đã ứng xử như một kẻ đồng lõa đầy nhiệt tình. Cô gái thông minh và nề nếp trong lúc dạy cha học rất nhanh như chính cô học vậy và khi lên mười hai tuổi cô đã có khả năng làm việc rất hiệu quả đến độ không cần phải có mặt bà cô Êxcôlaxtica cô vẫn duy trì ngôi nhà ngăn nắp và gọn gàng. Ông ta thở dài: “Nó đúng là một con lừa vàng”. Khi cô con gái học xong bậc tiểu học, tất cả các môn học đều được điểm năm và được khen thưởng trong buổi lễ bế giảng. Ông hiểu rằng hoàn cảnh sinh sống ở tỉnh Xăng Hoan đê la Xiênaga là hết sức eo hẹp với mình và nó sẽ không cho phép ông thực hiện những ước mơ của mình. Thế là ông bán hết ruộng vườn, gia súc cùng với nhiệt tình mới và hơn sáu mươi ngàn đồng pêxô vàng ông chuyển đến thành phố điêu tàn này, một thành phố mà vinh quang của nó đã lùi vào dĩ vãng, nhưng vẫn là nơi để một cô gái đẹp, được giáo dục theo nền nếp cũ vẫn có thể trở thành bà lớn nhờ một cuộc hôn nhân may mắn. Sự tấn công của Phlôrêntinô Arixa là một trở ngại bất ngờ trong cái kế hoạch được ông suy nghĩ kĩ. “Vậy là anh bạn trẻ ạ, tôi đến đây là để van xin anh một việc.”, Lôrenxô Đaxa nói thế. Ông dụi mẩu thuốc lá vào trong chén rượu hồi, hít một hơi không có khói thuốc, và kết thúc cuộc gặp gỡ bằng một giọng nói nặng nề đến khó chịu:
– Xin anh bạn trẻ hãy đừng có mà đi trên con đường chúng tôi đang đi.
Phlôrêntinô Arixa nghe ông nói trong lúc uống từng ngụm thứ rượu mạnh kia và cậu quá say mê nghe chuyện cũ của Phecmina Đaxa đến mức cậu không thèm tự hỏi mình sẽ nói như nào khi cần phải nói. Nhưng khi thời điểm ấy đến, cậu hiểu rằng về bất cứ chuyện gì mà cậu nói thì số phận cậu đã định rồi.
– Ông đã nói gì với cô ấy chưa? – Cậu hỏi.
– Điều đó không bận tâm gì đến anh. – Lôrenxô Đaxa nói.
– Tôi hỏi ông điều đó, – Phlôrêntinô Arixa nói – là vì người cần phải quyết là cô ấy chứ không phải ai khác.
– Không phải thế đâu, anh bạn trẻ ạ. – Lôrenxô Đaxa nói – Đây là vấn đề của những người đàn ông và chỉ được những người đàn ông giải quyết với nhau thôi.
Giọng nói của ông ta lại mang vẻ đe dọa, do đó một khách hàng ở bàn bên cạnh quay lại nhìn hai người. Phlôrêntinô Arixa nói với giọng nhỏ nhẹ hơn nhưng với một tinh thần dứt khoát cho đến lúc cậu ấy có được.
– Muốn thế nào đi nữa tôi không thể trả lời được một khi không có ý kiến của cô ấy. Nếu tôi đồng ý làm theo lời khuyên của ông thì đó sẽ là một sự phản bội.
Thế là Lôrenxô Đaxa ngả người về phía sau trên tấm tựa của chiếc ghế, đôi mi mắt của ông ta ươn ướt và đỏ ửng lên đồng thời con ngươi mắt trái đung đưa một cách đảo điên rồi lồi hẳn ra phía trước. Ông cũng hạ thấp giọng nói:
– Anh bạn trẻ, đừng để tôi phải xịt cho anh một phát đạn.
Phlôrêntinô Arixa cảm thấy ớn lạnh nơi bụng mình. Nhưng giọng nói của cậu vẫn không hề run rẩy bởi vì ngay chính lúc ấy cậu cũng cảm thấy mình được Chúa Thánh thần soi sáng.
– Cứ việc bắn tôi đi, – cậu nói với một bàn tay để ngay trên lồng ngực – Không có gì vinh quang hơn là được chết vì tình yêu.
Lôrenxô Đaxa buộc phải nghiêng mặt đi như những con vẹt để nhìn cậu bởi vì chỉ có thế cái con mắt lác kia mới nhìn rõ gương mặt cậu. Ông ta không phát âm một mạch các từ được nói ra mà hình như đang khạc ra từng từ.
Từng từ một:
– Đồ – chó – đẻ!
Ngay chính tuần lễ ông ấy mang con gái đi xa, đi vào cõi lãng quên. Không hề giải thích gì cho con gái về biết mục đích chuyến đi, ông bất thình lình bước vào phòng ngủ của cô con gái với bộ râu bê bết đờm dãi lẫn sợi thuốc lá bị nhai, rồi ông ra lệnh cho cô chuẩn bị hành trang cho chuyến đi xa. Cô gái hỏi cha mình sẽ đi đâu thì ông trả lời gọn lỏn: “Đến cõi chết”. Hoảng hốt trước câu trả lời mà theo cô đó là câu trả lời thật lòng, cô định bụng cưỡng lại lệnh trên bằng chính lòng dũng cảm trong những ngày trước đây của mình. Nhưng ông tháo dây lưng có khóa đồng to sụ, cuốn nó vào tay rồi đập đen đét xuống nền nhà tựa như có súng nổ ngay trong nhà. Phecmina Đaxa biết rất rõ sức mạnh của ông sẽ được dùng vào trường hợp nào và được dùng tới đâu, vậy là cô chuẩn bị hành trang, bao gồm một bó hai chiếc chiếu, một chiếc võng và hai chiếc vali to kềnh đựng tất cả xống áo của cô mà lòng đinh ninh tin rằng đây là một chuyến du lịch không có ngày trở về. Trước khi mặc váy áo, cô vào phòng tắm ở lì trong đó lấy giấy vệ sinh viết một bức thư ngắn ngủi gửi Phlôrêntinô Arixa để từ biệt cậu. Sau đó cô dùng cái kéo làm vườn cắt toàn bộ mớ tóc kể từ vai trở xuống, cuốn nó lại rồi nhét vào một túi nỉ có viền sợi kim tuyến. Cô gửi cho cậu thư và cái túi nỉ ấy.
Đó là một chuyến đi điên rồ. Giai đoạn đầu của chuyến đi kéo dài hơn mười một ngày liên tục. Họ đi lẫn vào đoàn người và lừa ở vùng núi Anddêt. Ngày nào cũng như ngày nào cô đều ngồi trên lưng lừa mà len lỏi đi trên những đỉnh của dãy núi Nêvađa[32], có lúc người hầm hập lên cơn sốt dưới trời nắng như đổ lửa, có lúc người trương phình ra vì ướt sũng nước dưới màn mưa mù trời trong tháng mười, và lúc nào hơi thở cũng khô khốc vì phải hít thở thứ không khí ngái ngủ bốc lên từ dưới lòng vực sâu. Đến ngày thứ ba của chuyến đi ấy, một con lừa cái bị ruồi trâu đốt bỗng lồng lộn lên đã lăn xuống vực sâu kéo theo cả người cưỡi lừa cũng như toàn bộ bầy lừa bảy con buộc cùng một dây với nó, và cái tiếng kêu thất thanh đầy đau khổ của người đánh lừa và đàn lừa bị ngã xuống vực cứ lan tỏa vang vọng khắp các khe suối và vực núi trong vài giờ liền. Nó còn vang vọng nhiều năm và nhiều năm trong kí ức Phecmina Đaxa. Toàn bộ hành trang của cha con cô cũng rơi xuống vực sâu cùng bầy lừa bất hạnh kia nhưng trong cái khoảnh khắc kéo dài từ lúc con lừa ngã cho đến khi tiếng kêu thảng thốt đầy đau khổ của người đánh lừa tắt lịm đi, nghĩa là trong cái khoảnh khắc ngắn ngủi mà dài tưởng như hàng thế kỉ ấy, cô gái không hề nghĩ đến người đánh lừa bất hạnh mà chỉ nghĩ rằng thật đáng tiếc đã không buộc con lừa mình cưỡi vào bầy lừa bị ngã xuống vực kia để kết liễu đời mình luôn một thể.
[32] Dãy núi dài 8.500km chạy dọc theo bờ Thái Bình Dương từ biển Caribê đến vùng đất của Chilê, trong đó có ngọn Nêvada.
Đó cũng là lần đầu tiên cô cưỡi trên lưng lừa nhưng nỗi sợ và muôn vàn thiếu thốn dọc đường đi vẫn không khiến cô cảm thấy cay đắng bằng việc cô nhận thức rõ rằng sẽ chẳng bao giờ được nhìn thấy Phlôrêntinô Arixa và cũng sẽ chẳng bao giờ nhận được những lá thư âu yếm có sức an ủi tâm hồn của anh nữa. Ngay từ lúc đầu của chuyến đi, Phecmina Đaxa lại không hề nói chuyện với cha cô và ông này đâm ra rất lúng túng đến mức chỉ nói với con gái khi không thể đừng được hoặc nhờ những người đánh lừa nói lại điều ông muốn nói. Khi nào may mắn lắm bọn họ mới gặp được những quán hàng ăn cất tạm bên lề đường hẻm. Ở đây có bán món ăn của người miền núi, một món ăn cô gái không dám ăn và có cho thuê những chiếc giường bạt đã cáu bẩn mồ hôi lại khai mùi nước đái quỷ. Tuy nhiên, cái mà họ thường gặp hơn cả là chiếc lán của người Anh điêng, những phòng ngủ chung ở ngoài trời được dựng tạm bợ bên lề đường mà ai nấy đều được quyền ngủ cho đến sáng. Phecmina Đaxa không thể ngủ trọn đêm, người đổ mồ hôi vì sợ, nằm mà cảm nhận trong bóng tối cái công việc lẹ làng của những người khách lữ hành buộc ngựa hoặc lừa của mình vào các cột và mắc võng ở bất kì nơi đâu có thể mắc được.
Cứ chiều đến, khi những người đầu tiên đến đây, địa điểm ngủ lại thường quang quẻ và thanh lặng nhưng khi sáng dậy nó liền biến thành một bãi chợ ồn ĩ gồm những chiếc võng mắc chồng chéo lên nhau, cái cao cái thấp và những con vật quỳ gối mà ngủ, với tiếng kêu be be của những con dê bị trói bốn cẳng, tiếng kêu cục cục của những chú gà chọi bị nhốt trong lồng kiên cố, với sự im lặng của những con chó vùng núi được dạy dỗ cảm nhận để không sủa ông ổng trong thời buổi chiến tranh ngặt nghèo. Cái tình cảnh khốn cùng rất quen thuộc với Lôrenxô Đaxa, người vốn qua lại vùng này buôn bán trong suốt nửa cuộc đời và khi thức dậy hầu như lúc nào ông cũng gặp bạn thân tại các bãi ngủ này. Nhưng đối với cô con gái cái tình cảnh khốn cùng kia lại như một cuộc vật lộn sống mái kéo dài vô tận. Cái mùi thối khăn khẳn của cá ướp rất giống với cảm giác không muốn ăn vì nhớ nhung người yêu nơi xa, đã làm cô mất thói quen ăn uống thường ngày. Nếu cô không nổi điên lên vì thất vọng ê chề là vì lúc nào cô cũng tìm được những kỉ niệm về Phlôrêntinô Arixa và chúng đã an ủi cô. Cô không nghi ngờ rằng cái vùng đất ấy chính là miền đất của sự lãng quên.
Có một nỗi sợ hãi thường xuyên khác, ấy là nỗi sợ hãi trong chiến tranh. Ngay từ những ngày đầu của chuyến đi này, người ta đã nói về nỗi nguy hiểm khi gặp các đội lính tuần tra lảng vảng đây đó và những người đánh lừa đã mách bảo cha con Lôrenxô Đaxa những đặc điểm khác nhau để qua đó nhận ra các đội lính tuần tra này thuộc phe phái nào, Bảo hoàng hay Tự do, do đó trù liệu biện pháp ứng xử cho phù hợp. Thường xuyên họ gặp một toán lính mới ngay ở giữa đường cái. Mệt mỏi trước không biết bao nhiêu nỗi sợ hãi, Phecmina Đaxa đã quên mất một sự kiện mà đối với cô có vẻ thú vị hơn là sợ hãi. Đó là một đêm nọ có một toán lính lùng sục rất lạ đã bắt đi hai lữ khách rồi treo cổ hai người trên cây campano[33], cách lán ngủ chừng nửa dặm. Lôrenxô Đaxa đã cắt dây hạ hai tử thi xuống rồi chôn cất tử tế dưới những nấm mộ của conên. Ông làm như vậy là để cảm n họ đã chết thay mình chứ tuyệt nhiên ông và họ không hề có quan hệ gì. Ông làm việc ấy chỉ đơn giản thế thôi. Nhưng những kẻ lùng sục đã đánh thức ông dậy, họng súng trường gí ngay vào bụng ông và một tên chỉ huy ăn mặc rách rưới, mặt bôi nhọ nồi, soi đèn vào tận mắt ông, rồi hỏi ông thuộc phái nào, Tự do hay Bảo hoàng.
[33] Một loại đào hoa tâm.
– Tôi chẳng thuộc phe phái nào cả, – Lôrenxô trả lời, – tôi là thần dân của hoàng đế Tây Ban Nha.
– May phúc cho nhà ông đấy! – Viên chỉ huy nói, rồi đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh để từ biệt ông, – Hoàng đế muôn năm!
Hai ngày sau đấy, cha con ông đi xuống một đồng bằng rực rỡ ánh sáng là nơi cư trú của làng Vadêdupa đông vui. Tại đây có chọi gà trong các sân, có âm nhạc đàn phong cầm ngay ở đầu phố, có các kị sĩ cưỡi trên lưng những chú ngựa đẹp mã, có tiếng pháo nổ và tiếng chuông rung ồn vang cả làng. Phecmina Đaxa không hề nghĩ tới cuộc vui đang chào đón mình. Cha con cô nghỉ lại trong nhà ông bác Liximacô Sanchêt, anh trai mẹ cô, người đã đi đón cha cô ngay ở đường quan. Ông dẫn đầu một đoàn người toàn họ hàng thân thích cưỡi trên lưng những con ngựa thuộc giống tốt nhất của toàn tỉnh này và họ dẫn cha cô đi trên những nẻo đường làng dậy vang tiếng pháo nổ. Ngôi nhà trong khu vực Quảng trường lớn, ngay bên cạnh nhà thờ xây từ thời thuộc địa Tây Ban Nha đã vài lần được trùng tu và ngôi nhà này có diện mạo một ngôi nhà đồ sộ trong thái ấp bởi chính những phòng của nó đã rộng lại thiếu ánh sáng, bởi chính mùi ổi thơm ngọt ngào tràn ngập hành lang đối diện một vườn cây ăn quả.
Ngay lúc cha con họ đang xuống ngựa ở ngoài tàu ngựa thì các phòng khách đã chật ních bà con họ hàng kéo đến để chào đón Phecmina Đaxa với tất cả biểu hiện cuồng nhiệt nhưng cô lại vờ thờ ơ vì cô cố giữ mình để không thương một ai trên thế gian này bởi vì cô mỏi dừ người vì phải ngồi trên lưng ngựa nhiều ngày, bởi cô buồn ngủ đến chết được, bởi cái bụng đói mềm và lúc này cô chỉ ao ước có được một chỗ vắng vẻ và yên tĩnh để khóc cho thỏa sức. Hinđêbranđa Sanghêt, người chị họ lớn hơn cô hai tuổi và cũng như cô, cô ta cũng có vẻ kiêu hãnh của con nhà quyền quý, là người duy nhất hiểu được tâm trạng cô ngay từ phút gặp gỡ đầu tiên vì chính cô ta cũng bị rang bỏng trong than hồng của một thứ tình yêu liều lĩnh. Khi đêm đến, cô ta dẫn Phecmina Đaxa về phòng ngủ được chuẩn bị sẵn để hai người ngủ chung và tại đây cô ta không thể hiểu làm sao cô em họ mình lại có thể sống được với những vết lửa chàm thành sẹo ở hai bên hông. Được sự giúp đỡ của bà mẹ, một phụ nữ hiền dịu và đôn hậu, rất giống ông chồng đến mức dễ lầm tưởng họ là hai anh em sinh đôi, cô ta chuẩn bị cho Phecmina Đaxa tắm nước nóng và lấy bông thấm cồn kim sa dịt vào những vết tấy đỏ của cô em họ trong lúc những tiếng nổ vang rền ở ngoài chòi pháo hoa làm rung chuyển cả nền móng ngôi nhà.
Nửa đêm khách ra về hết và cuộc vui chung cũng giải tán thành nhiều đám lửa trại tổ chức ở những địa điểm khác nhau, Hinđêbranđa cho Phecmina Đaxa mượn một chiếc áo ngủ bằng phin nõn của Ấn Độ và giúp cô em họ nằm xuống chiếc giường trải nệm trắng muốt cùng với chiếc gối lông chim, những thứ này ngay lập tức khiến cho Phecmina Đaxa phải thảng thốt trước cuộc sống hạnh phúc. Khi chỉ còn hai người trong phòng ngủ, Hinđêbranđa liền đóng trái cửa buồng lại, rút từ dưới dát giường ra một chiếc bì thư màu vàng mang nhãn hiệu điện báo Quốc gia. Chỉ cần nhìn ánh mắt rực sáng rất ranh ma của người chị họ, Phecmina Đaxa sống lại cái mùi hoa bạch trà trong kí ức mình trước khi cô dùng răng xé bì thư và sau đó cho đến tận sáng ngày hôm sau cô lặn ngụp trong hồ nước mắt của mười một bức điện tín dài lê thê.
Vậy là Phlôrêntinô Arixa biết được địa chỉ của cô. Trước khi khởi hành, Lôrenxô Đaxa đã phạm một thiếu sót. Ấy là việc ông đã đánh điện cho người anh rể của mình là Liximacô Sanchêt, đến lượt mình, ông này lại gửi điện báo tin cho họ hàng đông đúc của mình sống rải rác ở nhiều làng bản của tỉnh này. Vậy là Phlôrêntinô Arixa không chỉ có thể nghiên cứu toàn bộ lộ trình của cha con Lôrenxô Đaxa mà còn thiết lập được cả một danh sách dài tên những người nhận điện báo để qua đó dõi theo dấu vết của Phecmina Đaxa cho đến cái lán ngủ cuối cùng tại làng Cabô đê la Vêga. Điều đó còn cho phép cậu duy trì thông tin liên lạc với cô kể từ ngày cô đến làng Vadêdupa, là nơi cô ở lại ba tháng cho đến ngày cuối cùng của chuyến đi dừng lại ở thành phố Riôacha, sau đấy một năm rưỡi.
Đó là khi Lôrenxô Đaxa cho rằng cuối cùng con gái mình đã quên hẳn chuyện yêu đương và ông quyết định trở về nhà. Có lẽ chính ông cũng không nhận thức được đầy đủ rằng mình đã buông lơi tinh thần cảnh giác đến mức độ nào để mà phấn khởi như đang phấn khởi trước những lời tán dương của những người thân thích bên nhà vợ, những người sau bao năm tẩy chay ông nay đã bỏ hết định kiến gia tộc và đã đối xử với ông bằng tấm lòng rộng mở như họ đối xử với một trong những người anh em của mình. Chuyến viếng thăm này là một sự thắt chặt muộn màng quan hệ thân tộc mặc dù nó không phải là mục đích ban đầu. Quả vậy, gia đình Phecmina Sanchêt đã kiên quyết cự tuyệt việc bà ta lấy một kẻ ngụ cư không có gốc gác, lắm mồm và thô tục, kẻ luôn đi lại khắp miền để buôn bán những con lừa lạc đàn mà hình như đó là một nghề buôn không được trong sạch lắm. Lôrenxô Đaxa đã xoay xở rất khéo vì người yêu của ông là người đáng giá nhất của một gia đình tiêu biểu cho vùng này: một gia đình đông đúc gồm những người đàn bà táo tợn và những người đàn ông có trái tim dịu hiền nhưng lại dễ nổi cục, những kẻ dễ bị kích động đến mức điên loạn chỉ vì muốn giữ thể diện. Tuy nhiên, Phecmina Sanchêt cứ khăng khăng thực hiện bằng được ý thích mù quáng của những mối tình nhiều trắc trở và đã kết hôn với Lôrenxô Đaxa một cách vội vã và bí hiểm, bất chấp gia đình không đồng ý. Đám cưới của bà được cử hành dường như không vì tình yêu mà vì để bằng một tấm khăn được sùng kính che đậy một vài lần quá trớn trong tình yêu.
Hai mươi năm sau, Lôrenxô Ðaxa vẫn chưa hiểu ra rằng thái độ cố chấp của ông đối với tình yêu của con gái là một sự lặp lại tai hại chính chuyện yêu đương của mình và ông đau xót cảm nhận chính nỗi bất hạnh của mình trước những anh em vợ từng phản đối mối tình của ông cũng như những người này trong lúc ấy từng đau khổ trước tình yêu của ông. Tuy nhiên, thời gian mà ông để mất trong lúc thở than thì cô con gái đã giành được nó trong tình yêu của cô. Vậy là, trong lúc ông say sưa đi thiến bò hoặc đi vực lừa một cách thú vị trên những đồng ruộng của các ông anh vợ thì cô gái, với nụ cười tươi rói, đi dạo chơi cùng với các chị em họ do Hinđêbranđa dẫn đầu. Hinđêbranđa là cô gái đẹp và hoạt bát hơn cả trong số chị em gái. Tình yêu đắm say không tương lai của cô với một người đàn ông hơn cô những hai mươi tuổi, đã có vợ và con, khiến cô thường lén lút nhìn trộm.
Sau thời gian dài nghỉ lại ở làng Vađêđupa, cha con Lôrenxô Ðaxa lại tiếp tục cuộc hành trình men theo bìa rừng, vượt qua những cánh đồng nở đầy hoa hoặc những bình nguyên thơ mộng, và ở tất cả mọi làng cha con Lôrenxô Đaxa đều được đón tiếp nồng nhiệt như ở làng Vađêđupa, nghĩa là cũng với âm nhạc và pháo hoa, và Phecmina Ðaxa lại nhận được sự đối xử vồn vã và thân mật của những cô chị em họ và những bức điện đúng hạn của Phlôrêntinô Arixa. Ngay lập tức Phecmina Ðaxa nhận ra rằng cái buổi chiều cô đến làng Vađêđupa không phải là một buổi chiều đặc biệt mà rằng ở cái tỉnh trù mật này tất cả các ngày trong tuần được sống như những ngày hội. Các vị khách ngủ lại bất kỳ nơi nào khi đêm tối ập tới họ, và ăn ở bất kỳ nơi nào họ thấy đói, bởi các nhà đều mở rộng cửa, đều mắc sẵn một chiếc võng và trên bếp lúc nào cũng để sẵn một chảo thịt đang sôi xèo xèo phòng khi bất ngờ có ai đến mà không kịp báo trước như vẫn thường xảy ra. Hiđêbranđa Sanchêt với tất cả lòng hân hoan đi cùng với cô em họ cho đến khi kết thúc cuộc hành trình. Phecmina Đaxa rất tự tin, lần đầu tiên cảm thấy mình làm chủ được bản thân, cảm thấy mình được đùm bọc và che chở, đã căng lồng ngực lên thở hít thứ không khí tự do từng trả lại cô lòng thanh thản và ý chí muốn sống. Ngay cả ở những năm tháng cuối đời, với sự minh mẫn tai quái của nỗi hoài nhớ, bà vẫn nhớ chuyến đi ấy, ngày càng thấy nó hiện về rõ nét trong tâm trí mình.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.