Alice Và Chiếc Bình Cổ

CHƯƠNG 13 – KẺ MẠO DANH



Tiếng thét phải chăng đã phát ra từ bên trong khu đất kín cổng cao tường đầy bí hiểm?
Alice phóng về phía bức vách bằng ván và vểnh tai nghe ngóng. Tuyệt nhiên không một âm thanh vang vọng.
– Chúng ta làm sao mà đột nhập vào trong được đây? – Ned lo lắng hỏi, vì cậu đang nóng lòng muốn giúp đỡ kẻ vừa kêu cứu.
– Chẳng có chỗ hở nào cả – Alice đáp – Phải chi chúng ta có thể leo qua hàng rào này thì hay biết bao!
– Thì ít nhất ta cũng thử dòm từ trên cao xuống xem sao – Ned gợi ý trong lúc chân bước về phía một thân cây rộng bản, cành đã mục gần hết – Bạn lại đây phụ mình một tay, chúng ta bẻ gãy cành cây này sau đó dùng nó làm thang để leo lên.
Họ cùng nhau bẻ gãy một cành khá lớn và đem dựa nó vào vách rào.
– Bạn hãy trèo lên đi, để mình giữ cho – Ned nói.
Alice ôm cứng lấy cành cây và đu người leo lên dọc theo “cây thang” dã chiến.
– Bạn thấy gì không? – Ned hỏi, khi Alice đã lên tới rào kẽm gai phía trên.
– Chẳng thấy chi nhiều. Cây, cây và lại cây nữa!
Alice leo xuống.
– Chúng ta chỉ còn cách cái ống khói xiên không bao xa – cô nói tiếp – Ta cứ thẳng trước mặt mà tiến tới, mình muốn quan sát kỹ hơn chút nữa.
Không chút nề hà, Ned kéo lê cành cây tới tận chỗ mà Alice chỉ cho cậu. Như một con khỉ tinh nghịch, Alice lại lần nữa leo lên. Bây giờ toàn bộ khu đất có rào vây quanh suốt ba cạnh lồ lộ phơi ra dưới tầm nhìn của cô, còn cạnh thứ tư thì được che chắn một phần bởi một bức tường cao bằng đá, phần còn lại là một cấu trúc bằng gạch.
Ngước mắt lên, Alice bỡ ngỡ khi nhận ra cái vật trang trí rỉ sét, gắn trên ông khói xiên cô đã trông thấy lần trước giờ đã biến mất tiêu. Thậm chí cô nhìn xuống đất vì tưởng là nó đã bị tuột và rớt xuống chăng. Nhưng quả thật, cô không thấy nó đâu cả.
– Có gì không mà nhìn lâu quá vậy? – Ned la lên – Xuống đi. Tới phiên mình coi chứ.
– Bạn leo lên luôn đi. Cành cây đủ chắc mà.
Khi Ned đã leo lên, Alice kể cho cậu về vật lạ với hình thù kỳ dị làm bằng sắt và về bàn tay xương xẩu mà Bess một mực nói rằng đã trông thấy thò ra khỏi ống khói. Không chừng có ai đó đã leo từ trong lòng ống khói lên tới tận đỉnh để gỡ cái biểu tượng ấy ra chăng.
– Bí ẩn càng ngày càng dày đặc thêm – Alice thở dài.
– Điều gây ấn tượng hơn cả – Neđ góp ý – đó là sự thiếu vắng mọi dấu hiệu của sự sống. Bạn có nghĩ rằng có kẻ náo đó đã…
Cậu chưa kịp nói hết ý nghĩ của mình, thì một tiếng thét nữa lại vang lên. Một tiếng thét, hệt như hồi nãy, nghe từa tựa như là: “Kiu!”. Lần này nữa, họ cũng không sao khẳng định được tiếng thét hãi hùng ấy có phải đã phát ra từ bên trong khu đất có rào vây quanh hay không.
Gần như cùng lúc đó, họ lại nghe vang lên những tiếng răng rắc.
– Cành cây gẫy rồi! – Ned la hoảng.
Những đã trễ quá rồi. Sau tiếng “rắc” và tiếng rào rào của cành cây va đập, đôi bạn bỗng thấy mình nằm lăn quay bên nhau trên mặt đất, đau điếng người.
– Bạn bị thương hả? – Ned hỏi, lo lắng vì không thấy Alice trồi dậy.
Alice xoa xoa mắt cá chân.
– Chút nữa là đỡ ngay thôi… Hình như hơi bị trật chân một chút thôi mà.
– Cuộc điều tra tạm dừng ở đây thôi – Ned dõng dạc nói – Để mình đưa bạn ra xe nếu không ngày mai bạn sẽ phải có mặt ở đám cưới với cái chân khập khiễng đấy!.
Nói rồi Ned tới đỡ Alice dậy, dìu cô đi.
Dù trong lòng hết sức muốn tiếp tục những cuộc lùng kiếm, Alice cũng không thể không thấy rằng Ned có lý. Đi bên Ned cô chợt nghĩ giá như không có những điều bí hiểm kia thì việc dạo chơi cùng Ned trong khu rừng này sẽ thú vị biết bao. Cuối cùng họ trở lại chỗ đậu xe. Sau đó, Alice thả Ned xuống dọc đường, tại Mapletone, khu ngoại thành của River City.
– Tạm biệt Alice, mai gặp lại nhé! – Cậu nói – Nhớ giữ gìn đôi chân của bạn đừng để mình phải nhảy với một cô nàng khập khiễng!
Alice nhăn mũi để trêu Ned và lái xe đi tiếp. Trên đường về nhà, cô lại không ngừng nghĩ đến khu đất kín cổng cao tường nằm giữa rừng cây. Hai thông tin do nhà địa chất cung cấp: tin về cái lò rèn thời xưa và tin về “thứ đất sét cực mịn” đã đưa họ đến cùng một điểm: khu vực có vách rào đóng bằng ván.
Kaolanh có nằm bên trong đó không? Chủ sở hữu khu đất có biết điều ấy không? Alice cắn chặt răng. Phải khám phá bằng được điều ấy. Mà không lâu đâu!
 
o O o
 
Lúc Alice bước vào vườn, bà vú Sarah đi đến với nét mặt đầy vẻ lo âu.
– Có chuyện gì không ổn vậy, vú? – Alice hỏi dò.
– Đã nửa giờ rồi, ông Triệu không ngớt gọi điện đòi gặp con. Ông ấy có vẻ bị xúc động lắm thì phải!
– Con chạy vào gọi cho bác ấy liền đây – Alice đáp.
– Vô ích! Ông ấy hiện đang ở đồn cảnh sát.
– Sao vậy vú?
– Vú làm sao biết được. Nhưng vú cảm thấy dường như ông ấy đang gặp rắc rối to đấy.
Alice trở lại xe và lao vụt đi. Mỗi vòng bánh xe lăn, cô đều tự hỏi không biết cảnh sát muốn gì mà lại làm tội làm tình một ông già như ông Triệu?
Tại văn phòng cảnh sát trưởng Stevenson, người đầu tiên Alice nhìn thấy lại chính là ông Triệu, ngổi ủ rũ trên một cái ghế dựa. Cô đưa mắt hết nhìn viên cảnh sát trưởng lại nhìn cụ già người Hoa.
– Có chuyện gì vậy, hả bác? – Cô hỏi thăm ông khách bất đắc dĩ của đồn cảnh sát.
Ông Triệu sắp sửa trả lời, thì viên cảnh sát trưởng đã xen vào:
– Tốt nhất để tôi đích thân giải thích cho cô thì hơn. – Ông nói với Alice như nói với đồng nghiệp vì ông quen biết cô đã lâu.
Mở một tập hồ sơ để trên bàn làm việc, ông bắt đầu:
– Tôi vừa nhận được bản báo cáo này của cảnh sát New York. Một phụ nữ, tên là Marsdell, đã đâm đơn kiện ông Triệu, là người theo lời bà ta, đã bán cho bà ta một chiếc bình cổ giả hiệu; để làm bằng, bà ta đã trình nạp một cuốn ngân phiếu 500 đô la Mỹ gửi cho ông Triệu. Chúng tôi đã lập tức thẩm vấn nhân viên bưu cục ở Blackbridge – người đã chi trả số tiền ghi trên tấm ngân phiếu cho người nhận – và anh ta đã mô tả hình dáng người đến trình diện tại ghisê phù hợp với hình dáng ông Triệu đây.
Cụ già người Hoa ngước ánh mắt tuyệt vọng về phía Alice.
– Tôi hoàn toàn mù tịt về tất cả những gì liên quan đến cả cái bình lẫn tấm ngân phiếu – ông ta nói – Cô tin tôi chứ, phải không cô Roy?
– Tất nhiên rồi – Alice đáp với niềm xác tín – Thưa ông cảnh sát trưởng, chẳng hay bản báo cáo có cung cấp những chi tiết về cái bình không?
– Có đấy.
Alice ngẫm nghĩ thật nhanh và quyết định thử thời vận. Nếu cô thắng, biến cố này sẽ chỉ còn là một kỷ niệm không vui đối với ông Triệu.
– Trong ấy có nói rằng chiếc bình ấy màu nâu bóng như đồi mồi, vẽ một cụ già người Hoa ngồi dưới một gốc đào, trên bờ một hồ nước?
Viên cảnh sát trưởng trợn mắt.
– Ủa… vậy là cô… có! – Ông ta lắp bắp.
– Trong ấy cũng có nói, rằng các chữ khắc dưới đáy bình có nghĩa là: “Chế tạo cho phòng tiền đình Hương Đức?
Nỗi kinh ngạc ngăn ông cảnh sát trưởng trả lời ngay tức khắc.
– Làm thế nào mà cô biết được tất cả những điều ấy? – Mãi sau ông mới nói nên lời.
– Vì cái bình ấy chẳng qua là cái đã bị đánh cắp tại nhà ông bà Fellmor mà thôi. Cháu đã ngắm nghía nó chỉ ít phút trước khi nó biến mất.
– Thật vậy, bây giờ tôi mới nhớ là đã đọc những đặc trưng của nó trên bản báo cáo mà các phụ tá của tôi đệ trình. Việc ấy đã rọi thêm một luồng sáng mới vào vụ án này.
– Ngoài ra, không thể nào bác Triệu đây lại là kẻ trộm được vì chính cháu đã lấy các dấu chân để lại tại vườn hoa. Những dấu ấy vừa ngắn lại vừa rộng bản. Mà, như ông có thể nhận thấy đây, hai bàn chân của bác Triệu đều thon nhỏ cả.
Alice ngừng nói để lấy hơi. Ông Stevenson đưa tay lên vuốt trán.
– Phải – ông ta nói tiếp – điều này đã làm thay đổi mọi sự! Tuy nhiên, cô làm sao lý giải được là sự mô tả hình dáng người đã đến lãnh ngân phiếu lại trùng khớp với hình dáng của ông Triệu?
Alice ngẫm nghĩ hồi lâu:
– Cháu nghĩ rằng tên trộm lúc ấy đã cải trang một cặp mắt kính, một chòm râu giả, một dáng đi hơi chậm, và thế là màn kịch đã đóng xong. Còn về các giấy tờ chứng minh lý lịch, một tên trộm có thể làm giả không mấy khó khăn.
– Có thể là cô nói đúng, nhưng dù sao tôi cũng sẽ đưa ông Triệu tới Blackbridge và cho ông ta đối chất với nhân viên bưu cục. Cô có muốn đi theo chúng tôi không, cô Alice?
– Cháu rất sẵn lòng.
Trời đã về chiều khi nhóm người đặt chân vào bưu điện. Theo sự gợi ý của Alice, hai người đàn ông đứng cách một quãng trong lúc chính cô đến trình diện trước ghi-sê chi trả ngân phiếu. Cô nói tên mình và chăm chú nghe anh ta mô tả người đàn ông đã được anh ta trao lại số tiến do bà Marsdell gửi. Không còn nghi ngờ gì nữa, anh ta đang vẽ chân dung của ông Triệu.
– Chú có thể nhận ra được người đàn ông ấy nếu chú gặp lại ông ta hay không? – Cô hỏi.
– Được chứ – anh ta đáp với vẻ tự tin – Đâu có mấy khi tôi phải chi trả những khoản tiền kiểu đó, nên lúc việc ấy xảy ra, tôi rất chú ý.
Alice ra hiệu cho ông Triệu lại gần và yêu cầu ông đứng ngay trước mặt nhân viên bưu điện.
– Phải, đúng là ông ta rồi – Người này nói sau khi đã quan sát cụ già người Hoa – Tôi có thể nhận ra ông ta bất luận là ở đâu.
Alice không muốn tuyệt vọng. Lẹ lên! Cần phải tìm ra một biện pháp để cho người nhân viên thấy là anh ta đã phạm một sai lầm. Đó là cái gì nhỉ?… Phải rồi, bác Triệu có một đặc điểm riêng không dễ trùng lặp với ai. Cầm lấy một tờ biểu mẫu để gửi ngân phiếu, cô đưa cho cụ già người Hoa.
– Bác vui lòng điền vào đây giùm cháu. – Cô bảo ông.
Và quay về phía nhân viên bưu điện, cô nói nhỏ:
– Có thể một chi tiết nào đó đã thoát khỏi sự chú ý của chú chăng. Một tình tiết vụn vặt…
Alice ngừng nói khi thấy người nhân viên trợn tròn hai mắt.
– Ơ kìa! – Anh ta reo lên – Có chuyện trục trặc rồi, đúng vậy. Cái ông mà tôi chi trả tiền đã ký tên bằng tay phải, còn ông này thì lại viết bằng tay trái.
– Nếu vậy, thì chắc không phải là cùng một người rồi – Alice nói với vẻ đắc thắng.
– Không phải! – Người nhân viên họa theo – Mặt khác ông này nói tiếng Anh rất lưu loát, tôi đã để ý thấy thế khi ông ta trao đổi đôi lời với cô. Cái ông kia thì giọng nói rất nặng. Nhưng sự giống nhau giữa họ quả là quá sức tưởng tượng!
Ông Stevenson liền nói lời tạ lỗi với ông Triệu. Sau đó, họ cùng trở lại đồn cảnh sát ở River City, và Alice lấy lại xe của mình chở ông già người Hoa về tận nhà ông ta.
– Lão biết làm gì để trả món nợ này đối với cháu đây? – Ông Triệu hỏi khi bước xuống xe.
– Bác có thể trả bằng cách một ngày nào đó nói dài hơn với cháu về những đồ gốm tuyệt tác mà, suốt bao thế kỷ nay, đồng bào của bác đã sản xuất ra – Alice đáp với nụ cười trên môi.
Ông yêu cầu Alice vào nhà với mình, vì ông ao ước được tặng cô một “món quà mọn”. Trước sự khẩn khoản của ông, Alice e rằng sẽ xúc phạm ông nếu khăng khăng chối từ. Cửa ra vào bỗng nhiên bật mở. Đứng trong gian tiền đình là Lữ, gã đầy tớ của ông Triệu, bình thường vốn rất điềm tĩnh, lúc này đang để lộ những dấu hiệu sửng sốt cao độ. Trong đôi mắt mở lớn của gã thoáng lộ một vẻ không tin. Hai mí mắt gã khép lại, một nụ cười gượng kéo giãn hai vành môi và gã bắt đầu nói ào ào bằng tiếng Tàu, với những cử chỉ múa may phụ họa theo.
Ông Triệu trả lời gã bằng cùng một thứ tiếng. Cuối cùng Lữ quay nhìn Alice, nụ cười mở rộng hơn và hắn lại tiếp tục thao thao bất tuyệt những lời lẽ kỳ bí khó hiểu.
– Chú ấy nói gì vậy?- Alice hỏi.
Cụ già cất tiếng cười nhẹ:
– Chú ấy cảm tạ cháu vì đã giải thoát lão khỏi tay cảnh sát. Chú ấy mong rằng may mắn và hạnh phúc sẽ mỉm cười với cháu suốt cả cuộc đời, và mong Trời Phật sẽ đáp ứng mọi ước nguyện của cháu cũng như gia quyến.
Tên gia nhân lại nói tiếp và cụ già gật gù tỏ ý đồng tình, ra vẻ rất thích thú.
– Lữ vừa viện dẫn lời một triết gia thời xưa của Trung Quốc. “Con người đi khắp cùng trời cuối đất để tìm cầu vồng mà không thấy rằng mình đang nhốt bên trong hàng dậu của vườn nhà mình kho báu quí giá hơn hết, đó là tình bạn”.
Mỉm cười, Alice đáp lại:
– Bây giờ đến phiên cháu viện dẫn một câu ngạn ngữ, mà đây là ngạn ngữ của Mỹ: “Một người bạn trong cơn hoạn nạn mới đích thị là bạn”.
Ông Triệu có vẻ rất khoái câu ngạn ngữ này. Ông mất hút một lát rồi trở lại, cầm trong tay một lọ nhỏ đựng nước hoa trao tận tay cho Alice.
– Đây là tinh dầu glycine, nhập từ Thiểm Đô, thật ra chẳng đáng là bao – vừa nói ông vừa nghiêng mình.
– Ngày mai cháu sẽ xức, nhân dịp mừng đám cưới chị một người bạn – Alice tuyên bố sau khi đã nồng nhiệt cám ơn ông lão.
– Đám cưới cô Massey phải không? Không chừng lão sẽ gặp cháu ở đó cũng nên.
 
o O o
 
Hôm sau, ông Triệu đã là người đầu tiên mà Alice thấy mặt, khi đang bước vào nhà thờ. Ông mặc một bộ đồ truyền thống phương Đông rất đẹp.
– Cứ như ông cụ đã từ trong một bức tranh cổ bước ra vậy – Alice khẽ nói bên tai Ned, đang rất chững chạc trong vai phù rể, lúc cậu dẫn Alice vào băng ghế mà Bess va Marion đã ngồi ở đó từ hồi nào không rõ.
Cậu trai, cực kỳ thanh lịch trong bộ com-lê màu sẫm và chiếc áo sơ mi trắng, chia tay với Alice, vì đám rước dâu đang hình thành.
Lát sau, cô dâu trẻ đẹp tiến lên bàn thờ, với thân phụ nàng đi kèm. Trong chiếc áo dài bằng sa tanh trắng và đầu đội “voan” có viền đăng ten, nàng hiện ra trước mặt mọi người như thể một nữ thần trong giấc mơ, mặt sáng rỡ niềm hạnh phúc.
Bess không ngớt miệng hết “ồ!” lại “A!” vì thán phục, trong khi bà chị họ cứ xì xào xì xà như một bà già những điều khiến cô hết sức bực mình.
– Ngày nào chị lấy chồng – Marion lẩm bẩm như nói một mình – chị sẽ tổ chức âm thầm, trong vòng thân mật của gia đình mà thôi. Và cô dâu sẽ chỉ mặc một bộ đồ giản dị, đơn sơ. Chị chúa ghét cảnh ồn ào, đông đúc thế này, vừa nhức đầu vừa ngột ngạt!
Lễ nghi kết thúc với cuộc diễu hành trọng thể của đôi tân hôn và cuộc xuất hành của họ trên một chiếc xe du lịch kết đầy hoa toàn một màu trắng trinh bạch.
Alice và các bạn gái của nàng cùng đến dự buổi tiệc cưới do hai họ chiêu đãi. Sau khi đã chúc mừng đôi vợ chồng mới cưới trăm năm hạnh phúc và đã thưởng thức bánh ngọt rượu nồng, Alice và Ned đến ngắm những món quà cưới trưng bày trong một căn phòng trên lầu một.
Ông Triệu nối gót sau họ. Tia nhìn của ông chiếu thẳng hầu như tức khắc vào một hộp đựng kẹo với kiểu dáng Trung Quốc. Ông vừa nhấc nó lên vừa khẽ thốt ra những tiếng kêu đầy ngưỡng mộ.
– Nó đẹp quá, phải không bác? – Alice hỏi.
Nắp hộp được điểm tô bằng những đóa hoa mận nổi bật trên một nền men xanh dương hơi bị rạn.
– Chắc hẳn cháu cũng biết đấy – cụ già người Hoa – nói với giọng du dương như những nốt nhạc, trong đất nước của chúng tôi, nghệ thuật cũng là một thứ ngôn ngữ, ngôn ngữ không lời. Hoa mận trải qua bao thế kỷ vốn là biểu tượng tâm đắc nhất của các nghệ nhân. Một huyền thoại rất hay đã gắn liền với loài hoa này. Tương truyền có một chàng thanh niên, mắc phải một chứng bệnh mà không một lương y nào chữa trị nổi, đã tìm đến núi La Phù. Đang khi khẩn cầu Trời Phật chữa lành bệnh cho mình, chàng bỗng thấy mắt hoa lên bởi một phụ nữ đẹp vừa xuất hiện và từ người này tỏa ra một mùi thơm ngan ngát của hoa mận. Sau khi chuyện trò một lát với nàng, chàng trai đã ngủ thiếp đi. Khi chàng tỉnh giấc…
Đến đây, đôi mắt ông Triệu long lanh sáng và ông kể tiếp:
Trên mình chàng phủ đầy những cánh hoa trắng muốt như những lọn tuyết từ trên cây mận rơi xuống. Cây mận này không có ở đây trước đó. Chàng trai trồi dậy, hoàn toàn khỏi bệnh!…
– Chuyện của bác hấp dẫn quá! – Alice tấm tắc khen.
Ông Triệu đang sắp đặt hộp đựng kẹo trở lại chỗ cũ, thì bỗng gương mặt ông lộ vẻ sửng sốt và ông thốt lên một tiếng kêu bằng ngôn ngữ mẹ đẻ.
– Chuyện gì vậy thưa bác? – Alice lo lắng hỏi.
Ông Triệu đưa ngón tay đụng vào hai chữ Tàu vẽ trên một đóa hoa mà nếu không tinh ý khó lòng nhận được. Đó cũng chính là những chữ mà Alice đã nhận thấy trên cây đào trường thọ điểm tô cho chiếc bình của ông bà Fellmor trước đây.
Cô ngước ánh mắt dò hỏi lên cụ già đang há hốc miệng mà không thốt ra một âm thanh nào, làm như cụ đã bị á khẩu vậy.
– Mấy ký hiệu này có nghĩa là gì hở bác? – Alice lên tiếng hỏi.
– Đó là chữ ký của Mai Thế Nguyên, bạn của lão! – Ông khẽ thì thầm.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.