Anne tóc đỏ dưới mái nhà Bạch Dương

Chương 1 – Phần 2



Rebecca chăm chăm nhìn em không có tí xíu tươi cười nào.

“Rebecca,” dì Kate lên tiếng, và em nhận ra dì là người không bao giờ phí lời. “Cô Shirley mong muốn đến trọ ở đây. Tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể nhận cô ấy.” “Tại sao không?”Rebecca Dew hỏi.

“Tôi e rằng vậy sẽ phiền cô nhiều lắm đấy,” dì Chatty giải thích.

“Tôi bận bịu quen rồi,” Rebecca Dew đáp trả. Anh không thể tách rời hai tên này ra, Gilbert ạ. Không thể nào… dẫu hai bà góa phụ này làm được. Lúc trò chuyện họ gọi chị ấy là Rebecca. Em không biết bằng cách nào mà họ làm được thế.

“Chúng ta lớn tuổi quá rồi, không thể chịu cảnh đám thanh niên hết đến rồi đi,” dì Chatty kiên quyết.

“Đừng có vơ đũa cả nắm,” Rebecca Dew bật lại. “Tôi chỉ mới bốn lăm và chân tay còn lanh lợi lắm. Và tôi cho rằng có một người trẻ tuổi ngủ lại trong nhà thì rất hay. Một cô gái bao giờ cũng tốt hơn một anh con trai. Anh ta sẽ hút thuốc lá cả ngày lẫn đêm… thiêu chết chúng ta trong giấc ngủ ấy chứ. Nếu các bà phải nhận một khách trọ, tôi khuyên các bà nên nhận cô ấy. Nhưng đương nhiên đây là nhà của các bà mà.” Chị nói xong rồi biến mất… Homer [2] vẫn hay phát biểu câu ấy. Em biết mọi chuyện đã đâu vào đấy nhưng dì Chatty bảo em nên lênxem có hợp với gian phòng hay không.

[2] Homer: người được coi là tác giả hai sử thi vĩ đại Iliad và Odyssey.

“Chúng tôi sẽ để cho cháu ở căn phòng tháp, cháu thân mến. Nó không rộng như phòng dành cho khách, nhưng nó có ống thông khói cho lò sưởi trong mùa đông và tầm nhìn đẹp hơn. Từ cửa sổ cháu có thể nhìn thấy nghĩa địa cũ.” Em biết mình sẽ rất thích căn phòng… cái tên của nó, “phòng tháp”, khiến em phấn khích. Em cảm thấy như đang sống trong bài hát cũ mà chúng mình thường hay hát ở trường Avonlea, về cô thiếu nữ “ẩn mình trong tháp cao bên bờ biển xám”. Quả thật gian phòng dễ thương nhất trần đời. Hai bác cháu lên phòng bằng bậc góc cầu thang rẽ ngang từ chiếu nghỉ cầu thang chính. Nó khá nhỏ… nhưng không nhỏ như căn phòng ngủ trong hành lang khủng khiếp mà em từng ở năm đầu tiên đến Redmond. Nó có hai cửa sổ, một ô cửa tò vò nhìn về phía Tây và một cửa đầu hồi hướng Bắc, thêm một cửa sổ ba mặt khuôn cánh mở ra ngoài có kệ để sách bên dưới nằm ở góc tạo bởi tháp nhà. Những tấm thảm bện tròn trải dưới sàn, chiếc giường lớn trên có phủ màn và một tấm chăn hoa văn kiểu “cuộc săn ngỗng trời” nhìn phẳng phiu và mềm mượt đến mức thật đáng xấu hổ khi nằm vào làm hỏng nó. Và Gilbert ạ, chiếc giường cao đến mức em phải dùng một cái bục nhỏ di động rất tức cười mới trèo lên được, ban ngày thì cái bục được đẩy gọn vào bên dưới gầm giường. Hình như thuyền trưởng MacComber mua món đồ kỳ quặc này từ một nơi “xa xôi” nào đó rồi mang về nhà.

Có một tủ búp phê nhỏ xinh nằm nơi góc phòng, kệ trải giấy cắt hoa trắng, cửa khắc hoa văn hình bó hoa. Một chiếc gối tròn màu xanh lơ đặt trên bậu cửa sổ… cái nút đính ở ngay chính giữa khiến nó trông hệt như một chiếc bánh rán bụ bẫm màu xanh. Và còn một kệ rửa mặt dễ thương với hai ngăn… ngăn trên cùng chỉ đủ để đặt một chậu rửa mặt và bình nước màu xanh trứng sáo, kệ bên dưới để hộp xà phòng và bình nước nóng. Phòng còn có thêm một chiếc tủ nhỏ tay nắm bằng đồng chứa đầy khăn tắm, một quý cô bằng sứ ngồi ở kệ bên trên, cô nàng mang giày màu hồng, khăn quàng quai mạ vàng và cài một đóa hồng đỏ bằng sứ trên mái tóc vàng cũng bằng sứ nốt.

Cả căn phòng như được dát vàng bởi ánh mặt trời xuyên qua những tấm rèm màu bắp chín, bóng của hàng dương lá rung dệt hoa văn rọi lên bức tường quét vôi trắng, tạo thành một tấm thảm treo tường cực kỳ hiếm lạ… một tấm thảm sống động, không ngừng thay đổi và đong đưa. Chẳng hiểu vì sao nhưng gian phòng này có vẻ thật hạnh phúc. Em cảm thấy như em là cô gái giàu có nhất trên thế giới này.

“Cháu sẽ sống ổn ở nơi này thôi, thế đấy,” bà Lynde nói khi hai bác cháu rời đi.

“Cháu nghĩ cháu sẽ cảm thấy bức bối chật chội tí đỉnh sau những ngày tự do ở nhà Patty,” em nói chỉ để trêu bà ấy một chút.

“Tự do!” Bà Lynde khịt mũi. “Tự do! Đừng nói chuyện như một tay Yankee, Anne ạ.” Em chuyển đến vào ngày hôm nay, tay xách nách mang. Đương nhiên là em ghét phải rời xa Chái Nhà Xanh. Dẫu em rời xa nó thường xuyên đến đâu, lâu lắc đến đâu, một khi kỳ nghỉ đến em lại trở thành một phần của nó cứ như em chưa bao giờ rời khỏi, và trái tim em tan vỡ mỗi lúc phải nói lời từ biệt. Nhưng em biết em sẽ thích cuộc sống ở đây. Và nơi đây cũng thích em. Em luôn luôn biết khi nào một căn nhà có thích em hay không.

Tầm nhìn từ cửa sổ phòng em tuyệt lắm… kể cả khu nghĩa địa cũ được bao quanh bởi hàng linh sam sậm màu cùng con đường quanh co men theo con đê dẫn đến đó. Từ cửa sổ phía Tây em có thể nhìn thấy toàn cảnh bến cảng, đến tận những bờ biển xa tít mờ sương, cùng những chiếc thuyền buồm nhỏ nhắn mà em rất yêu thích và những chiếc tàu rời bến đi đến những “bến bờ vô định”… một cách diễn tả thật quyến rũ quá chừng! Nó hàm chứa thật nhiều “phạm vi dành cho trí tưởng tượng”! Từ cửa sổ phía Bắc em có thể nhìn thấy rừng bu lô và cây thích bên kia đường. Anh biết em luôn là người tôn thờ cây cối mà. Khi chúng mình học về Tennyson trong lớp Văn chương ở Redmond, em lúc nào cũng đồng cảm với nàng Enone tội nghiệp, mãi khóc than cho những hàng thông xanh bị đốn ngã.

Bên ngoài lùm cây và khu nghĩa trang là một thung lũng đáng yêu với con đường quanh co băng ngang lấp loáng như dải lụa đỏ và những ngôi nhà trắng điểm xuyết hai bên. Một số thung lũng thực sự rất đáng yêu… anh không thể nói rõ lý do vì đâu. Chỉ cần ngắm chúng là anh đã đủ vui sướng rồi. Và ngoài xa kia nữa là ngọn đồi xanh mướt của em. Em định đặt tên nó là Vua Bão… niềm đam mê thống trị, vân vân và vân vân.

Em có thể hết sức cô độc ở trên này khi em muốn. Anh biết mà, thỉnh thoảng cô độc một tí thì thật tuyệt. Gió sẽ là bạn của em. Chúng sẽ rên rỉ, thở dài và nức nở quanh tòa tháp em đang ẩn mình… gió đông trắng muốt… gió xuân xanh lá… gió hạ xanh lơ… gió thu đỏ tía… và gió mọi mùa hoang dại… “Gió bão vâng theo lời Người.” Em lúc nào cũng rung động trước câu thơ trong Thánh Kinh ấy… cứ như mỗi một cơn gió đều đưa một thông điệp nào đó đến với em vậy. Em luôn ghen tị với cậu bé bay cùng gió bấc trong câu chuyện cổ đầy hấp dẫn của George MacDonald. Một vài đêm, Gilbert ạ, em sẽ mở cửa chớp của tòa tháp và bước thẳng vào vòng tay của gió… và Rebecca Dew sẽ không bao giờ biết vì sao đêm đó giường em không còn người ngủ.

Anh yêu dấu ơi, em hy vọng khi chúng mình tìm thấy “ngôi nhà mơ ước”, những ngọn gió sẽ quấn quýt chung quanh. Em tự hỏi nó sẽ nằm ở đâu… ngôi nhà vô định ấy. Liệu em sẽ yêu nó hơn dưới ánh trăng hay vào lúc bình minh? Tổ ấm tương lai là nơi chúng mình sẽ có đủ tình yêu, tình bạn và công việc… thêm vào vài ba cuộc phiêu lưu ngộ nghĩnh đủ mang lại tiếng cười cho tuổi già của chúng mình. Tuổi già! Liệu chúng mình có bao giờ già không hở Gilbert? Dường như đó là điều không thể.

Từ cửa sổ bên trái trên tháp em có thể thấy những mái nhà của thị trấn… nơi em sẽ sống ít nhất một năm trời. Những người đang sống trong những ngôi nhà đó sẽ là bạn của em, mặc dù giờ em vẫn chưa biết họ. Và có lẽ sẽ là kẻ thù của em nữa. Bởi hạng người như bà Pye ở đâu cũng có, với đủ tên gọi khác nhau, và em biết đám người họ Pringle cũng thuộc hạng ấy. Ngày mai là khai giảng rồi. Em sẽ phải dạy môn hình học! Hẳn là không thể nào khủng khiếp hơn chuyện phải học nó rồi. Em cầu nguyện trời cao ban phước để không có thiên tài toán học nào họ Pringle.

Em chỉ mới ở đây được nửa ngày, nhưng em cảm thấy như mình đã quen hai bà góa và Rebecca Dew từ lâu lắm rồi. Họ bảo em gọi họ là “dì” và em cũng bảo họ gọi em là Anne. Có lần em gọi Rebecca Dew là “chị Dew”…

“Chị gì cơ?” chị ấy hỏi lại.

“Dew,” em yếu ớt đáp. “Không phải là tên của chị hay sao?” “À, ừ, đúng thế, nhưng lâu lắm rồi chẳng ai gọi tôi là chị Dew cả nên tôi nghe mà giật bắn mình. Tốt nhất là đừng gọi tôi như vậy nữa, cô Shirley ạ, tôi nghe không quen chút nào.” “Em sẽ nhớ, chị Rebecca… Dew,” em cố gắng hết sức để không gọi thẳng họ Dew của chị ra nhưng không thành công.

Bà Braddock khá đúng khi nhận xét rằng dì Chatty rất nhạy cảm. Em phát hiện điều này trong bữa ăn tối. Dì Kate đã nói gì đó về “sinh nhật thứ sáu mươi sáu của Chatty.” Tình cờ đưa mắt sang dì Chatty và em thấy dì đã… không, không phải là òa lên khóc. Thuật ngữ đó quá dữ dội so với hành động thực tế của dì. Dì chỉ trào nước mắt mà thôi. Những giọt nước mắt dâng đầy trong đôi mắt nâu to của dì rồi tràn ra ngoài một cách thầm lặng và dễ như không.

“Lại gì đây hở Chatty?” dì Kate hỏi có phần nghiêm khắc.

“Đó… đó chỉ mới là sinh nhật thứ sáu mươi lăm của em thôi,” dì Chatty sụt sịt.

“Tôi xin lỗi nhé, Charlotte,” dì Kate lên tiếng… và thế là sau cơn mưa trời lại sáng.

Con mèo trong nhà là một chú mèo đực to đùng rất đáng yêu với đôi mắt vàng, lớp lông duyên dáng hệt một tấm vải lanh Malta màu xám tro không chê vào đâu được. Dì Kate và dì Chatty gọi nó là Xám Tro, bởi vì đó đúng thật là cái tên dành cho nó, và Rebecca Dew gọi nó là Mèo vì chị ấy ghét nó và hậm hực trước việc phải cắt cho nó hẳn một miếng gan mỗi buổi sáng và mỗi buổi chiều, dùng một bàn chải đánh răng cũ để quét lông nó khỏi chiếc ghế bành nơi phòng khách mỗi khi nó lẻn vào, và lùng bằng được nó mỗi khi nó ở bên ngoài quá khuya.

“Rebecca Dew vốn ghét mèo sẵn rồi,” dì Chatty kể với em, “và cô nàng đặc biệt không yêu Xám Tro. Con chó của bà già Campbell… hồi đó bà ấy vẫn còn nuôi chó… ngậm nó trong miệng đưa đến đây hai năm trước. Tôi nghĩ con chó ấy cho rằng đưa mèo đến cho bà Campbell thì cũng chẳng ích gì. Con mèo con khốn khổ đáng thương, ướt chèm nhẹp, run cầm cập, bộ xương bé xíu tội nghiệp như lòi cả ra ngoài. Tim có bằng đá cũng chẳng nỡ từ chối không cho nó vào nhà. Thế là Kate và tôi nhận nuôi nó, nhưng Rebecca Dew không bao giờ thực sự chịu tha thứ cho chúng tôi. Lúc ấy chúng tôi cư xử chưa thực sự uyển chuyển cho lắm. Lẽ ra chúng tôi nên từ chối không nuôi nó. Không biết cháu có để ý…” Dì Chatty thận trọng liếc nhìn ra cánh cửa thông giữa phòng ăn và nhà bếp… “đến cách thức chúng tôi đàm phán với Rebecca Dew không.” Em quả thực có để ý thấy thế… và chỉ xem thôi cũng đủ thú vị rồi. Summerside và Rebecca Dew có thể cho rằng chị ấy mới là sếp sòng trong nhà, nhưng các bà góa thì nghĩ khác cơ.

“Chúng tôi không muốn nhận tay chủ nhà băng ở trọ… một tay trẻ tuổi quá sức không an toàn và chúng tôi sẽ phải băn khoăn nhiều nếu anh ta không chịu đi nhà thờ thường xuyên. Nhưng chúng tôi giả vờ là đồng ý và Rebecca Dew đến lắng nghe cũng chẳng thèm nữa là. Tôi rất vui vì có cháu đến trọ, cưng ạ. Tôi chắc rằng nấu ăn cho một người dễ thương như cháu thì thật bõ công. Tôi hy vọng cháu sẽ quý mến tất cả chúng tôi. Rebecca Dew có một vài phẩm chất cực kỳ tốt. Khi mới tới đây mười lăm năm trước. Cô nàng không được ngăn nắp sạch sẽ như bây giờ đâu. Có lần Kate phải viết tên của cô nàng… “Rebecca Dew”… ngay trên gương trong phòng khách để đánh dấu lớp bụi. Nhưng chị ấy không bao giờ phải làm chuyện này thêm một lần nữa. Rebecca Dew hiểu ý rất nhanh. Tôi hy vọng cháu sẽ thấy thoải mái trong phòng của mình, cưng ạ. Cháu có thể mở cửa sổ vào ban đêm. Kate không mấy tán thành không khí lạnh vào buổi tối, nhưng chị ấy hiểu là khách trọ cũng có quyền riêng của mình. Tôi và chị ấy ngủ chung, chúng tôi thỏa thuận là đêm này thì cửa sổ đóng theo ý chị ấy, đêm sau thì cửa sổ mở theo ý tôi. Những vấn đề nhỏ nhặt như thế luôn có cách giải quyết mà, cháu có nghĩ vậy không? Muốn là được thôi. Đừng sợ khi nghe tiếng Rebecca lục đục trong đêm. Cô nàng luôn nghe thấy những tiếng động lạ và thức dậy đi xem tận mắt. Tôi cho rằng đó là lý do cô nàng không muốn tay chủ nhà băng trọ. Cô nàng sợ bị anh ta bắt gặp trong bộ đồ ngủ mà. Tôi mong cháu sẽ không phiền khi Kate chẳng mấy khi mở miệng. Tính chị ấy là thế, mà chị ấy có bao nhiêu là chuyện để mà nói… hồi trẻ chị ấy từng chu du khắp thế giới với Amasa MacComber đấy. Ước gì tôi có đủ chuyện để nói như chị ấy, nhưng tôi chưa từng đặt chân ra khỏi đảo Hoàng Tử Edward. Tôi từng tự hỏi sao chuyện trên đời lại sắp đặt ra thế này… tôi mê tám chuyện nhưng chẳng có chuyện gì để tám, còn Kate có tất cả nhưng lại ghét mở miệng. Nhưng tôi cho rằng Chúa Trời biết điều gì là tốt nhất cho chúng ta.” Mặc dù dì Chatty đúng là thích luyên thuyên thật nhưng dì ấy không nói hết tất cả những điều trên mà không thèm nghỉ lấy hơi. Em có chen vào vài ba câu nhận xét tại những thời điểm phù hợp, nhưng chúng chẳng mấy quan trọng.

Bọn họ nuôi một con bò thả rông trong nông trại của ông James Hamilton ở đầu đường, và Rebecca Dew đi đến đó để vắt sữa. Muốn bao nhiêu kem cũng có và mỗi buổi sáng chiều, em thấy Rebecca Dew đưa một cốc sữa mới qua lỗ hổng trên cánh cổng vườn cho “bà giúp việc” của bà Campbell. Đó là dành cho “bé Elizabeth”, người phải uống sữa theo lệnh của bác sĩ. Em vẫn chưa khám phá ra bé Elizabeth hay “bà giúp việc” là ai. Bà Campbell là bà chủ nhà sống ở ngay trong tòa pháo đài láng giềng… có tên là Thường Xuân.

Em không nghĩ là tối nay mình sẽ ngủ được đâu… Em không bao giờ ngủ đêm đầu tiên trên một chiếc giường lạ, mà chiếc giường này là chiếc giường lạ nhất mà em từng thấy. Nhưng em không phiền đâu. Em lúc nào cũng yêu ban đêm và em thích nằm yên đó mà ngẫm nghĩ về mọi chuyện trong cuộc sống, quá khứ, hiện tại và tương lai. Đặc biệt là tương lai.

Đây là một bức thư cực kỳ tàn nhẫn, Gilbert ạ. Em sẽ không hành hạ anh bằng một bức thư nào dài như thế này nữa đâu. Nhưng em muốn kể cho anh biết tất cả mọi chuyện, để anh có thể tự mình hình dung những gì đang diễn ra quanh em. Em phải dừng bút thôi, bởi ở ngoài bến cảng xa tít, mặt trăng đang “chìm vào cõi mơ”. [3] Em còn phải viết một lá thư cho bác Marilla nữa. Nó sẽ đến Chái Nhà Xanh vào ngày mốt và Davy sẽ đem nó về từ bưu điện, cu cậu và Dora sẽ xúm quanh Marilla khi bác ấy mở thư và bà Lynde sẽ dỏng cả hai tai lắng nghe… Ôiii! Cảnh tượng ấy làm em nhớ nhà rồi. Ngủ ngon nhé, anh yêu nhất đời, từ cô gái bây giờ và mãi mãi sẽ là, “Người yêu quý nhất của anh”

ANNE SHIRLEY.

[3] Trích trong bài thơ Trăng lặn của Emily Pauline Johnson.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.