Bà Đại Sứ

12. Mùa đông có tuyết



Mùa đông sau, Helen và cô Ann trở lại Viện Perkins. Sắp được gặp lại các bạn cũ, Helen vui lắm. Còn cô Ann thì đang cần thống nhất lại chương trình học với giáo sư Anagnos, bởi cô học trò nhỏ của cô luôn đạt được tiến bộ nhanh hơn nhiều so với những gì người ta có thể hy vọng.

Đó là lần đầu tiên Helen trải qua mùa đông ở miền Bắc. Thật vui sướng với ý nghĩ được thấy tuyết. Bang Tuscumbia khí hậu nóng, nên chẳng thể biết tuyết ra sao khi sống ở Alabama.

Cô Ann và Helen rất ngạc nhiên vì lạnh quá, lạnh hơn nhiều so với mùa thu ở nhà. Miền Bắc không có mimoza cũng không có hoa tu-líp, nhưng cô bé vẫn thích cùng cô Ann dạo trong công viên, cảm thấy những chiếc lá khô giòn dưới mỗi bước chân đi. Những ngón tay cô Ann kể với em rằng:

– Cây cối mang một màu nâu sẫm và hầu như trụi lá. Nhìn qua các cành cây thấy từng mảng trời lỗ chỗ như ren thêu diềm váy mẹ. Thiên nhiên nơi đây không vui tươi, sống động và mượt mà như ở Tuscumbia, nhưng dù vậy, nó vẫn rất đẹp, một vẻ đẹp khác, dịu dàng và trầm lắng hơn.

Ann và Helen có thêm những người bạn mới ở miền Bắc, trong số họ có gia đình Chamberlin, một gia đình rất mến khách sống ở “Trang Trại Đỏ”, gần làng Wrentham, cách Boston khoảng 40km. Ông Chamberlin thường viết bài cho tờ “Transcrip”, một trong các tờ báo hay nhất ở Boston.

Đã nhiều lần gia đình Chamberlin mời cô Ann và Helen đến ngôi nhà họ nghỉ đông. Trang Trại Đỏ là một nơi rất sống động, rất nhiều trẻ con, và cả chó con, mèo con nữa. Ngôi nhà – thực tế là cả một khu đất rộng mênh mông ấy, thật thoáng đãng và giàu có tới từng ngóc ngách. Trang trại nhìn xuống Hồ Vua Phillip, là nơi cái tên đã được “những người mở đất” đặt cho, chính là những người nông dân Anh này đã gây dựng nên Plymouth.

Hôm tuyết bắt đầu rơi, Helen đang chơi ngoài trời với lũ trẻ nhà Chamberlin, người được trang bị đủ thứ khăn, mũ, áo, chỉ hở có đôi mắt, còn chân được ủ ấm trong đôi ủng lông. Cô Ann bỗng vội vàng rút tay em ra khỏi một chiếc găng, xòe tay cho Helen đón bông tuyết đầu tiên trong cuộc đời. Từng bông tuyết lớn rơi trên tay em.

– Chúng từ đâu đến thế? – Tay Helen bối rối hỏi.

Dĩ nhiên, khi tiếp xúc với tay em, những bông tuyết dần tan ra, và cô bé, vẻ hoài nghi, nắm nắm bàn tay, ngạc nhiên vô cùng khi chỉ còn thấy một chút nước lạnh ngắt.

Tuyết tiếp tục rơi cả buổi chiều, và đến tối, một đợt gió mạnh bắt đầu thổi. Ngôi nhà run rẩy, kêu cót két, những cành cây oằn mình vì gió và tuyết. Helen chăm chú lắng nghe những chuyển động quanh mình.

Cả nhà tụ tập bên đống lửa. Thật ấm áp và thoải mái, tất cả đều vui vẻ! Ông Chamberlin nướng ngô, mùi thơm thật quyến rũ. Những đứa trẻ nhà Chamberlin hát và kể rất nhiều chuyện, tay cô Ann không ngừng đánh vần, chẳng hề biết mệt mỏi, mọi điều cho Helen.

Sáng hôm sau, trời đẹp tuyệt vời: bầu trời xanh ngắt, mặt trời rực rỡ và tuyết lấp lánh dưới ánh nắng.

Bọn trẻ rủ Helen đi chơi và chỉ cho em cách làm một người tuyết khổng lồ. Đôi găng tay đỏ của cô bé đã ướt sũng cả, nhưng em không cảm thấy lạnh, em quá vui!

Buổi chiều, ngài Chamberlin lôi ra một chiếc xe trượt tuyết to đùng.

– Cô có nghĩ là Helen sẽ sợ nếu chúng ta cho cô bé lên xe trượt tuyết không? – ông hỏi cô Ann.

Không có cô người ta chẳng bao giờ dám nêu ra một ý tưởng nào, càng chẳng thể có một quyết định nào.

– Không! Chắc chắn rồi! – Hai cô trò cùng hăng hái.

Những đứa trẻ dồn cả lên xe và cô cũng lên cùng lũ trẻ. Chiếc xe trượt được lắp đặt vào vị trí, chỉnh cho thăng bằng trên đỉnh dốc dựng đứng đổ xuống Hồ Vua Phillip. Không hề có nguy cơ bị chìm khi chạm mặt hồ: nó đã bị đóng băng cứng từ bờ này sang bờ kia với độ dày hơn một mét.

Cô Ann giải thích cho Helen cần phải giữ chắc như thế nào và những gì sẽ diễn ra.

– Chúng ta sẽ lao xuống rất nhanh. Vì vậy em cần bám thật chặt vào! Cô ở ngay sau em thôi. Dựa sát vào cô và khi em thấy cô ngả người thì em cũng làm theo cô. Rồi em xem, sẽ rất vui!

Khi tất cả đã sẵn sàng, ông Chamberlin hét lên:

– Khởi hành!

Cậu con trai lớn đã không trèo lên xe trượt, cậu đứng ở đuôi xe đẩy mạnh một cú. Và hốp! Cuộc chơi bắt đầu.

Chiếc xe trượt xuống dốc với một tốc độ chóng mặt. Helen sửng sốt trong giây lát. Những “khách du lịch” nhảy qua các hố sâu, lao thẳng qua những bướu tuyết như một tia chớp. Tất cả diễn ra rất nhanh, nhanh hơn nhiều so với tả lại bằng lời. Họ tiếp xuống mặt hồ đóng băng và theo đà kéo đi một đoạn dài. Chiếc xe lướt qua mặt băng gồ ghề và xới tung những bông tuyết rơi trên hồ, những hạt tuyết li ti bắn lên má Helen buốt lạnh. Thật vui, thật tuyệt diệu, thật ngây ngất. Helen có ấn tượng mình đang bay như một chú chim, hoàn toàn mất thăng bằng. Em cười mãi, cười mãi…

Đến cuối hồ, chiếc xe chậm dần và dừng lại. Bọn trẻ nhảy tưng lên, cứ như phát điên vì sung sướng, cùng rũ tuyết đang phủ từ đầu đến chân.

– Helen có thích không? – ông Chamberlin hét lên từ trên đỉnh dốc.

– Chắc chắn là có rồi! – cô Ann đáp lại.

Cô bật cười giòn tan vì Helen vừa rút tay ra khỏi găng, những ngón tay gần như cóng lại, đỏ ửng, vẫn cố đánh vần nhanh nhất:

– Nữa! Nữa đi cô!

Tất cả những ngày nghỉ còn lại là những cuộc chơi cũng vui như thế, chơi trong tuyết, chơi với tuyết. Những đứa trẻ nhà Chamberlin thích cô bé Helen này lắm vì cô bé chẳng sợ gì cả. Cũng có những giờ phút hiền hòa hơn, như chuyến đi dạo bằng xe kéo trên tuyết với cô Ann. Thật ấm áp và dễ chịu khi ngồi giữa những tấm da trâu và cỏ khô. Ánh mặt trời phản chiếu trên tuyết hôm đó đỏ rực đến nỗi đôi mắt mù lòa của cô bé hôm đó cũng có được đôi chút cảm nhận. Helen hơi thảng thốt vì sự thiếu vắng của các mùi. Đây là cây thông, em có thể nhận ra chúng khi sờ lên lớp vỏ cây sần sùi, và vài ba nhánh lá mắc lại; nhưng em không ngửi thấy mùi nhựa thông quen thuộc. Sự thiếu vắng ấy như một điểm tương đồng với không gian tĩnh lặng bao trùm lên khung cảnh thiên nhiên trong những ngày tuyết rơi hiền hòa.

Mùa đông cực vui đó cũng là mùa đông học tập. Helen và cô Ann không hề để chậm chương trình học của Viện Perkins. Helen không lên lớp được cùng các bạn mù khác trong viện, nhưng em vẫn có những giờ học riêng tất cả các ngày với cô Ann.

Em học ngữ pháp tiếng Anh, Địa lý, Lịch sử nước Mỹ và Số học. Helen tỏ ra không nhiệt tình lắm khi bước đầu tìm hiểu niềm vui của những phép toán. Cô Ann dạy em đếm bằng những hạt cườm xâu thành túm và chơi với các bao diêm mà cô thêm vào hay bớt đi. Song, dần dần, em bắt đầu có tiến bộ và sự ham học đến với em. Điểm này càng đáng khâm phục hơn, bởi để nhân, chia, cộng, trừ em phải lưu các con số lại trong đầu chứ không thể đọc được những gì em đã viết bằng bút chì.

– Tôi cũng không hiểu tại sao em làm được thế! – Ann Sullivan nói với giáo sư Anagnos – Em quả có một trí nhớ thật tuyệt vời!

Helen rất mê thư viện trường Perkins, các giá sách chất đầy những cuốn sách in bằng chữ Braille. Em ngồi hàng giờ, những giờ phút thật thú vị, tay lướt trên những trang sách, trên những dòng chấm nổi. Các cuốn sách em đọc thường là sách cho trẻ em, nhưng đôi khi cũng là sách cho người có trình độ cao hơn. Em thấy chúng thật hấp dẫn. Em không hiểu được hết các từ nhưng vẫn quả quyết đọc tiếp và nghĩa của chúng lờ mờ hiện ra. Cô Ann hàng ngày vẫn giúp em làm giàu vốn từ, và nhờ vậy, những từ mới có hình dạng ngày càng rõ nét trong ý nghĩ của em.

Sang tháng Hai, ngày bắt đầu dài hơn, mùa hè sắp đến! Mùa hè có nghĩa là trở về Tuscumbia. Helen nóng lòng gặp lại bố mẹ và em gái Mildred, bây giờ Helen đã yêu em lắm rồi; và nhất là em muốn được thấy chú chó giữ nhà giống Anh mà một người bạn “hâm mộ” đã gửi tặng em nhân dịp Noel. Khi ấy, bà Keller còn chưa biết viết chữ Braille, nhưng vì muốn có niềm vui được tự tay viết thư báo tin cho Helen về món quà, bà đã chuyên chú học rất nhanh. Lúc đến Tuscumbia, chú chó chỉ là một chú cún bé tí.

Helen đã đặt tên cho nó là “Sư Tử”, để ghi nhớ lại chuyến thăm rạp xiếc ngày nào và “khoảnh khắc” ở trong lồng, bên chúa sơn lâm.

– Em hi vọng khi em về mùa hè này, Sư Tử vẫn chỉ là một chú chó con – Helen nói với cô Ann – Em biết nó sẽ lớn nhanh và khỏe hơn em rất nhiều, nhưng giá nó vẫn bé nhỏ để em có thể bế trên tay.

Helen đếm từng ngày mong đến kỳ nghỉ hè, nhưng trong đầu em còn đang nung nấu một dự định khác, nghiêm túc hơn nhiều. Một dự định mà ban đầu dường như không tưởng, nhưng Helen vẫn bám chắc lấy nó với sự ngoan cố đặc biệt cuả một cô bé chín tuổi. Em đã có lý và mong muốn của em – điều giống như một giấc mơ – mùa xuân năm ấy đã thành sự thực, bằng một cách mà không ai biết, kể cả Helen, chờ đợi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.