Ba Vụ Bí Ẩn

CHƯƠNG 3



Tuần tiếp theo sau đại hội, Jeff không có thời gian đọc sách. Ngoài học hành, Jeff còn lo việc bán buôn hằng năm của Hội Thể Thao. Cuộc bán buôn này, dùng để gây quỹ cho Hội, luôn luôn diễn ra ngoài thành phố, trong một kho thóc. Hàng ngàn người đến đó để mua bất cứ một cái gì, từ cái tủ lạnh cũ cho đến đôi giày trẻ con. Nhưng cần phải nhắc mọi người chuẩn bị đồ cho, rồi sau đó ghé lấy, tất cả phải làm trước mấy tuần lễ.
Jeff đã thăm dò xong khu vực được giao. Người ta hứa sẽ cho quần áo, sách, dụng cụ cũ, đài radio, bàn ghế hư, hai tủ lạnh và thậm chí ba bó rơm. Các tài xế xe tải sẽ lo chở những món đồ nặng nhất, nhưng thầy Matthews có hứa với Jeff là ngày thứ bảy thầy sẽ lái xe đến giúp chở những thứ còn lại.
Phía sau xe và cốp xe được chất thùng carton chứa quần áo, giày dép đủ số chân và đủ hình dáng, vật dụng và sách vở. Rồi hai thầy trò lên đường đi đến nông trang của Tony Higgins. Tony sở hữu kho thóc rộng và trống duy nhất gần thành phố, nên cuộc bán buôn luôn diễn ra tại nhà ông.
Lúc xe rẽ vào con dường dẫn lên kho thóc, Jeff nhớ đến nhà văn được giới thiệu. Harley Newcomb, sống trong ngôi nhà nhỏ do Tonny xây.
– Không hiểu ông Newcomb viết xong quyển sách chưa? Jeff nói.
– Có lẽ xong rồi – thầy Matthews trả lời. Ông đã nói cuối tháng sẽ viết xong và hôm nay là ngày ba mươi rồi. Ông có mời chúng ta ghé thăm. Ta có thể sang nhà ông khi dỡ hàng khỏi xe xong, nếu ông viết xong quyển sách, thì chắc có nhiều chuyện hay để kể lắm. Ông ta từng quen với Conan Doyle, “cha đẻ” của Sherlock Holmes.
Sau khi chạy vòng qua bụi cây, xe dừng lại trong sân nông trang nơi Tony Higgins sống với vợ. Sân đầy bụi; nhà cửa như sắp sập đổ. Hai con dê cột ở góc kêu be be khi thấy khách đến. Còn chủ nông trang, một người đàn ông vạm vỡ, ngoài tứ tuần, mặc bộ áo liền quần cũ sờn và có mái tóc không biết đến thợ hớt tóc từ lâu, ngước mắt lên, ra hiệu chào.
Tony Higgins đang cưa một phiến gỗ, mà dường như ông sẽ dùng để nâng mái một nhà chái, che chiếc xe tải thời tiền sử của ông. Hiện tại, góc mái đang tựa trên một khúc gỗ quá ngắn, còn chính khúc gỗ tựa trên cái kích chiếc xe tải, mà cái kích không đạt được đủ chiều cao cần thiết nếu không có cái đế gồm vài viên gạch.
Nếu suy nghĩ kỹ, tất cả cho thấy nguyên nhân tại sao kho thóc của ông Higgins luôn trống rỗng và sẵn sàng cho cuộc bán buôn hàng năm của hội. Thật vậy, Tony không thích cực nhọc. Nên từ lâu ông không còn chăm lo đất đai nghiêm túc nữa. Do đó, ông không có gì để cất vào kho thóc cả.
– Chào – ông nói và từ từ đứng thẳng người dậy. Hôm nay trời đẹp…
– Rất đẹp – thầy Matthews thừa nhận. Jeff và tôi chất hàng vào kho thóc được không?
– Cứ tự nhiên – Tony đáp. Nếu không có việc quan trọng cần làm, tôi đã giúp hai người rồi.
Thầy Matthews nháy mắt với Jeff.
– Tụi này thấy rồi, anh Tony à!
Thầy giáo và Jeff bắt đầu khiêng thùng carton vào kho thóc, trong đó vẫn còn mùi rơm và mùi bụi bậm. Những người đi gom góp đồ đã ghé qua trước hai thầy trò rồi, nên trong kho đã có một núi đồ đạc linh tinh sẽ phải chọn lọc lại để chuẩn bị cho cuộc buôn bán.
– Năm nay, Tony sẽ lãi to! Thầy Matthews cười nhận xét.
Thay vì trả tiền thuê kho thóc cho ông Higgins, Hội Thể Thao bỏ lại cho ông tất cả những gì không bán được. Luôn còn lại một số quần áo cũ, dụng cụ, đài radio cũ, đôi khi cái máy giặt còn sửa được, giường, bàn ghế, v.v.
– Không hiểu ông Tony làm gì với đồng đồ phế thải còn lại – Jeff vừa nói vừa đi lấy cái thùng khác trong xe. Thầy có nghĩ chú ấy bán lại được không?
– Tất nhiên – thầy Matthews nói. Tony thích ngồi một chỗ sửa một cái máy cũ hơn là làm ruộng. Vợ ông ta vá quần áo cũ và họ cũng bán lại được. Có lúc họ may mắn và trúng mánh! Đôi khi có người cho quần áo đẹp, cũ xưa. Không ai chịu mua. Khi đó, Tony cất bỏ trên tầng nóc. Mà mọi giám đốc đoàn kịch nói đều biết rằng, nếu cần tìm y phục, thì có nhiều cơ may tìm thấy ở đây. Tony đòi một giá cũng khá. Những khoản thu nhập nhỏ nhỏ này giúp ông sống. Ông ta coi vậy chứ không ngờ, nhưng hàng xóm đều biết ông đánh hơi được một đồng đô-la cách xa hai kilômét!
Khi chất đồ xuống xe xong, ông Higgins vẫy tay tạm biệt hai thầy trò.
– Nếu không bận tôi đã giúp một tay rồi – ông nói.
– Chúng tôi sẽ còn trở lại! Thầy Matthews vừa nói vừa rồ máy xe. Còn bây giờ – thầy quay sang nói với Jeff – ta hãy vòng qua bụi cây này ghé thăm ông Harley Newcomb.
Theo đường bộ, ngôi biệt thự nhỏ nằm cách xa bốn trăm mét. Nhà nằm cách biệt, có cây cối xung quanh; cách ly trong rừng như vậy bảo đảm sự cô độc cần thiết cho nhà văn.
– Thầy Matthews ơi – Jeff kêu, khi xe chạy trên lối đi – thầy xem kìa! Thùng thơ ông ấy đầy tràn!
– Hừm! Đúng.
Hai thầy trò xuống xe và thầy giáo quay lại nhìn thùng thư đầy nhóc báo và tạp chí đến nỗi nắp thùng hé mở.
– Sữa nữa! Ông ấy cũng không lấy – Jeff nhận xét.
Thầy Matthews thấy ba chai sữa đầy đặt trước cửa.
– Có lẽ ông ấy đi vắng – thầy giáo nói. Ta cứ đến gõ cửa thử.
Thầy bước trên đường mòn rải sỏi dẫn đến cửa vào ngôi nhà, là một kiến trúc nhỏ bằng đá kiên cố. Thầy gõ cửa.
Không có trả lời. Thầy gõ thêm lần nữa.
– Jeff ơi, em thử nhìn qua cứa sổ xem sao! Thầy nói.
Jeff tiến lại gần một cửa sổ và cố nhìn vào bên trong. Jeff kêu lên ngạc nhiên, khiến thầy Matthews chạy đến.
– Có ai đã đóng đinh những tấm ván trên cửa sổ, từ bên trong, mỗi tấm ván cách nhau khoảng hai centimét. Khi nhìn qua khe hở, chỉ thấy có bóng tối và không có dấu hiệu gì của ông Newcomb hết.
Thầy Matthews và Jeff đi vòng qua nhà, nhà chỉ có một tầng trệt. Tất cả các cửa sổ đều bị bít kín từ bên trong. Cửa chính và cửa sau đều bị khóa.
– Jeff – thầy Matthews ra lệnh – em chạy đi tìm ông Tony Higgins đi! Em dặn ông ta lấy chìa khóa và cái rìu theo. Có thể ta sẽ phải phá cửa. Thầy sợ có chuyện xảy ra.
Thầy giáo chưa nói xong, Jeff đã chạy rồi. Cậu chạy qua cái gara. Xe của ông Newcomb đang đậu trong đó, vậy là nhà văn chưa đi khỏi đây.
Jeff lần theo đường mòn. Cậu băng qua khu rừng nhỏ, bước dọc theo cái hồ, vượt qua con suối nhỏ rồi chạy vào sân sau nông trang của Tony. Bầy gà kêu cục tác bỏ chạy.
– Chú Higgins ơi! Jeff la lên. Nhanh lên! Nhanh lên! Ông Newcomb biến mất rồi.
Tony Higgins đứng thẳng người dậy, nhanh nhẹn đáng kinh ngạc.
– Biến mất? Không trả tiền nhà à? Ông ta không có quyền làm thế.
– Chú có thể lấy chìa khóa và rìu theo được không? Xin chú đi nhanh ạ.
Ông chủ nông trang cũng hoảng sợ lây, cầm vội cây rìu và đi ngay.
– Tôi có chìa khóa trong xâu rồi – ông ta vừa nói vừa khoe một xâu chìa khóa vĩ đại, đủ mọi hình dáng và đủ mọi kích thước. Tên viết lách bị gì vậy?
– Chúng tôi không biết. Toàn bộ ngôi nhà bị đóng ván kín mít từ bên trong.
Cả hai cùng chạy – thật ra ông chủ nông trại chạy không được nhanh lắm – đến ngôi biệt thự nhỏ.
Thầy Matthews đang cố nhìn qua một cửa sổ.
– Vẫn không thấy ông ấy – thầy thông báo. Tony à, anh hãy cố mở cửa ra.
– Khỏi cần nói, tôi sẽ làm ngay – ông Higgins nói. Trong hợp đồng có ghi là không được bỏ đi mà không trả tiền thuê nhà trước.
Ông lục trong xâu chìa khóa to tướng và cuối cùng tìm ra một chìa khóa đút vào ổ khóa cửa. Ông kéo tay cầm thật mạnh, nhưng cửa không mở ra.
– Không bình thường! Ông chủ nông trại càu nhàu. Cửa không nhúc nhích. Xem này: có đinh lòi ra.
Ông chỉ mấy mũi đinh. Đến lượt Jeff nhìn thấy mũi đinh nhọn hoắt lòi ra khỏi cánh cửa.
– Có lẽ ông ấy đóng đinh cả cánh cửa – Jeff giả thiết.
– Nói cách khác, phải đập phá cửa – thầy Matthews nói.
– Ê! Khoan đã! Higgins phản đối. Cửa tốn nhiều tiền lắm.
– Ta phải vào chứ. Có chuyện xảy ra với Harley Newcomb. Rõ ràng thế. Tony à, anh gặp ông ta lần cuối cùng là lúc nào?
– Lần cuối cùng hả?
Ông chủ nông trang gãi cằm và nhíu mày cố gắng nhớ lại.
– Chắc là tháng rồi… Cách đây khoảng sáu tuần. Ông ấy điện thoại báo rằng ống nước bị rò rỉ. Vì ông không thích bị quấy rầy, nên tôi không bao giờ ghé ông nếu ông không gọi điện yêu cầu.
– Sáu tuần à? Còn chúng tôi đã gặp ông ấy ở thành phố, cách đây mười ngày. Dường như ông ấy không lấy thư, lấy sữa từ một tuần lễ rồi.
– Khoan đã… Ba chai sữa. Ông ấy uống hai ngày một chai. Vậy là sáu ngày. Đúng, gần một tuần, ông Matthews à.
– Vậy là dường như có chuyện xảy ra với ông, ba ngày sau khi ông về. Có thể ông ấy ở bên trong, bị bệnh hay là… Dù sao cũng phải vào. Tony, anh hãy đập một ô kính cửa sổ. nếu không muốn đập phá cửa.
– Thôi được. Một tấm kính vẫn rẻ hơn một cánh cửa. Ông Higgins nói.
Ông bước lại gần cửa sổ đầu tiên và dùng cán rìu đập vỡ một ô kính. Rồi ông nện vào mấy tấm ván gỗ dày nằm ở phía sau. Sau khoảng một chục cú đập, ván bắt đầu vỡ.
– Ván đóng chặt quá – ông nhận xét giữa hai lần đập. Nhưng sắp nứt rồi. Có một đầu đã sút đinh. Bây giờ, nếu đẩy, là có thể vào được bên trong. Mời ông Matthews vào trước.
– Được – thầy giáo nói – anh hãy đẩy mấy tấm ván ra.
Trong khi ông chủ nông trang đẩy mấy tấm ván và giữ chúng, thầy Matthews chui vào bên trong. Rồi thầy kéo mấy tấm ván về phía mình, để cho lỗ hở rộng ra, sao cho Jeff và Tony cũng có thể vào được.
Bên trong tối om, bởi vì tất cả các cửa sổ đều có ván gỗ đóng đinh kín mít. Jeff chớp mắt để làm quen với bóng tối. Thầy Matthews gọi thật lớn:
-Harley!… Ôi! Harley ơi!
Không có tiếng trả lời.
– Ta hãy bật đèn lên cho sáng! Thầy giáo đề nghị.
Thầy bấm công tắc đèn. Không có gì xảy ra cả. Vẫn tối om. Nhưng do mắt quen rồi, Jeff nhìn thấy một bộ sưu tập mặt nạ quỷ quái Châu Phi treo trên tường. Giống như có những con quỷ giận dữ nhìn Jeff. Toàn bộ một bức tường phủ đầy sách. Chính giữa của một kệ trống không có ba đầu lâu người, một lớn, một trung bình và một nhỏ đang mỉm cười trên đó một cách rùng rợn.
– Tôi không thích chuyện này tí nào – Tony Higgins hạ giọng nói. Thật đấy, tôi không thích tí nào.
– Đi! Có thể ông ấy ở trong phòng ngủ – Thầy Matthews nói.
Thầy bước vào phòng. Ngoài nhà bếp nhỏ và nhà tắm, không còn căn phòng nào khác. Tony Higgins bước theo. Jeff nhìn thấy hai cây đèn cầy và bật quẹt lửa trên bàn. Jeff châm hai đèn cầy và đưa lên cao để nhìn cho rõ.
Ngọn lửa chập chờn làm cho những hình bóng kỳ lạ chạy trên tường nhà. Phía trên hai cây lao đặt chéo nhau, các mặt nạ trên tường như đang nhăn nhó cười.
Vẫn cầm hai đèn cầy cao, Jeff đến gần một cái bàn viết lớn, trên đó có máy đánh chữ. Gần máy là một quyển sách to đang mở. Rõ ràng đó là một quyển xuất bản rất xưa, và nội dung bằng tiếng la-tinh. Jeff không hiểu tiếng la-tinh, nhưng đọc được những gì đánh máy trên tờ giấy nằm trong máy đánh chữ.
Vỏn vẹn chỉ có một dòng như sau:
“Cứu với! Cứu với! Tôi bị thu nhỏ… “
Chỉ có thế thôi. Nhưng làm Jeff nổi da gà.
– Thầy Matthews ơi! Jeff kêu bằng một giọng yếu ớt.
Thầy giáo và Tony Higgins bước ra khỏi phòng ngủ.
– Không có ai hết – thầy Matthews nói – và các cửa sổ đều bị đóng đinh giống mấy chỗ kia.
– Tôi nghĩ – ông chủ nông trang nói – rằng chắc chắn kẻ đóng đinh mấy tấm ván này trên cửa sổ và cửa vẫn còn bên trong. Thậm chí con mèo cũng không ra được.
– Nhưng Harley Newcomb đã ra rồi! Thầy giáo nói lại. Jeff, cám ơn em chiếu sáng cho chúng ta. Nhưng sao em xanh quá vậy…
– Có có bức thông điệp trên máy – Jeff nói cà lăm. Và… và quyển sách nữa. Sách cổ bằng tiếng la tinh…
Thầy Matthews đọc mấy từ đánh máy, rồi xem quyển sách.
– Phải, đây là tiếng la-tinh – thầy nói. Quyển sách này ít nhất cũng bốn trăm năm tuổi. Thầy không hiểu hết mọi từ, nhưng sách nói về… nói về phép, về công thức thần bí làm cho người biến mất.
Jeff nuốt nước miếng khó khăn. Đúng như Jeff sợ.
– Thầy sẽ gọi cảnh sát – Thầy Matthews nói.
Thầy bước đến máy điện thoại, cầm ống nghe lên rồi quay số. Thầy chờ một chút rồi nhìn dây điện.
Dây bị cắt.
– Có kẻ đã cắt dây điện thoại và tháo cầu chì! Thầy Matthews buồn rầu nhận xét.
Đột nhiên, thầy nhìn xuống đất, phía sau cái ghế nơi đáng lẽ nhà văn đang ngồi đánh máy, Jeff cũng nhìn theo. Dưới đất có một vết to màu đó hình thù không đều đặn.
– Máu… – Jeff hổn hển nói.
– Không phải – thầy Matthews nói. Mực đó. Chai bị đổ đây này. Mực khô rồi, chứng tỏ chuyện này xảy ra cách đây mấy ngày, có lẽ là một tuần. Nhưng em hãy nhìn ở đây vết đế giày… Như thể ông Harley đứng dậy khỏi ghế, rồi bỏ chạy.
– Vết khác đây nữa này – Tony nói sau khi lấy đèn cầy của Jeff và cúi xuống đất xa cách đó hai mét. Thêm một vết khác nữa. Và một vết nữa. Thêm hai vết nữa. Tất cả có sáu vết. Ông Matthews, ông hãy nhìn thử và nói tôi có bị ảo giác không.
Jeff và thầy Matthews cũng cúi xuống nhìn những vết màu đỏ, do một người đã giẫm vào mực đỏ ướt để lại.
Đột nhiên, Jeff cảm thấy tóc như dựng đứng trên đầu…
Vết chân đầu tiên là của một người bình thường. Vết thứ nhì không có gót chân: chỉ phần trước đế giày in dưới đất, như thể người đó đang chạy. Nhưng nó đã nhỏ hơn so với vết thứ nhất.
Còn những dấu chân còn lại, thì giảm dần, dấu chân dường như của em bé.
– Ông ta chạy trốn! Tony Higgins nói, giọng đã trở nên trầm và khàn. Ông ta chạy về phòng trốn và càng nhỏ dần trong khi chạy. Và sau đó… ông đã biến mất. Bốc hơi!
Ba người nhìn nhau và Jeff phải hết sức cố gắng để giọng nói không bị run.
– Thầy Matthews ơi – Jeff nói. Thầy còn nhớ câu chuyện mà ông Newcomb đã kể ở đại hội không? Có một người bị nhốt trong nhà và bị biến mất trong khi làm ảo thuật. Câu chuyện… câu chuyện đã thành sự thật!
ALFRED HITCHCOCK: Tôi có làm phiền các bạn không? Tôi nghĩ mình phải báo cho các bạn biết rằng một chỉ dẫn có ý nghĩa về vụ bí ẩn Người đàn ông bốc hơi đã được cung cấp cho các bạn. Đúng là những chĩ dẫn tinh tế thật. Nếu các bạn không hề biết làm cách nào một người có thể ra khỏi một căn nhà đóng từ bên trong hay về một công thức làm phép cổ xưa có thể làm cho một người nhỏ dần cho đến khi biến mất hẳn, thì các bạn đừng nản lòng! Cảnh sát cũng không tài giỏi gì hơn các bạn.
Đúng là cảnh sát hiếm khi có cơ hội điều tra về loại bí ẩn như thế này.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.