Bạch Mã Khiếu Tây Phong

Chương 3 – Phần 1



Y chỉ cái khăn tay nói tiếp: – Ngươi xem đây, cái khăn này làm bằng tơ, còn sông núi sa mạc đồ hình, lại bằng len thêu vào giữa. Tơ màu vàng, len cũng màu vàng, bình thời nhìn không thấy, nhưng khi thấm máu rồi, len hút máu nhiều hơn tơ thành mới phân ra rõ rệt.

Lý Văn Tú chăm chú nhìn tấm khăn tay, quả nhiên y nói đúng, thấm máu rồi hiện rõ đồ hình, còn chỗ nào không thấm máu thì vẫn nguyên màu vàng. Năm xưa khi Tô Phổ bị chó sói cắn, máu chảy không nhiều, chiếc khăn chỉ hiện một bên góc, hôm nay bị thương vì kiếm, đồ hình hiện ra đến hơn một nửa. Bấy giờ nàng mới hiểu rằng chiếc khăn này có ẩn tàng một đại bí mật. Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố bị thương không lấy gì làm nặng, hai người cùng nghĩ: “Đợi ta tỉnh rượu rồi, sẽ giết tên cường đạo người Hán này.” Xa Nhĩ Khố nói: – Ông già ơi, cho tôi uống chút nước.

Kế lão nói: – Được.

Ông đứng lên đi lấy nước. Trần Đạt Hải sẵng giọng quát: – Tất cả ngồi yên, không ai được động đậy.

Kế lão hừ một tiếng, lại ngồi xuống.

Trần Đạt Hải trong bụng tính toán: “Nếu bấy nhiêu người hợp lực đối phó với ta, cùng xông lên một lượt e rằng nguy mất. Nhân lúc hai tên chó chết Cáp Tát Khắc chưa tỉnh rượu, giết chúng trước là kế vạn toàn.” Y chầm chậm đi đến trước mặt Tô Lỗ Khắc, đột nhiên rút phắt trường kiếm, vung lên chém ngay xuống đầu y. Y rút kiếm chém thật là đột ngột, hành động lại nhanh như chớp, Tô Lỗ Khắc không cách nào tránh được. Tô Phổ kêu lên một tiếng, toan xông lên cứu cha, nhưng còn làm sao cho kịp?

Kiếm của Trần Đạt Hải vừa xuống đỉnh đầu Tô Lỗ Khắc bỗng nghe một tiếng vù, một vật ném ngay vào mặt, thế đi thật nhanh, y hoảng hốt không còn lo giết người mà nhảy vội sang một bên. Nghe choang một tiếng, vật đó đụng thẳng vào tường vỡ tan, thì ra là một cái chén uống trà. Y định thần, nhìn rõ ra kẻ ném chiếc chén chính là Lý Văn Tú.

Trần Đạt Hải giận lắm, thấy gã thanh niên Cáp Tát Khắc này gầy gò ốm yếu, dáng như con gái nên không để ý, nào ngờ đâu lại dám vuốt râu hùm, nên vung kiếm lên chỉ vào y chửi: – Con chó con Cáp Tát Khắc kia, ngươi không muốn sống hả?

Lý Văn Tú từ từ cởi chiếc áo khoác Cáp Tát Khắc ra, để lộ áo chẽn kiểu người Hán, dùng tiếng Cáp Tát Khắc nói: – Ta không phải là người Cáp Tát Khắc, ta là người Hán.

Tay nàng chỉ vào Tô Lỗ Khắc nói: – Vị Cáp Tát Khắc bá bá này, coi tất cả người Hán ai cũng là cường đạo xấu xa. Ta muốn cho ông ta biết, người Hán chúng ta không phải ai cũng đi ăn cướp, mà cũng có người tốt.

Nhát kiếm của Trần Đạt Hải ai ai cũng thấy rõ, nếu như không có Lý Văn Tú ném chiếc chén ra cứu, Tô Lỗ Khắc ắt đã chết rồi, nên khi nghe nàng nói thế, Tô Phổ liền nói: – Đa tạ ngươi cứu cha ta.

Thế nhưng Tô Lỗ Khắc vẫn hết sức ương ngạnh, kêu lớn: – Ngươi là người Hán, ta không cần ngươi cứu, cứ để tên cướp kia giết ta đi là hơn.

Trần Đạt Hải tiến lên một bước, hỏi Lý Văn Tú: – Ngươi là ai? Ngươi là người Hán, đến đây làm gì?

Lý Văn Tú cười khẩy nói: – Ngươi không nhận ra ta nhưng ta lại nhận ra ngươi. Ăn cướp bộ lạc Cáp Tát Khắc, giết không ít người Cáp Tát Khắc, chính là bọn cường đạo người Hán chúng mày.

Nói đến đây giọng nàng không khỏi bùi ngùi, nghĩ thầm: “Nếu không phải vì bọn ăn cướp chúng mày làm bao nhiêu trò bỉ ổi, Tô Lỗ Khắc đã không hận người Hán chúng ta đến thế.” Trần Đạt Hải lớn tiếng nói: – Là ông đấy thì mày làm gì nào?

Lý Văn Tú chỉ vào A Mạn nói: – Nàng ta là nô lệ của ngươi, ta muốn đoạt lại, làm nô lệ cho ta.

Câu đó nói ra, thật quả ngoài dự liệu của mọi người. Trần Đạt Hải ngạc nhiên, cười ha hả nói: – Giỏi, ngươi có tài thì cứ ra mà lấy lại.

Y vung trường kiếm lên, mũi kiềm rung động nghe u u. Lý Văn Tú quay sang nói với A Mạn: – Ngươi nhân danh Chúa Allah, lập lời thề, bằng lòng làm nô lệ cho y. Nếu như y đánh không lại ta, ngươi bị ta đoạt lại, ngươi cũng sẽ là nô lệ cho ta, có phải không?

Người Cáp Tát Khắc đánh nhau với bộ tộc khác, kẻ bị bắt trở thành nô lệ, trong kinh Koran của Hồi giáo đã nói rõ ràng. Thân phận kẻ nô lệ không khác gì con vật, toàn do quyền chủ nhân, kể cả mua bán. Nếu như chủ nhân bị người ta chế phục, tất cả gia sản, súc vật, nô lệ cũng đều về tay chủ mới. A Mạn nghe nói thế, nghĩ thầm: “Ta đã thành nô lệ rồi, phải theo tên cường đạo này để y giày vò, chi bằng theo ngươi làm chủ cũng còn hơn.” Nghĩ thế nàng liền gật đầu: – Đúng vậy.

Lại ngập ngừng nói tiếp: – Ngươi đánh không lại y đâu, tên giặc cướp này võ công ghê gớm lắm.

Lý Văn Tú nói: – Cái đó ngươi khỏi lo, ta đánh không lại thì để cho y giết chết.

Nàng vỗ hai tay một cái, nói với Trần Đạt Hải: – Tiến lên đi.

Trần Đạt Hải lạ lùng hỏi: – Ngươi tay không đấu với ta ư?

Lý Văn Tú nói: – Giết những tên cường đạo như ngươi, cần gì phải dùng đến binh khí?

Trần Đạt Hải nghĩ thầm: “Ở đây ai ai đều là địch, dây dưa thêm chút nào, nguy hiểm thêm dường ấy, ngươi phách lối như thế thì càng tốt.” Y quát lên: – Coi kiếm đây.

Y vung kiếm lên, sử chiêu Độc Xà Xuất Động, đâm luôn vào ngực Lý Văn Tú, thế mạnh lại nhanh. Kế lão kêu lên: – Mau lui ra.

Ông ta chắc Lý Văn Tú không thể nào chống nổi, đâu ngờ nàng chỉ lắc một cái nhẹ nhàng tránh qua một bên, lướt đến bên Trần Đạt Hải, cúi chỏ trái thúc ngược về sau, đánh vào ngang hông y. Trần Đạt Hải kêu lên: – Giỏi lắm.

Trường kiếm của y cuộn về, chém vào tay nàng. Lý Văn Tú phóng chân phải ra, đá luôn vào cổ tay y, chiêu Diệp Để Phi Yến đó là một tuyệt kĩ của Hoa Huy, Lý Văn Tú luyện mất bảy tám ngày mới thuần thục, nhẹ nhàng khéo léo thật là đắc ý. Trần Đạt Hải vội rụt tay về nhưng không còn kịp nữa, cổ tay nhói một cái đã bị đá trúng, nhưng cước lực đối phương không mạnh lắm nên kiếm của Trần Đạt Hải không bị tuột tay. Y kinh hãi gầm lên, nhảy lùi về sau một bước, còn Kế lão cũng “Ồ” một tiếng, cực kỳ ngạc nhiên.

Trần Đạt Hải xoa xoa tay, lại vung kiếm xông lên cùng Lý Văn Tú đấu tiếp. Lúc này y không còn dám coi thường chàng thanh niên gầy gò kia nữa, thấy y ra chiêu nào chiêu nấy đều vững vàng, công phu thực không phải dở, Trần Đạt Hải liền giở Thanh Mãng kiếm pháp ra, cực kỳ tàn độc, cốt sao giết được đối phương càng sớm càng tốt. Lý Văn Tú được Hoa Huy truyền thụ, thân pháp linh mẫn, chiêu thức tinh kỳ, chỉ hiềm chưa từng cùng người khác đấu bao giờ, không có chút kinh nghiệm đối địch nào, lúc đầu chỉ nhở lòng cừu hận muốn giết tên ác tặc báo thù cho cha mẹ. Đấu được một hồi, nàng bắt đầu nhìn thấy đường đi nước bước của đối thủ, trong lòng dần dần trấn tĩnh lại.

Căn lều của Kế lão vốn dĩ đã nhỏ, trong sảnh lại gầy một đống lửa lớn, Trần Lý hai người bên bếp hồng nhảy qua nhảy lại, kiếm quyền thế nào cũng chỉ cách người một hai tấc, tưởng như Trần Đạt Hải sắp sửa giết được Lý Văn Tú đến nơi. Thế nhưng chiêu nào nàng cũng có thể trả đòn, hoặc tránh né chiết giải được cả. Bọn Tô Lỗ Khắc xem mà há hốc mồm, còn Kế lão thì càng coi càng sợ hãi, thân thể không ngừng run rẩy.

Hai người càng đấu càng hăng, Trần Đạt Hải sử dụng chiêu Linh Xà Thổ Tín mũi kiếm đâm vào yết hầu Lý Văn Tú. Lý Văn Tú hụp xuống, lòn dưới kiếm tiến tới, tay trái gạt tay phải của địch, đẩy thanh kiếm hướng ra ngoài, hai tay liền chụp hai thanh kim ngân tiểu kiếm nơi hông Trần Đạt Hải, một kéo một đẩy, nghe bụp một tiếng cùng đâm luôn vào xương vai địch thủ. Trần Đạt Hải “A” lên một tiếng thảm khốc, trường kiếm tuột khỏi tay, loạng choạng lùi về phía sau, đến lúc lưng đụng vào tường đứng thở hổn hển. Hai thanh tiểu kiếm cắm vào hai vai lút đến tận cán, mũi kiếm thấu qua bên lưng, gân cốt đã đứt hết, hai tay không còn chút lực khí nào, làm sao còn lấy tay nọ rút kiếm vai kia cho nổi?

Chỉ nghe mọi người trong nhà đều lớn tiếng hò reo, la lớn: – Đánh gục được tên cướp rồi, đánh gục được tên cướp rồi.

Đến ngay cả Tô Lỗ Khắc cũng cao giọng la lối. Tô Phổ và A Mạn ôm nhau ở một nơi, sướng không để đâu cho hết. Chỉ có Kế lão không ngừng run rẩy, hai hàm răng đập vào nhau kêu lách cách.

Lý Văn Tú biết ông ta vì quan tâm đến mình nên sợ hãi, bước tới cầm bàn tay to lớn thô kệch của ông già, ghé tai nói nhỏ vào tai: – Kế gia gia, đừng sợ nữa, tên giặc cướp đánh không lại cháu đâu.

Bàn tay ông lạnh ngắt, càng run rẩy hơn trước. Lý Văn Tú quay đầu lại, thấy Tô Phổ đang ôm chặt A Mạn, đang vui sướng vì thắng lợi lòng bỗng chùng hẳn xuống, thấy chính mình cũng run run, bàn tay Kế lão không còn lạnh nữa, thì ra chính tay nàng cũng đã lạnh rồi. Nàng bỏ tay Kế lão ra, đi đến cầm sợi dây vẫn buộc nơi cổ A Mạn, lạnh lùng nói: – Ngươi là nữ nô lệ của ta, bây giờ đi theo ta.

Tô Phổ và A Mạn hai người lòng cùng lạnh ngắt, bốn cánh tay đang ôm nhau lập tức lỏng ra. Họ biết đây là quy củ đời này truyền đời khác của người Cáp Tát Khắc, không còn cách nào vi phạm mệnh lệnh. Cả hai mặt đều trở nên tái nhợt. Lý Văn Tú thở dài một tiếng, cởi sợi dây nơi cổ A Mạn ra nói: – Tô Phổ thương yêu ngươi, ta… ta không muốn gã phải đau lòng. Ngươi nay thuộc về Tô Phổ.

Nói xong đẩy A Mạn một cái, cho nàng ngã vào lòng Tô Phổ. Tô Phổ và A Mạn không tin ở tai mình vừa nghe, cùng hỏi lại: – Có thực không?

Lý Văn Tú cười gượng nói: – Dĩ nhiên là thật rồi.

Tô Phổ và A Mạn mỗi người cầm một bên tay Lý Văn Tú, lắc lắc liên tiếp nói: – Cám ơn ngươi, cám ơn ngươi.

Hai người mừng rỡ không để ý đến cánh tay họ có thêm mấy giọt lệ từ mắt Lý Văn Tú rơi xuống. Tô Lỗ Khắc cố gắng đứng lên, bàn tay to lớn vỗ mạnh lên vai Lý Văn Tú, nói: – Trong số người Hán, quả nhiên cũng có người tốt. Có lẽ… có lẽ chỉ có một mình ngươi thôi.

Xa Nhĩ Khố kêu lên: – Lấy rượu ra, lấy rượu ra. Ta mời tất cả cùng uống, mời người Cáp Tát Khắc tốt uống rượu mà cũng mời cả người Hán tốt uống rượu, ăn mừng bắt được tên giặc cướp, ủa, tên cường đạo đâu rồi?

Mọi người cùng quay lại, không biết Trần Đạt Hải đã đi đâu mất. Thì ra mọi người đang để ý đến Lý Văn Tú và A Mạn, để cho tên cướp lẻn theo cửa sau chạy mất. Tô Lỗ Khắc giận lắm, kêu lên: – Cả bọn mau đuổi theo.

Y vừa mở cửa ra, một trận gió ùa vào, chân y bủn rủn, thân hình lảo đảo nằm gục ngay xuống. Gió lạnh lại thêm có tuyết, thật là ác liệt, ai nấy đều cảm thấy mình chịu không nổi. A Mạn nói: – Trong cơn gió bão này, y cũng chẳng chạy được xa đâu, có cố gắng rồi cũng chết trong gió lạnh. Đợi đến sáng gió bớt rồi, mình đi kiếm xác y trên bãi tuyết cũng không sao.

Tô Phổ gật đầu, đóng cửa lại. Tô Lỗ Khắc trừng mắt nhìn Lý Văn Tú, một hồi sau mới hỏi: – Này ông bạn, ngươi là người Cáp Tát Khắc, phải không?

Lý Văn Tú lắc đầu: – Không, tôi là người Hán.

Tô Lỗ Khắc nói: – Không thể được. Ngươi là người Hán, sao lại đánh tên cướp đó cứu người Cáp Tát Khắc là sao?

Lý Văn Tú nói: – Người Hán cũng có người xấu, người tốt. Tôi… tôi không phải là người xấu.

Tô Lỗ Khắc lẩm bẩm: – Người Hán cũng có người tốt sao?

Y chầm chậm lắc đầu. Thế nhưng tính mệnh của y, tính mệnh con y, rõ ràng do thanh niên người Hán này cứu, không tin sao được?

Y một đời thù hận người Hán, nhưng đến lúc này niềm tin của y đã lung lay rồi. Y giận mình, tại sao buổi chiều lại uống rượu say, không được đấu với tên giậc cướp người Hán một trận, lại để cho người Hán cứu mạng mình? Cả đời y chuyện gì đến lúc nguy nan thì đều không đâu vào đâu, xui xẻo tận mạng. Thế nhưng hôm nay khi tên cướp vung kiếm chém xuống đầu, lại được thanh niên này cứu, chẳng phải là thật đúng lúc sao? Chẳng phải là hên lắm sao?

***

Đến khi trời sáng, quả nhiên gió bão đã bớt dần. Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố liền đi ra chiêu tập tộc nhân đuổi theo tên giặc cướp người Hán. Trên mặt tuyết vết chân thật rõ ràng, huống chi y lại bị thương nặng, không thể nào chạy xa cho được. Tốt hơn hết là y đi gặp lại bọn cướp người Hán kia, mối thù mười hai năm qua, bây giờ mới trả được.

Hơn ba trăm tráng đinh người Cáp Tát Khắc liền tổ chức thành đội thứ nhất đuổi theo trước, còn các đội thứ hai, thứ ba cũng tiếp theo. Nếu chỉ bắt Trần Đạt Hải lẽ dĩ nhiên không cần đông đến thế, nhưng cốt yếu là tiêu diệt bọn cướp người Hán hoành hành nơi thảo nguyên. Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố đi đầu. Họ muốn những tộc nhân còn lại đi xa xa, cách chừng mươi dặm, để Trần Đạt Hải khỏi phát giác mà sẽ không dẫn đến gặp đồng bọn. Tô Phổ hôm trước bị thương, nhưng không nặng nên cũng đòi đi theo cha, còn A Mạn cũng nhất định đòi theo bố nhưng ai cũng biết, nàng không muốn phải rời xa Tô Phổ. Xa Nhĩ Khố gọi thêm hai đồ đệ cùng đi, một người là Tang Tư Nhi nhanh nhẹn, còn một thanh niên khỏe như trâu nên thiên hạ gọi y là Lạc Đà, tên thật là gì người ta không cần nhớ nữa.

Lý Văn Tú cũng muốn tham gia đội tiên phong, Tô Phổ là người hoan nghênh trước hết. Qua trận đấu đêm qua, Lý Văn Tú đã thành một vị anh hùng dưới mắt mọi người. Xa Nhĩ Khố thì không phản đối nàng tham gia còn Tô Lỗ Khắc tuy không bằng lòng nhưng không dám mở lời phản đối.

Kế lão dường như bị trận đánh hôm qua sợ đến mất mật, buổi sáng uống sữa dê, sẩy tay làm vỡ cái bát. Lý Văn Tú bưng trà cho ông, hai tay ông run lúc cầm đổ sánh cả ra áo. Lý Văn Tú hỏi tại sao, mắt ông chỉ lộ vẻ sợ hãi, đột nhiên quay vào phòng đóng chặt cửa lại.

Trên mặt đất đâu đâu cũng đóng tuyết thật dầy, ngựa đi thật khó, bảy người tiên phong phải đi bộ, cứ theo dấu chân mà đuổi theo. Trần Đạt Hải đi thẳng hướng tây, tưởng chừng như định vượt qua sa mạc Qua Bích, tuy y hai vai bị thương, xem ra bước chân vẫn cực kỳ nhanh nhẹn. Còn sáu người Cáp Tát Khắc vẫn thường nghe sa mạc Qua Bích có ác quỷ, trong lòng ai cũng thấp thỏm.

Tô Lỗ Khắc lớn tiếng nói: – Hôm nay nếu như có biết sẽ gặp quỷ chăng nữa, mình vẫn nhất quyết đi bắt cho bằng được tên giặc cướp. Tô Phổ, ngươi có muốn báo thù cho mẹ, cho anh ngươi không?

Tô Phổ đáp: – Con nhất định theo cha đi. A Mạn, em nên về nhà đi.

A Mạn đáp: – Anh dám đi thì em cũng dám đi.

Trong bụng nàng muốn nói: “Nếu như anh chết thì em cũng đâu muốn sống một mình.” Tô Lỗ Khắc đáp: – A Mạn, ngươi nên theo cha về nhà đi là hơn. Xa Nhĩ Khố nhát gan, sợ quỷ lắm.

Xa Nhĩ Khố gườm gườm nhìn y, vọt lên đi trước.

Cái đáng sợ nhất của sa mạc Qua Bích là hàng ngàn dặm không có nước, nếu như nước mang theo uống hết rồi, chỉ đành chịu chết khát. Thế nhưng hiện nay tuyết đầy mặt đất, cúi xuống là có băng ngay, không có gì phải lo. Tuy không cưỡi con gì được nên cũng đỡ không phải cát tạt vào mặt. Càng về hướng tây, dấu chân của Trần Đạt Hải lưu lại càng rõ rệt, đến sau trên vết chân không còn thấy bụi tuyết đè lên, chính vì gió đã ngừng hẳn. Xa Nhĩ Khố lẩm bẩm nói: – Tên ác tặc này quả là lợi hại, gió bão thế mà nó không chết.

Tô Lỗ Khắc đột nhiên kêu lên: – Ồ, lại có thêm dấu chân một người nữa kìa.

Y chỉ vào dấu chân nói: – Người này bước nào cũng đạp ngay dấu chân tên cướp, không để ý thì không thấy được.

Mọi người nhìn kĩ, quả nhiên mỗi vết chân đều có một vết nông, một vết sâu. Cả bọn bàn tán suy đoán, không hiểu vì duyên cớ gì. Lạc Đà bỗng nói: – Không lẽ là quỷ?

Điều đó trong bụng ai cũng đã nghĩ tới, nay y buột miệng nói ra, ai nấy đều không khỏi lạnh gáy. Cả bọn lại cố gắng đi tiếp về hướng tây. Tuyết dày đến ngang bắp chân, đi thật là chậm, đêm hôm đó nằm ngoài trời mà nghỉ. Họ quét sạch tuyết, đào hố trên cát, lấy áo lông quấn chặt lấy người nằm dưới hố nên cũng không lạnh lắm.

Cái hố của Lý Văn Tú do Lạc Đà đào giùm. Y thật khỏe, trong lòng kính trọng vị anh hùng người Hán, nên đào giúp ngay giữa cái hố của Lạc Đà và Tô Phổ. Bảy cái hố làm thành một vòng tròn, ở giữa đốt một đống lửa lớn.

Bầu trời thật là xanh, những vì sao sáng lấp lánh, mỗi lần gió thổi qua, cuốn những hoa tuyết bay lả tả. Lý Văn Tú nhìn hai bông tuyết bay, lẩm bẩm nói một mình: – Thật chẳng khác gì một đôi bướm trắng.

Tô Phổ nói tiếp theo: – Đúng, giống thật. Ngày xửa ngày xưa, có một cô gái người Hán, đã từng kể cho tôi nghe truyện về bướm. Truyện kể là có một đôi thanh niên nam nữ người Hán, hai người thương yêu nhau, nhưng cha cô gái không chịu gả con cho chàng trai. Chàng trai đó đau lòng, thành bệnh mà chết. Một ngày kia, người con gái đi ngang mộ của tình lang, nằm phục xuống khóc lóc thảm thiết.

Y kể đến đây, trong lòng Tô Phổ và Lý Văn Tú đều nhớ đến tình cảnh tám chín năm trước, trên ngọn đồi, một đứa bé trai và một đứa bé gái ngồi sánh vai nhau cùng chăn cừu. Đứa con gái kể truyện cổ tích, đứa con trai lắng tai nghe, khi đến đoạn người con gái nằm khóc nơi mộ tình nhân, đứa con gái mắt rưng rưng mà đứa con trai cũng đau lòng.

Có điều Lý Văn Tú biết được đứa con trai đang nằm đây, còn Tô Phổ lại tưởng là đứa con gái nay đã chết rồi. Tô Phổ kể tiếp: – Cô gái đó nằm phục trên mộ người tình khóc thật bi thương, đột nhiên ngôi mộ nứt ra một đường dài, người con gái xinh đẹp kia liền nhảy vào trong đó. Về sau đôi tình nhân biến thành một đôi bướm trắng, lúc nào cũng bay cạnh nhau, không bao giờ chia lìa nữa.

A Mạn xen vào: – Truyện đó hay quá, có phải người kể chuyện chính là cô gái cho anh cái khăn tay địa đồ đấy không? Cô ta chết rồi sao?

Tô Phổ thản nhiên đáp: – Đúng đó, chính là cô ta. Ông già người Hán bảo là cô ấy chết rồi.

Lý Văn Tú nói: – Ngươi có còn nhớ cô ta không?

Tô Phổ đáp: – Dĩ nhiên là nhớ chứ. Làm sao quên được?

Lý Văn Tú nói: – Sao ngươi không đi thăm mộ cô ta một chuyến?

Tô Phổ đáp: – Đúng đấy. Để bọn ta giết được giặc cướp xong, ta sẽ nhờ ông già bán rượu dẫn ta đi thăm.

Lý Văn Tú nói: – Nếu ngôi mộ đó nứt ra một đường, liệu ngươi có nhảy vào không?

Tô Phổ cười đáp: – Đó là truyện cổ tích chứ làm gì có thật.

Lý Văn Tú nói: – Nếu như cô nương đó vẫn còn nhớ đến ngươi, ngày ngày khắc khoải chờ ngươi đến với cô ta, rồi ngôi mộ nứt ra một đường thật, ngươi có dám nhảy vào để vĩnh viễn ở cùng với cô ta chăng?

Tô Phổ thở dài đáp: – Không. Cô gái đó chỉ là người bạn lúc còn thơ ấu mà thôi. Trong đời này, ta chỉ muốn được cùng sống chung với A Mạn thôi.

Nói đến đây y đưa tay ra nắm tay A Mạn. Lý Văn Tú cũng không hỏi thêm. Mấy câu đó nàng vốn không muốn hỏi, và cũng đã biết được câu trả lời rồi, nhưng nhịn không nổi nên thử ướm lời xem sao. Bây giờ nàng nghe nói thế, trong lòng chỉ càng thêm chua xót.

Bỗng nhiên từ xa văng vẳng vọng về tiếng chim thiên linh, giọng hót thật dìu dặt uyển chuyển, nhưng cũng thật thê lương ai oán. Tô Phổ nói: – Hồi trước ta thường hay đi bắt chim thiên linh về chơi, chơi chán rồi giết chết nó. Thế nhưng cô gái đó thích chim thiên linh lắm, cho ta một cái vòng ngọc, bảo ta thả chim đi. Từ đó ta không bắt chim nữa, chỉ nửa đêm ngồi nghe chim hót thôi. Các ngươi nghe coi, chim hót hay biết bao nhiêu.

Lý Văn Tú “Ồ” một tiếng, hỏi: – Thế chiếc vòng đó, ngươi có đem theo không?

Tô Phổ đáp: – Đó là chuyện đã lâu lắm rồi, ta đánh vỡ mất từ hồi nào, không còn thấy đâu nữa.

Lý Văn Tú bùi ngùi nhắc lại: – Đó là chuyện đã lâu lắm rồi, ta đánh vỡ mất từ hồi nào, không còn thấy đâu nữa.

Chim thiên linh vẫn dìu dặt hót không ngừng. Trong đêm khuya lạnh lẽo chim vốn không hót, hôm nay không biết vì buồn bã chuyện gì mà muốn thổ lộ đây? Bọn Tô Lỗ Khắc, Xa Nhĩ Khố, Lạc Đà vẫn ngáy đều, tiếng ồ ồ át cả tiếng chim.

***

Hôm sau, trời vừa sáng, bảy người dậy ăn lương khô xong, lại theo vết chân đuổi tiếp. Ánh mặt trời vàng vọt, chiếu lên người chỉ hơi ấm một chút nhưng có ánh nắng không ai còn sợ quỉ nữa. Đuổi đến quá trưa, trên sa mạc một hàng dấu chân nay thành hai hàng. Người thứ hai hiển nhiên không còn cố công giẫm lên vết chân người đi trước nữa. Tô Lỗ Khắc vui mừng kêu la, thế này thì nhất định là người, không phải là quỷ, có điều là ai?

Hướng bảy người đang đi hoàn toàn khác hẳn hướng mà Lý Văn Tú vẫn thường đến gặp sư phụ. Nàng đột nhiên nghĩ thầm: “Tên giặc cướp này xem chừng không phải đi kiếm đồng bọn của y, mà theo đường trên địa đồ, một mình đi tìm Cao Xương mê cung.” Nàng nói ra ý nghĩ đó, cả bọn Tô Lỗ Khắc suy nghĩ một hồi rồi cùng đồng ý là đúng. Tang Tư Nhi nói: – Vùng sa mạc này bình thời không có một giọt nước, bọn giặc cướp người Hán hẳn chẳng đến đây làm gì.

Tô Lỗ Khắc lớn tiếng nói: – Y chạy đến mê cung, thì bọn ta cũng đuổi đến mê cung. Dù phải đuổi đến chân trời, ta cũng nhất định phải bắt cho bằng được tên ác tặc.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.