Bài học Israel

Chương III (A) NHỮNG CẢNH ĐẦY ĐỌA VÀ TÀN SÁT DO THÁI



Tại các xứ theo Hồi giáo:

Trước hết, chúng tôi xin kể thân phận người Do Thái ở các xứ theo Hồi giáo. Xét chung thì ở các xứ này, số người Do Thái không đông (cả thảy chỉ độ một hai triệu) và tình cảnh của họ không đến nỗi bi đát như ở châu Âu.

Theo Clara Malraux trong “Civilisation du Kibboutz” (Editions Gonthier – 1964) thì tình cảnh của họ như sau:
Tại Ba Tư; năm 1875: Hễ một người Do Thái đụng tới một vật gì thì vật đó hoá ra dơ dáy; vậy Do Thái ở Ba Tư cũng như hạng tiện dân (intouchable) ở Ấn Độ. Người Do Thái không được mở quán tạp hoá, trừ trong tỉnh Hamadan. Ngày mưa họ không được ra khỏi khu vực riêng của họ – khu đó gọi là mellah, cũng tựa như ghetto ở châu Âu – vì nếu họ đụng nhằm áo ướt của một người theo Hồi giáo thì người này hoá ra dơ dáy.
Một người Do Thái không được làm chứng và tuyên thệ ở toà án. Một người Hồi giáo giết một người Do Thái thì chỉ phải đền cho thân nhân người bị giết 140 kraus, rồi được tự do; người Do Thái tuyệt nhiên không được chống án.

Ở Maroc, người Do Thái không được pháp luật coi là công dân. Họ ở dưới quyền cai trị của nhà vua, nhà vua muốn xử với họ ra sao thì xử không cần theo luật pháp gì cả, có thề bắt họ làm nô lệ, giết họ cũng được nữa.

Ở Yemen, cho tới khi quốc gia Israel thành lập năm 1948, người Do Thái không được phép lớn tiếng trước mặt một người Hồi giáo, không được cất nhà cao hơn nhà các người Hồi giáo, không được đụng chạm người Hồi giáo, không được cùng bán một món hàng với người Hồi giáo, phải đứng dậy trước mặt một người Hồi giáo. Ngoài ra ngay từ hồi Mohamed (1), người ta đã cấm họ bận những màu lợt, mang khí giới, từ lúc mặt trời lặn cho tới lúc mặt trời mọc không được ra khỏi khu riêng của họ; họ bắt buộc phải làm những việc dơ dáy như đổ thùng, có trẻ mồ côi thì phải giao cho nhà cầm quyền để nhà cầm quyền cho nó theo Hồi giáo.

Cũng có khi nhà cửa của họ bị tàn phá, thân họ bị đánh đập, chém giết nhưng đều do những nguyên nhân kinh tế, xã hội, chớ không do nguyên nhân tôn giáo. Và tuyệt nhiên không có những phong trào diệt chủng như ở châu Âu.

Sở dĩ vậy vì Hồi giáo không kỳ thị Do Thái giáo mạnh mẽ như Ki-tô giáo kỳ thị (2). Do Thái và Hồi giáo chấp nhận được nhau, đôi khi còn góp sức với nhau để chống kẻ thù chung nữa, như trong những thời Hồi giáo đi xâm chiếm các nước khác, đặc biệt là chiếm vài nước ở châu Âu, như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha.

***

Tại các xứ theo Ki-tô giáo

Tại các xứ theo Ki-tô giáo, nhất là ở châu Âu thân phận người Do Thái điêu đứng hơn nhiều, không thể tưởng tượng nổi.

Suốt mười mấy thế kỷ, không ở nơi này thì ở nơi khác, lúc nào cũng có những người Do Thái bị cái cảnh: “ghetto”, “pogrom”, hoả hình, lò thiêu, phải mang trên áo hình bánh xe hoặc hình ngôi sao vàng (một ngôi sao sáu cánh gọi là ngôi sao David) như tội nhân mang áo dấu: bị trục xuất, hoặc bắt buộc phải từ bỏ tôn giáo của họ mà theo tôn giáo khác: bị trút lên đầu tất cả những tội lỗi mà họ không hề gây ra; bị treo cổ, dìm nước, thọc tiết, thiêu sống… đâu đâu họ cũng gặp những cảnh địa ngục, chỉ vì họ là Do Thái.
Những hồi họ được sống yên ổn nhất thì thân phận của họ cũng chỉ như thân phận một nô lệ, một tên cùi. Người ta cấm họ có bất động sản, thành thử muốn theo nghề nông thì họ chỉ có thể làm nông nô, tá điền. Muốn khá giả họ phải ở châu thành làm thợ kim hoàn, hoặc buôn bán, đổi tiền, cho vay. Giáo hội Ki-tô cấm tín đồ cho vay lấy lãi nên nghề sêt-ti, nghề ngân hàng gần thành độc quyền của họ. Cha truyền con nối, nhờ có kinh nghiệm của những thế hệ trước, họ làm giàu rất mau, chính vì giàu mà gây nhiều kẻ thù.

Người ta bắt họ phải sống trong những khu biệt lập gọi là ghetto, ban đêm không được ra khỏi khu. Những ghetto nổi danh nhất là ghetto Venise thành lập năm 1516, trong đó họ sống chui rúc như trong những hang chuột, chịu đủ thứ cấm đoán, mất hết tự do.

Sự học hành của họ bị hạn chế. Ngay đầu thế kỷ XX mà ở Nga, trẻ con Do Thái cũng khó kiếm được một chỗ học. Chính phủ Nga không ra mặt cấm hẳn mà dùng một chính sách xảo trá, ra một sắc lệnh cho các trường Trung học chỉ được thu một số học sinh Do Thái bằng 10% số học sinh theo Ki-tô giáo, trong khi châu thành nào có người Do Thái thì số dân Do Thái cũng chiếm từ 30 đến 80% trong số dân vì họ bắt buộc phải sống chung gần như trong những ghetto của Đức, Ba Lan.

Nếu chẳng may trong nước có một tai hoạ gì, bất kể là do tự nhiên hoặc do nhân sự, thì người ta trút hết cả tội lỗi lên đầu lên cổ họ. Mất mùa mà đói kém ư là tại tụi Do Thái đã làm cho Thượng đế nổi giận; bệnh dịch hạch phát sinh ra ư, chết hàng triệu người ư, cũng tại tụi Do Thái nữa; chiến tranh mà bại ư, tại tụi Do Thái phản trắc, ngầm cấu kết với địch; có đảo chánh ư, cũng tại âm mưu của Do Thái.

Người ta bắt họ đóng thuế thật nặng, vắt họ như vắt bò sữa, có khi tịch thu tài sản rồi đẩy họ ra khỏi cõi, thời nào cũng vậy, chớ không phải chỉ trong thời Đức Quốc Xã, thế chiến vừa rồi. Tình cảnh đó bất công đến nỗi một người trong Công giáo đã phải thốt ra câu này: “Nếu chỉ cần ghét tụi Do Thái cũng đủ là một người công giáo ngoan đạo thì hết thảy chúng ta đều là những công giáo ngoan đạo”.

***

Các cuộc tàn sát Do Thái
Từ hồi viễn chinh của Thập tự quân, thế kỷ XI cuộc tàn sát Do Thái mới thực sự bắt đầu.

Năm 1096 người ta rủ nhau đi giải thoát mộ của Chúa Ki-tô, và còn có gì hữu lý đứng trước khi làm việc thiêng liêng đó, phải trả thù những kẻ mà non 1100 trước đã chịu trách nhiệm vẽ cái chết của Chúa, đã giết Chúa.

Ở Worms trong hai ngày người ta giết tám trăm người Do Thái; bất kể là đàn ông đàn bà, già trẻ, hễ là Do Thái mà không chịu theo đạo Ki-tô là bị chém giết bằng gươm, bằng giáo, bằng thuổng cuốc.
Ở Mayence, cảnh còn rùng rợn hơn nữa vì người Do Thái chống cự lại, rồi như say máu, họ quay lại giết chinh người cùng đạo với họ, giết cả vợ con, cha mẹ họ! Thật là kinh khủng. Có những bà mẹ đương cho con bú, cầm ngay lấy dao hay gươm cứa cổ con để cho chúng khỏi chết vì tay những người không theo đạo Do Thái. Bảy trăm người chết trong vụ đó.
Cộng hai vụ là một ngàn rưởi mạng. Một ngàn rưởi mạng đó đã tạo cho dân Do Thái một tâm hồn mới: họ biết rằng không thể sống chung được nữa, người ta cũng bắt họ phải đổi đạo thì họ lại càng cương quyết giữ đạo, giữ truyền thống của họ.
Thù oán họ nhứt là một số tín đồ Ki-tô giáo. Người phương Đông chúng ta đọc lịch sử phương Tây không làm sao hiểu nổi cái mối thù non hai ngàn năm của đa số dân chủng châu Âu đối với dân tộc Do Thái. Tôi có cảm tưởng rằng người phương Tây có tinh thần – tôi gần như muốn nói là cái “máu” kỳ thị màu da và tôn giáo. Chỉ ở châu Âu chúng ta mới thấy những chiến tranh tôn giáo dằng dai và kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại; và chỉ ở Mỹ – cũng là gốc Âu nữa – chúng ta mới thấy những vụ tàn sát da đỏ và da đen nối tiếp nhau hàng thế kỷ. Người phương Đông chúng ta vẫn thường chém giết nhau vì quyền lợi, vì danh dự, đôi khi cũng vì tín ngưỡng, nhưng cơn giận xong rồi thì thôi, Việt Nam, Trung-hoa, Nhật Bản hay Triều Tiên… lại vui vẻ sống chung với nhau, buôn bán với nhau, gả con gả cháu cho nhau, nhậu nhẹt với nhau, làm thơ tặng nhau, có bao giờ mà thù nhau truyền kiếp như đa số người theo Ki-tô giáo đối với những người theo Do Thái giáo, hoặc đa số người Mỹ da trắng đối với người Mỹ da đen.

Mà hai tôn giáo đó – Do Thái giáo và Ki-tô giáo – vốn là anh em với nhau chứ! Thánh Mẫu Marie và Chúa Ki-tô đều là Do Thái cả. Cả hai đều tuân theo những luật của Moïse, một vĩ nhân của Do Thái. Chúa Ki-tô lại còn giảng đạo trong những giảng đường của Do Thái giáo, môn đệ của Ngài đều là người Do Thái. Người ta bảo các thầy tu và tín đồ Do Thái đứng về phía nhà cầm quyền La Mã mà phản Ngài, nên Ngài mới bị xử tử, và khi Ngài bị đóng đinh trên thánh giá, tụi Do Thái reo: “Nếu chúng ta có tội thì máu hắn cứ rớt lên đầu chúng ta và con cái chúng ta”, rồi người ta dựng lên một thuyết kỳ dị rằng dân tộc giết Chúa sẽ đời đời kiếp kiếp bị một hình phạt rất nặng là lang thang hoài trên thế giới để chuộc tội.

Những điều tôi mới trình bày ở trên đều rút trong bài “L’antisemitisme, plaie des temps moderne” của Léon Poliakov đăng trong Le Courrier de l’Unesco số đặc biệt tháng mười năm 1960.

Trong số tháng giêng năm 1961, cũng tạp chí đó, linh mục Congar, viết một bài trả lời Léon Poliakov, nhan đề là Les chrétiens et l’ antisemitisme , đại ý nói rằng ý kiến của Léon Poliakov có phần đúng, nhưng có vài điểm ông không đồng ý, chẳng hạn:

1. Người Công giáo ghét người Do Thái khỏng phải là vô lý: trong bốn thế kỷ đầu sau Tây lịch, người Công giáo bị giết hại rất nhiều vì sự tố cáo của người Do Thái
2. Sự thù oán Do Thái do tôn giáo khác nhau chứ không do óc kỳ thị chủng tộc.
3. Chính người Do Thái tự sống cách biệt với người Công giáo chứ không phải tại người Công giáo dồn họ vào các ghetto.
4. Tư tưởng Công giáo thời xưa không chống riêng gì người Do Thái mà chống hết thảy những người ngoại đạo, Do Thái hay không Do Thái.

5. Trong giới Công giáo cũng có nhiều người bênh vực Do Thái, như Giáo hoàng Pie XI, Pie XII.

Ông Poliakov nhận rằng bốn điều 1, 2, 3, 5 đều đúng và ông cũng nghĩ như Linh mục Congar có khác chỉ là ở tiểu tiết thôi. Nhưng về điểm 4 thì ông giữ ý kiến của ông: rõ ràng là người Do Thái bị người Công giáo ghét một cách đặc biệt vì cái mối thù “giết Chúa” từ hồi xưa.

Người Do Thái có giết Chúa không? Điều đó, chúng tôi không biết. Việc xảy ra đã non hai ngàn năm rồi, nhà khảo cứu nào dám chắc là nắm được sự thực? Nhưng dù rằng Chúa Ki-tô chết vì bị vu oan, bị phản, thì những thầy tu và tín đồ đã phản Ngài cũng không phải là toàn thể dân tộc Do Thái, không phải là toàn thể những người Do Thái có mặt lúc đó nữa. Vả lại thời nào, dân tộc nào mà chẳng có những tăng lữ thối nát hoặc sợ sệt hùa theo chính quyền. Chính Chúa Kitô trước khi tắt thở còn “xin Cha tha thứ cho họ vì họ không biết họ làm gì”, thế thì tại sao người ta lại thù oán cả dân tộc Do Thái, thù lây đến cháu chắt của họ cả mấy chục đời sau nữa?

Sau vụ tàn sát năm 1096 ở châu Âu, tiếp tới các vụ dưới đây:
Năm 1113, “pogrom” đầu tiên ở Kiev, Ukraina ( Nga). Chúng tôi không được biết pogrom hồi đó kinh khủng ra sao, nhưng đọc những tài liệu mới đây viết về đời cô Golda Meyerson, (bộ trưởng Bộ ngoại giao của Israel hồi nhỏ sống ở Nga) được biết ở cuối thế kỷ XIX, tại Nga, Ba Lan, người Do Thái vẫn còn bị cái hoạ pogrom, pogrom là một tiếng Nga có nghĩa là bạo động phá phách. Thỉnh thoảng dân Nga hay Ba Lan vì một chuyện xích mích gì đó, nổi điên lên rủ nhau từng đoàn hàng mấy trăm người, cầm dao, búa, gươm, gậy vào những khu Do Thái mà khủng bố, đập phá, chém giết vô tội vạ. Cuộc bạo động lan từ tỉnh này qua tỉnh khác, một vài tháng mới dẹp xuống. Dân Do Thái mỗi lần nghe tin một đợt pogrom nổi lên, sợ xanh mặt, đóng kín cửa lại, chặn hai ba lớp, không dám ló mặt ra, hồi hộp đợi từng giờ từng phút, luôn trong mấy ngày, cho bọn hung thần đi qua. Mặc dầu vậy, chủng vẫn tông cửa xông vào, rất ít gia đình Do Thái tránh được.

Chính Chaim Weizmann (2), tổng thống đầu tiên của Israel, trong cuốn Naissance d’Israël (Ganimard 1957) nhắc lại những nỗi kinh khủng của đồng bào ông trong những vụ pogrom năm 1881 và 1903.

Năm 1138 – Bọn Alhomade tàn sát Do Thái ở Tây Ban Nha.
Năm 1182 – 1198 – Vua Philippe Auguste lưu đày tụi Do Thái
Năm 1189 – Viễn chinh lần thứ ba của Thập tự quân. Tàn sát Do Thái ở Anh.
Năm 1215 – Giáo Hoàng Innocent III ra lệnh cho Do Thái phải đeo hình bánh xe nhỏ (rouelle) ở ngực.
1254 – Vua Saint Louis lưu đày Do Thái.
1290 – Do Thái bị trục xuất ra khỏi Anh.
1330-1338 – Do Thái bị tàn sát ở Đức.

1348 – Nhân bệnh dịch hạch hoành hành ở châu Âu, người trút tội lỗi lên đầungười Do Thái và tàn sát họ

1391 – Do Thái bị giết ở Séville và bắt buộc phải cải giáo ở Tây Ban Nha

1394 – Vua Charles VI lại lưu đầy người Do Thái.
1421 – Do Thái bị trục xuất khỏi Vienne.
1492- Do Thái bị trục xuất khõi Tây Ban Nha
1495 – Do Thái bị trục xuất khỏi Lithuanie.
1498 – Do Thái bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha.
1516 – Thành lập ghetto đầu tiên ở Venise.
1563 – 1656 – Do Thái bị tàn sát ở Ukraine, Đức, ba Lan, Áo

1670 – Do Thái bị trục xuất khỏi Vienne
1740- Do Thái ở Prague bị lưu đày.
1768 – Nhiều vụ pogrom xảy ra ở Ukraine.
1827 – Nga hoàng Nicolas I bắt buộc các trẻ em Do Thái phải cải giáo.

1866 – Nhiều vụ pogrom xảy ra ở Roumanie
1883 – Nhiều vụ pogrom xảy ra ở Nga.

1883 – Do Thái bị trục xuất khỏi Moscow.
1894 – Vụ Dreyfus (trong chương sau chúng tôi sẽ kể)
1903 – Một vụ pogrom xảy ra ở Kichinev (Roumanie)
1905 – Nga thua Nhật – Cách mạng nổi lên ở Nga, và người ta lại trút cả tội lên đầu Do Thái do đó có nhiều vụ pogrom xảy ra trong tháng 10.

1919-1921 – Nhiều vụ pogrom xảy ra ở Nga
Bảng liệt kê ở trên, chúng tôi trích trong cuốn Israel của David Catarivas. Dĩ nhiên, ông chỉ ghi những vụ lớn lưu danh trong lịch sử châu Âu thôi, còn những vụ hành hung; giết chóc lẻ tẻ, trong mỗi tỉnh, mỗi làng thì không thể nào chép hết được.

Nhưng tất cả những vụ đó, ngay cả những vụ ở Worms, ở Mayence, thế kỷ XI, cũng không thấm vào đâu so với những vụ tàn sát Do Thái ở Ba Lan và Đức trong thế chiến vừa rồi.
Đã kỳ thị tôn giáo, nay lại thêm kỳ thị chủng tộc

Trước kia người ta thù oán, căm hận nổi doá lên mà chém giết cho hả, lần này thì Đức Quốc Xã của Hitler tàn sát Do Thái một cách bình tĩnh, có kế hoạch, có tổ chức theo đúng tinh thần khoa học, cho nên ghê gớm rùng rợn vô cùng, không tiền khóang hậu trong lịch sử nhân loại.

Người ta muốn tận diệt người Do Thái và như vậy, nhen lại lòng kỳ thị tôn giáo dĩ nhiên, là không đủ, rất nhiều người Do Thái đã cải giáo rồi, lấy lẽ gì mà giết họ. Cho nên người ta phải gây thêm lòng kỳ thị chủng tộc: hễ tổ tiên ba bốn mươi đời là Do Thái thì cũng bị giết, bất kỳ là đã cải giáo hay không cải giáo. Muốn kỳ thị chủng tộc, thì phải có một thuyết phân biệt chủng tộc: Dân Đức Quốc Xã moi các sách cũ trong thư viện ra và tim thấy cuốn Espèces de Plantes xuất bản năm 1753 của nhà vạn vật học Thuỵ Điển tên là Linné (1707-1778). Linné phân loại cây cỏ làm 24 giống, vạch những tinh chất đặc biệt của mỗi giống, lập thành một hệ thống tài tình được các nhà khoa học thế giới rất hoan nghênh. Phân loại cây cỏ rồi, ông phân loại tới loài người: “giống Âu da trắng mà siêng năng”, “giống Á da vàng mà dai sức”, “giống Phi da đen mà bạc nhược” và “giống Mỹ da đỏ mà nóng nảy”.

Thế là thuyết chủng tộc đã phát sinh và những người sau tha hồ mà phân tích, tưởng tượng, chia thêm ra vô số tiểu chủng nữa: giống Âu gồm những tiểu chủng Mông cổ, Thái, Mã Lai… Người ta cố tìm những nét đặc biệt về sắc, tướng của mỗi giống rồi cố giảng rằng những sắc, tướng đó quyết định tính tình, đức tốt, và tật xấu của con người. Cố nhiên, trong các giống người đó, có giống Do Thái và người ta tranh nhau vạch những đức cũng những tật của người Do Thái mà quên rằng thế giới hiện nay nếu còn có một giống Do Thái thì giống đó tất phải là những người Ả Rập sống trên lưu vực sông Euphrate, chứ không phải là những người Do Thái đã nhập tịch Anh, Đức, Ý, Mỹ.., và sống ở London, Berlin, La Mã, New York… vì những người này đã lai cả chục lần rồi, trong huyết quản may lắm là còn giữ được một phần mười máu của tổ tiên họ hồi theo Moïse mà định cư ở Israel.

Và người ta reo mừng rằng đã kiếm được một “căn bản khoa học” cho chủ nghĩa bài xích Do Thái.
Sau thế chiến thứ nhất, Đức Quốc Xã nắm ngay lấy cơ hội, tuyên truyền rằng giống Do Thái có máu quỉ quyệt, phản bội – thì xưa họ chẳng phản Chúa đấy ư? – không khi nào đồng hoá với các dân tộc khác, sống ở xứ nào cũng như bọn người lạ, chỉ tìm cái lợi cho họ mà nhiều khi chống lại chính phủ – thuyết cộng sản chẳng phải là thuyết của Karl-Marx, một tên Do Thái đấy ư? – Vậy để cho họ sống, sẽ có hại cho nền an ninh của Đức, mà một giống thông minh nhất thế giới, anh hùng nhất thế giới, tài giỏi nhất thế giới, cao thượng nhất thế giới sẽ lai bậy bạ mà sa đoạ lần lần mất. Phải tống cổ tụi Do Thái đi, sau khi tịch thu tài sản của chúng; như vậy lợi cho quốc gia biết bao, vì người Do Thái nào mà chẳng có nhiều tải sản: bọn đó là con buôn ham tiền mà keo cú, tích luỹ tiền đã mấy chục đời rồi!

Mới đầu người ta cấm họ hành nghề, rồi người ta cấm họ vào các rạp hát, các thư viện, các viện tàng cổ. Họ vẫn nhẫn nhục ở trong cái xứ mà từ bấy lâu nay họ đã coi là tổ quốc, dù sao như vậy vẫn còn hơn là làm bọn hành khất ở các nước khác. Rồi người ta cấm họ mướn người ở – một giống hạ tiện đâu có quyền mướn một người thuộc giống cao quý nhất thế giới – lại bắt họ phải đính ngôi sao David (3) lên áo để cho mọi người dễ nhận ra họ như nhận tụi cùi, tụi tù nhân. Không ngờ ở thế kỷ chúng ta mà câu tục ngữ Nga này lại đúng đến thế: “ Không ai dám chắc suốt đời không phải làm kẻ ăn mày hoặc kẻ tù tội!”

Từ các nhà bác học tới các giáo sư Đại học, các giám đốc ngân hàng, hễ tổ tiên ba bốn mươi đời là Do Thái, thì cũng đành phải xin tờ hộ chiếu của một nước khác, rồi bỏ hết tài sản lại cho Đức Quốc Xã, xách một va li nhỏ đựng ít quần áo rồi ra đi. Một sản phẩm lạ lùng của thế giới văn minh này là tờ hộ chiếu. Không có tờ đó hộ thân thì có tài đức bực gì cũng bị nhốt khám? Có khi ở trong một xứ, đi từ tỉnh này qua tỉnh khác cũng phải có một tờ hộ thân. Einstein, nhà bác học làm vẻ vang cho cả nhân loại, đã được chính phủ Đức ban cho đủ các ân huệ, dựng một tượng bán thân của ông ở Postdam, tặng ông một dinh thự và một chiếc tàu buồm, gọi là tỏ “lòng quý mến và ngưỡng mộ bất tuyệt” của dân tộc mà rồi ít năm sau, người ta đòi lại tất cả những cái đó, ông sợ, không dám trở về quê quán nữa, trốn ra đi, qua Bỉ, sống lén lút trong một ngôi nhà có cửa song sắt và đêm nào cũng phải có một người lính canh cho ngủ. Ở Bỉ cũng không yên, ông lại phải trốn qua Mỹ, nhập tịch Mỹ làm giáo sư trường Đại học Princeton. Freud cũng là một bậc thiên tài của nhân loại, đã phải trốn trước Einstein từ năm 1938, hồi 80 tuổi, ông qua ở nhờ nước Anh, gặp văn sĩ Stefan Zweig ở London. Trước kia trong cuốn L’avenir d’ une illusion (Tương lai của một ảo ảnh), Freud đã bảo rằng nhân loại xây dựng được nhiều nền văn minh, nhưng số người văn minh thì thời nào cũng rất ít, và đa số chỉ có cái bề ngoài là văn minh; họ hoảng sợ khi nghĩ tới chuyện giết người, hiếp dâm nhưng rồi chính họ, nếu gặp cơ hội thoả mãn thú tính của họ mà không bị trừng trị thì sẽ không do dự gì cả, thẳng tay làm hại đồng loại bằng mọi phương tiện tàn nhẫn, bỉ ổi, không ngờ mà ngay trong đời ông, ông phải thấy thuyết của ông đúng quá: ông và hàng triệu đồng bào của ông đã là nạn nhân của cái nền văn minh bề ngoài ấy của phương Tây.

Freud chết ở London năm 1936. Ba năm sau, nghe thấy những tin tức rùng rợn về cuộc tàn sát Do Thái ở Trung Âu và Tây Âu, Stefan Zweig âu sầu quá, tự tử sau khi đã để lại cho đời một hồi ký thê thảm nhan đề “Le monde d’hier” (Thế giới hôm qua) trong đó có đoạn chua chát:

“Những cái thảm thương nhất trong bị kịch Do Thái ở thế kỷ XX này là những kẻ bị tai hoạ không thể hiểu nổi ý nghĩa của bi kịch đó; tại sao người ta lại giết họ khi họ không có lỗi gì cả? Thời trung cổ, tổ tiên họ phải đau khổ, nhưng ít nhất cũng hiểu mình đau khổ vì cái gì: vì tín ngưỡng, vì luật trong đạo (…). Và khi người ta liệng họ lên giàn hoả, thì họ ôm Thánh Kinh vào lòng, nhờ nhiệt tâm trong lòng mà chịu được sức nóng của ngọn lửa thiêu họ (…) Nhưng đã từ lâu rồi, những người Do Thái ở thế kỷ XX không còn tín ngưỡng đó nữa, chỉ muốn sáp nhập vào các dân tộc khác (…); đã từ lâu rồi họ thành, những người Pháp, Đức, Anh, Nga, không còn nhiều tính cách Do Thái nữa, thì tại sao người ta lại tàn sát họ, hốt họ như hốt bùn trên đường (…) Tại sao họ phải chịu hoài số kiếp đó? Mà chỉ có riêng họ phải chịu? Người ta tàn sát họ như vậy là có lý do gì không? Có ý nghĩa gì không? Có mục đích gì không? Tại sao?
Chú thích:

1. Giáo chủ Hồi giáo (570 – 632) hồi xưa quen viết là Mahomet

2. Theo J. madaule trong Les Juifs et le monde actuel –Flammation – 1963

3. Ông sanh ở Motel (tỉnh Minsk) trên đất Nga – Có sách viết là Zaim Weizmann.

4. Vua thứ nhì của Israel, đã thắng dân tô(c Philistin (khoảng 1000 năm trước Tây lịch)

 


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.