Bản Lĩnh Putin

CHƯƠNG 7: CHẤN HƯNG NƯỚC NGA



1. Putin có phải là “một tấm bảng đen”

Con đường của Putin có thể coi là thuận lợi, thời gian ông chuyển từ Saint Peterburg tới Moscow chỉ mất ba năm nhưng đã trở thành tổng thống của Nga.

Có người cho rằng: Putin là một tấm bảng đen, và mọi người viết lên trên tấm bảng đen đó những nguyện vọng của mình. Gorbachov cho rằng, Putin là người làm việc rất quyết đoán, nhưng Putin nên quyết liệt hơn với gia đình Yeltsin. Chubais cho rằng: Putin phải làm cho nước Nga trở nên lớn mạnh hơn nữa. Yuganov cho rằng Putin cần phải hợp tác cùng với Đảng Cộng sản Nga thì mới có thể phục hưng được nước Nga.

Người Đức cho rằng, Putin đã từng làm việc nhiều năm tại Đông Đức, nhưng Putin quá thần bí. Thủ tướng Đức Schroeder hy vọng thiết lập được quan hệ cá nhân với Putin. Lý lịch KGB của Putin đã khiến các nước phương Tây luôn nghi ngờ. Nhưng các ngoại trưởng phương Tây sau khi tới Moscow và gặp gỡ ngoại giao với Putin đều có cảm tình với ông.

Ngoại trưởng Mỹ – bà Rice phát hiện, Putin không cần các trợ lý của mình chuẩn bị tài liệu hộ, Putin nắm rất rõ tình hình của Nga. Bà rất có cảm tình với Putin: “Chúng tôi biết ông ấy nói gì, điều quan trọng hơn là sau đó ông ấy làm gì”.

Thủ tướng Tony Blair của Anh là nguyên thủ đầu tiên của các nước phương Tây có mối quan hệ với Putin. Đầu tháng 3 năm 2000, ông Blair và phu nhân đã bay từ Anh tới St Peterburg, ở đây họ được tiếp đãi trong một khách sạn sang trọng và cùng hội đàm với Putin.

Trước khi Thủ tướng Anh Blair tới thăm Nga, Tổng thống Putin đã trả lời phỏng vấn của các phóng viên phương Tây, ông nhấn mạnh rằng: “Nước Nga là một phần của châu Âu và Nga không thể tự cô lập mình ra khỏi châu Âu hoặc nền văn minh thế giới. Nếu quyết sách của Khối liên minh Bắc Đại Tây Dương thay đổi thì Nga có thể xem xét tới việc gia nhập Khối liên minh Bắc Đại Tây Dương”.

Về mặt ngoại giao, Putin chủ trương theo đuổi “thế giới đa cực”, “xây dựng hệ thống quan hệ quốc tế kiểu mới”, tăng cường sức mạnh cho vũ khí hạt nhân của Nga, tích cực “hoà nhập với cộng đồng quốc tế”, không theo chủ nghĩa cô lập, tránh rơi vào mâu thuẫn mang tính khu vực.

Putin định ra nhiều chính sách ngoại giao xuất phát từ lợi ích nhiều mặt của quốc gia, mục tiêu trong nước cao hơn mục tiêu bên ngoài và thực hiện mối quan hệ giao lưu kinh tế với bên ngoài.

Về quan hệ Nga – Mỹ, Nga tích cực tranh thủ sự viện trợ và ủng hộ hơn nữa về mặt kinh tế. Putin chủ trương quan hệ Nga – Mỹ có thể phát triển dựa trên cơ sở bình đẳng.

Nhưng nước Mỹ lại không từ bỏ ý đồ chiếm đoạt bất hợp pháp không gian chiến lược của Nga và ngăn chặn việc chấn hưng của Nga.

Cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton đã từng tới thăm Nga, Nga – Mỹ đã ký kết thoả thuận chung về việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và thông báo cho nhau tình hình phóng tên lửa.

Về quan hệ của Nga và liên minh châu Âu, Nga hy vọng có thể tham gia hợp tác kinh tế với châu Âu.

Khi tham gia hội nghị cấp cao Nga – châu Âu, Putin nhấn mạnh, việc tăng cường đối thoại chính trị giữa Nga và liên minh châu Âu sẽ có lợi cho ổn định và phồn vinh của châu Âu. Liên minh châu Âu có ý định lợi dụng mâu thuẫn giữa Nga và Mỹ để gia tăng ảnh hưởng chiến lược của mình, còn Nga có ý định liên kết với liên minh châu Âu để đối kháng với kế hoạch hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia của Mỹ.

Trong quan hệ của Nga và NATO, cuộc chiến Kosovo ảnh hưởng không nhỏ tới quan hệ của Nga và NATO.

Ngày 24 tháng 5 năm 2000, Nga và NATO cùng Uỷ ban thường vụ Liên hiệp cấp ngoại giao NATO tổ chức hội nghị cấp cao, hội nghị đã đánh dấu việc hóa giải cuộc chiến tranh lạnh giữa Nga và NATO. Nhưng mối đe doạ về việc mở rộng sang phía Đông của NATO với Nga vẫn còn rất lớn.

Về quan hệ của Nga và cộng đồng các quốc gia độc lập, Putin đặt việc phát triển quan hệ với cộng đồng các quốc gia độc lập vào vị trí ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Nga. Nga chuẩn bị viện trợ tài chính và quân sự cho các nước Kyzgyzstan, Kazakhstan, Armenia, Belarut.

Trong quan hệ với Trung Quốc và Việt Nam Nga đặt trọng điểm vào lĩnh vực hợp tác kinh tế thương mại. Trong thế kỷ mới, quan hệ Nga – Việt, Nga – Trung sẽ có bước phát triển lớn mạnh hơn nữa.

2. Tăng cường lợi ích của nga trong quan hệ đối ngoại

Sau sự kiện ngày 11 tháng 9, Nga phát tín hiệu với Mỹ: “Chúng tôi sẽ đứng cùng chiến tuyến với các bạn”. Điều này liệu có chứng tỏ rằng, cuộc hội ngộ giữa Putin và Bush có tính đột phá?

“Tuần báo tin tức” của Mỹ cho rằng: “Chúng tôi gọi đó là chứng bệnh chung của Gorbachov và Yeltsin. Với thái độ của Putin, ngoại trừ cảm giác đau đớn thì trên thực tế nó chẳng mang lại điều gì cả. Putin sẽ bước theo vết xe đổ mà Gorbachov và Yeltsin đã từng đi qua, khả năng này là rất lớn. Gorbachov và Yeltsin muốn tiếp cận với phương Tây, nhưng họ đã phải thất vọng”.

Nhìn lại lịch sử, khi Gorbachov đồng ý dỡ bỏ bức tường Beclin, ông tin tưởng rằng sau khi nước Đức thống nhất thì khối NATO sẽ ngừng việc mở rộng sang phía Đông. Nhưng, trên thực tế khối NATO vẫn không ngừng lớn mạnh sang phía Đông. Vài năm sau, Khối NATO thu nạp thêm một vài nước thành viên đến từ Hiệp ước Vacsava. Năm 1991, Gorbachov rút quân đội Liên Xô ra khỏi Cu Ba nhưng không hề nhận được bất cứ sự báo đáp nào từ phía Mỹ.

Kỳ vọng của Yeltsin vào các nước phương Tây cũng rơi vào vô vọng tương tự như vậy. Ông cho rằng mình đã bị phương Tây lừa gạt. Chẳng hạn như các nước phương Tây không chịu xóa bỏ nợ cũ của Liên Xô trước đây. Năm 1999, sau khi Nga ép đồng minh cũ là Nam Tư đầu hàng, nước Nga cũng không hề nhận được bất kỳ sự báo đáp nào mà ngược lại còn đánh mất ảnh hưởng đối với bán đảo Bankan.

Người ta gọi quan hệ Nga – Mỹ trong những năm 90 của thế kỷ 20 là “mười năm ngớ ngẩn”.

Liệu Putin có thể thoát ra khỏi vết xe đổ của hai người tiền nhiệm? Cái mà nước Mỹ thành lập không phải là Liên minh chống khủng bố lâu dài mà chỉ là một liên minh chiến thuật tạm thời.

Sự nhượng bộ của Mỹ với tất cả các nước thành viên Liên minh chống khủng bố trên toàn cầu chỉ là để giải quyết một vài vấn đề cụ thể. Còn quan hệ Nga – Mỹ được quyết định bởi tình hình thương lượng đối với tất cả các vấn đề.

Nga không muốn tình hình như vậy kéo dài, đặc biệt là khi Nga – Mỹ can thiệp tới những vấn đề quan trọng như các căn cứ quân sự chiến lược nhưở Cu Ba, Việt Nam và những điểm nóng khác trên thế giới… Một khi Nga phản kháng thì quan hệ Nga – Mỹ sẽ trở nên sáng lạn hơn, Liên minh chiến thuật Nga – Mỹ không phải là một liên minh chiến lược.

Sự hợp tác của Nga – Mỹ trong thế kỷ mới phải xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của hai bên, cả hai cần phải đưa ra những nhượng bộ nhất định.

Sự tranh chấp có liên quan tới việc “Đông tiến” của Khối NATO và phòng thủ tên lửa đạn đạo giữa Nga và Mỹ rất gay gắt. Cho dù hai bên có tạo ra thái độ thoả hiệp nhưng liệu có thể đạt được sự thống nhất hay không còn phải chờ đến quyết định của hai bên có thể tiếp nhận được phương án do đối phương đưa ra hay không?

Về vấn đề của Afganistan, Nga – Mỹ đạt được sự nhất trí về việc đối phó với chính quyền Taliban, nhưng làm thế nào để xây dựng được chính quyền sau chiến tranh ở đây thì hai nước lại có mâu thuẫn rõ rệt.

Vấn đề về Afghanistan có liên quan tới lợi ích kinh tế và an toàn chiến lược của miền Nam nước Nga, liên quan tới vấn đề tài nguyên của vùng Trung Á, nên từ 20 năm trước, hai nước Nga và Mỹ đã có tranh chấp quyết liệt về vấn đề của Afghanistan.

Sau sự kiện ngày 11 tháng 9, thế lực của Mỹ đã lan tới khu vực Trung Á và bắt đầu có hợp tác về mặt quân sự, chính trị với một số nước ở vùng này. Trước tình hình này, chính phủ Putin lập tức điều chỉnh lại chính sách với Trung Á, triển khai hợp tác toàn diện với các quốc gia khu vực này trong lĩnh vực quân sự, năng lượng, giao thông v.v…

Năm 2003, tổ chức Điều ước an ninh khối các quốc gia độc lập được thành lập, đánh dấu sức mạnh của Nga đã quay trở lại khu vực Trung Á.

Trung Á là phạm vi ảnh hưởng của Nga.

Đã vài lần Nga lên tiếng, muốn phát triển và mở rộng căn cứ quân sự tại khu vực Trung Á. Trong thời gian Putin tới thăm Kazakhstan, hai nước đã ký kết hàng loạt các hiệp định hợp tác quân sự. Ngoài ra, Nga cũng không ngừng sử dụng hợp tác năng lượng để mở rộng phạm vi ảnh hưởng.

Đầu năm 2003, tại Gruzya xảy ra đảo chính và cuộc khủng hoảng chính quyền ở Mondova khiến Nga cảm thấy lo lắng về sự can thiệp của Mỹ đối với phạm vi ảnh hưởng của mình.

Chính phủ Putin ngày càng mở rộng lợi ích quốc gia của Nga, đồng thời khuynh hướng chủ nghĩa dân tộc Nga ngày càng trở nên mãnh liệt.

Khi Bush tuyên bố xây dựng quan hệ hợp tác chiến lược với Nga, Putin vẫn còn đang suy xét về việc Nga tham gia “Tổ chức hợp tác Thượng Hải”, và xây dựng quan hệ hợp tác chiến lược bền chặt hơn nữa với Trung Quốc. Khi Nga bắt đầu xây dựng căn cứ không quân Canther ở Kyzgyzstan, có phóng viên đã hỏi Putin: Ông giải thích thế nào về hành động cả hai nước Nga – Mỹ cùng có căn cứ không quân trên lãnh thổ một nước. Putin trả lời: Hai nước Nga – Mỹ cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Nếu căn cứ quân sự của Mỹ ở Kyzgyzstan mang tính chất tạm thời thì căn cứ của Nga tại nơi đây mang tính vĩnh viễn. Khi phát động chiến tranh Afghanistan, Mỹ đã từng nhiều lần lớn tiếng khẳng định lực lượng quân sự Mỹ không đóng lâu dài tại vùng Trung Á nhưng cho đến nay quân đội Mỹ vẫn chưa rút khỏi khu vực này vì vậy Putin không thể yên tâm về hành động của Mỹ.

Tình hình chính trịở Gruzya có sự thay đổi lớn, cùng với việc Mỹ tăng cường lực lượng còn lên tiếng kêu gọi Nga rút quân khỏi căn cứ quân sự Gruzya. Phía quân đội Nga lên tiếng rằng, sẽ không xảy ra tình trạng rút quân theo kiểu ở cộng hòa dân chủ của Đức trước đây. Về mặt ngoại giao, Putin nhấn mạnh với phía Mỹ về rất nhiều khó khăn và nguyên nhân việc rút quân khỏi khu vực này cần phải một khoảng thời gian tương đối dài.

Bộ trưởng Quốc phòng mỹ Corin Powell đã tham gia lễ nhận chức của tân tổng thống Gruzya và sau đó tới thăm Nga. Giới truyền thông của Nga đã bình luận: “Việc Mỹ liên kết với các nước láng giềng của Nga chính là một mối đe doạ với Nga”.

Về đối ngoại, Putin coi trọng lợi ích của Nga, điều này hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của rất nhiều người dân Nga sau khi Liên Xô tan rã.

3. Sự tương phản giữa tình hình và thực lực của một nước lớn.

Bước vào thế kỷ 21, ngoài một số ít những người hoang tưởng, ở Nga chẳng còn ai muốn tiếp tục làm thử đức cứu thế nữa. Nhưng điều này không chứng tỏ rằng, ý thức sứ mệnh của người Nga về một nước lớn đã hoàn toàn mất đi.

Nền văn minh Nga còn bao hàm cả ý thức sứ mệnh và tinh thần của đức cứu thế, nó được thể hiện xuyên suốt trong chặng đường lịch sử của Nga. Yù thức sứ mệnh và tinh thần cứu thế đã sớm thể hiện trong giấc mơ xây dựng một “Đế quốc La Mã thứ ba” do Cơ đốc tâm giáo Nga đề xướng vào thế kỷ 15.

Khi Nga bị loại ra khỏi câu lạc bộ các cường quốc cũng như việc không thể loại bỏ ý thức thù địch của họ đối với Nga của các nước phương Tây thì từ trong ý thức của mình, người Nga cảm thấy bị sỉ nhục. Do đó, họ không ngừng nhấn mạnh địa vị một nước lớn và sứ mệnh lịch sử của mình.

Hai mâu thuẫn lớn vây hãm nước Nga trong một thời gian dài đã đẩy Nga rơi vào đường cùng trong quan hệ ngoại giao là: Thứ nhất, mâu thuẫn giữa sự suy yếu của quốc gia và ý muốn duy trì địa vị của một nước lớn; Thứ hai, mâu thuẫn giữa chiến lược ngoại giao tranh thủ hoàn cảnh tốt để phát triển kinh tế với hoàn cảnh bên ngoài ngày càng trở nên xấu đi.

Yù muốn duy trì địa vị một nước lớn của Nga đã phản ánh sự bất lực của họ trong quá trình thực hiện.

Sự sụp đổ của nhà nước Xô Viết trước đây đã làm tan rã hệ thống phân bố công nghiệp và sự phân bố tài nguyên. Các quốc gia độc lập cũng đều gặp phải những khó khăn về mặt kinh tế.

Xuất phát từ thực tế, cựu thủ tướng Nga Gaidar bắt đầu tiến hành chỉnh đốn nền kinh tế. Đầu tiên, ông cho khôi phục lại sự vận hành kinh tế Nga, mạnh dạn tiến hành cải cách. Nhưng chính phủ Nga lại sử dụng những phương án cải cách tự do hoá, thậm chí là sử dụng “liệu pháp chữa sốc” khiến cho nền kinh tế Nga dường như bị đóng băng.

TƯ LIỆU VỀ “LIỆU PHÁP CHỮA SỐC” CỦA NGA

“Liệu pháp chữa sốc” là phương pháp giám sát vĩ mô do nhà kinh tế người Mỹ J. Sacks đưa ra. Biện pháp này thả nổi vật giá, thít chặt vòng quay chu chuyển tiền tệ, ổn định tiền tệ, giảm thiểu hỗ trợ tài chính, thực hiện trao đổi tự do tiền tệ, từ đó ngăn chặn lạm phát, ổn định kinh tế.

Năm 1985, Bolivia xảy ra khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, tổng giá trị sản xuất trong nước giảm 9%. Chính phủ Bolivia đã thực hiện “liệu pháp chữa sốc”. Năm 1987, tổng giá trị sản xuất quốc nội của Bolivia tăng 2,1%, dự trữ ngoại tệ tăng hơn 21 lần.

Năm 1990, Ba Lan và một vài quốc gia khác đều dùng “Liệu pháp chữa sốc” nên đã ổn định được nền kinh tế.

Do đó, Thủ tướng Nga Gaidar đã mạnh dạn áp dụng biện pháp này để cải cách hệ thống kinh tế bao cấp của nước mình. Ông đã rất mạo hiểm cho thực hiện “Liệu pháp chữa sốc” khiến vật giá của Nga tăng hơn 4,5 lần, thị trường hoàn toàn được thả nổi; doanh nghiệp không có khách hàng và nhà cung cấp cố định. Chính phủ cắt giảm mua hàng quân sự.

Kết quả, mức sống của người dân sụt giảm nhanh chóng, xã hội phân hoá sâu sắc thành hai tầng lớp giàu – nghèo rõ rệt.

Sau khi thực hiện “Liệu pháp chữa sốc” và tư hữu hoá, nền kinh tế bao cấp của Nga đã bị xoá bỏ, nhưng vẫn chưa tìm được biện pháp hiệu quả khiến cho nền kinh tế của mình phát triển một cách lành mạnh.

Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1998, Primakov nhận chức Thủ tướng và ổn định được cục diện xã hội. Nhưng kế hoạch khôi phục nền kinh tế mà chính phủ thực hiện vẫn trở về nền kinh tế bao cấp trước đây. Kết quả là Thủ tướng Primakov cũng bị mất chức.

Tìm ra con đường cải cách đúng đắn liệu có phải là cơ sở để chấn hưng lại được uy thế của quốc gia. Sứ mệnh này hoàn toàn đặt trên vai của Tổng thống Putin.

Putin nói rằng: “Không chỉ dựa vào kinh nghiệm của các nước đi trước. Điều cốt lõi là phải tìm cho được con đường cải cách thích hợp cho sự phát triển của chính nước Nga”. Nhưng cuối cùng con đường cải cách của nước Nga như thế nào thì Tổng thống Putin vẫn còn đang trong quá trình tìm kiếm.

Nga là một nước lớn, nhận thức này của Putin hoàn toàn chính xác. Nhưng nếu nói Nga là một nước mạnh thì chỉ mạnh về mặt quân sự bởi vì Nga là một nước hàng đầu về vũ khí hạt nhân chiến lược và một số vũ khí thông thường khác. Thực sự, Nga vẫn là một nước có thể ngang sức với Mỹ.

Nhưng về mặt kinh tế, Nga lại thuộc về nước thứ hai, thứ ba. Ví dụ, tổng thống Bush của Mỹ khi vừa lên nhận chức đã có tiền để vung mạnh tay ở khắp nơi, còn Putin thì chỉ có “Judo”, ông muốn dùng nhu để thắng cương.

Putin cho rằng, cuộc đọ sức giữa các nước mạnh và cách thể hiện cụ thể của nó không gì khác hơn chính là cuộc đọ sức bằng cách nghiên cứu và vận dụng những khoa học kỹ thuật tiên tiến. Mục đích của cuộc đọ sức này là làm cho cuộc sống của người dân trở nên sung túc hơn, bảo vệ được lợi ích của quốc gia mình nhiều hơn.

Nga là một nước lớn cho nên luôn phải đề phòng xảy ra khủng hoảng, người Nga cần phải có lòng tự tin dân tộc. Chính phủ Putin đã ngăn chặn thành công sự xuống dốc về kinh tế trong nhiều năm liên tục, và kinh tế đã có biểu hiện đang tăng trưởng. Nhìn từ thực tiễn cải cách của Trung Quốc, nếu đường lối của Putin là đúng đắn thì dựa vào nguồn tài nguyên phong phú và những cơ sở đã có, việc phục hưng nước Nga là điều không khó.

Ngoài ra, Putin đang thực hiện kế hoạch ngoại giao thiết thực, tạo ra môi trường quốc tế có lợi cho sự phát triển của Nga. Putin khẳng định, lợi ích thiết thực của quốc gia trong đó bao gồm lợi ích kinh tế phải trở thành chức trách của các nhà ngoại giao.

Vì thế, quyền lợi và sự giàu có của người dân Nga đều được quyết định bởi các vấn đề nội bộ có giải quyết được hay không.

Từ thế kỷ 19, quá trình tham gia vào các công việc châu Âu của Nga gặp không ít sóng gió.

Có người cho rằng, tình thế của Nga khi đó cũng tương tự như nước Nga sau cuộc chiến tranh Krym.

Lúc đó, Nga bị các cường quốc châu Âu vây chặt, hơn nữa chế độ nông nô của Nga đã kìm hãm sự phát triển của chính nước họ.

Trong hoàn cảnh lúc đó, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nga đã đưa ra chiến lược ngoại giao mới: “Nga không nóng vội, nước Nga đang tích trữ sức mạnh, nuôi dưỡng chí khí”. Chủ trương của chính phủ Nga là, sau khi bị thiệt hại nặng nề, Nga cần phải hoà giải với các nước khác; giảm thiểu mức độ tham chính vào các sự vụ châu Âu; tập trung lực lượng để cải cách chế độ nông nô; chính sách ngoại giao bắt buộc phải tuân theo cải cách trong nước.

Đầu thế kỷ 20, khi nước Nga lại một lần nữa bị tụt hậu xa so với các nước phương Tây, người đứng đầu của nước Nga – Sa Hoàng kêu gọi các nước phương Tây: “Hãy cho nước Nga 20 năm hoà bình trong nội bộ lãnh thổ và lĩnh vực ngoại giao, lúc đó sẽ xuất hiện một nước Nga hoàn toàn mới”.

Đại đế Pie đã tận dụng thời gian 20 năm và cuối cùng đã phá vỡ được sự phong toả của Thụy Điển, giành được con đường ra vào châu Âu trên biển. Trong thời gian 15 năm, nước Nga hoàn toàn phá bỏ được sự phong toả trên biển Hắc Hải của các cường quốc châu Âu đối với Nga.

Vấn đề hiện tại là, việc chấn hưng nước Nga của Putin cần thời gian bao lâu? Chiến lược ngoại giao của Nga có thể tránh được vết xe đổ 10 năm trước hay không?

Những nguy cơ mà nước Nga phải đối mặt hiện nay dường như đều xuất phát từ một nguyên nhân, đó chính là sự suy thoái từ nội bộ. Hiển nhiên, 35% nguồn tài nguyên trên toàn cầu tập trung ở lãnh thổ Nga với tình hình hơn một nửa tài nguyên chiến lược mà nước Nga suy thoái thì cho đến ngày nay liệu có thể quy tội đó thuộc về các nước phương Tây hay không?

Nếu các nước phương Tây không để nhìn nhận đến lợi ích của Nga thì “Sự tôn nghiêm một nước lớn” của Nga sẽ bị tổn hại nghiêm trọng. Sự lớn mạnh của tinh thần chủ nghĩa dân tộc Nga sẽ làm tăng thêm thái độ thù địch của các nước phương Tây với Nga.

Giấc mộng phục hưng nước Nga của Putin có thể trở thành hiện thực được hay không, sẽ phụ thuộc vào hai vấn đề cơ bản. Thứ nhất, các cường quốc phương Tây phải ủng hộ lợi ích của Nga và phải giữ quan hệ hợp tác với Nga. Thứ hai, vấn đề uy hiếp lớn nhất đối với Nga không phải là các sức mạnh châu Âu, mà là chính bản thân nước Nga.

Sự trái ngược giữa tinh thần chủ nghĩa nước lớn của người dân Nga và địa vị quốc tế hiện nay đã thường xuyên khiến chính phủ Putin rơi vào tình thế khó khăn. Nhưng Putin không hề nản lòng, không ngừng phấn đấu vì sự nghiệp phục hưng nước Nga.

4. Ai đã “bắt chẹt” Putin

Khi quan hệ với các nước phương Tây, người Nga luôn mang trong mình tâm lý mâu thuẫn: Họ vừa ngưỡng mộ sự tiên tiến của phương Tây nhưng lại vừa khó có thể chấp nhận được quan niệm giá trị của người phương Tây. Và mâu thuẫn này đã được kiểm chứng từ rất nhiều nhân vật nổi tiếng của Nga. Có rất nhiều người xuất phát từ ý muốn kết thân với phương Tây nhưng sau đó lại nói lời kết thúc vì họ vẫn còn nuối tiếc nền văn minh Nga.

Sau khi đế quốc Mông Cổ bị tiêu diệt, từ quan niệm giá trị, cách sống đến an ninh quốc gia, toàn bộ những thứ mà người Nga có thể cảm nhận được chính là sự uy hiếp đến từ các nước phương Tây. Mâu thuẫn giữa văn minh Nga và văn minh phương Tây do việc cải cách phương Tây hoá nước Nga tạo ra và những thay đổi về chế độ xã hội, đã tạo ra khuynh hướng chống lại phương Tây.

Một khi khuynh hướng này cùng kết hợp với khát vọng mãnh liệt là được tham gia vào các sự vụ châu Âu thì nó không chỉ là yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia nữa mà nó còn mang cả tinh thần trách nhiệm của sứ mệnh.

Nga biết các nước phương Tây không phải là đức cứu thế của họ, họ vẫn còn có những xung đột về lợi ích căn bản với các nước phương Tây.

Lấy việc các nước phương Tây đòi nợ là một ví dụ, từ đầu chí cuối các nước phương Tây luôn muốn gây rối. Theo tài liệu mà thủ tướng Kasyanov công bố thì nợ nước ngoài của Nga lên tới 149 tỷ đô la, kim ngạch xuất khẩu dầu năm 2003 tăng, dự trữ ngoại tệ ngày 1 tháng 2 năm 2004 đã đạt 29,6 tỷ đô la, tăng 2 lần so với năm 2003.

Các nước phương Tây gõ cửa đòi nợ, họ coi chuyện đó như một lý do đương nhiên, không cần bàn cãi. Nhưng hơn một nửa số nợ họ đòi là xuất phát từ mục đích chính trị, họ muốn giảm vị thế ngoại giao của Putin. Các nước phương Tây có ý đồ dựa vào khoản nợ đó để giành ưu thế. Sau khi lên nắm quyền, Tổng thống Bush lập tức thay đổi chính sách viện trợ của cựu tổng thống Bill Clinton đối với Nga. Khi Putin thăm Cu Ba, Hạ viện Mỹ đã thông qua dự luật với những lời uy hiếp: Nếu Nga không đóng cửa “trung tâm gián điệp” tại Cu Ba thì khoản nợ mà Liên Xô nợ Mỹ sẽ phải hoàn trả ngay.

Ngoài ra, nước Đức còn có ý đồ giành lấy vùng đất Kaliningra – lãnh thổ của Nga. Kaliningrad vốn thuộc về Prussia, sau chiến tranh thế giới thứ hai đã cắt nhượng lại cho Liên Xô.

Thủ tướng Đức Schroeder đã từng đem vấn đề nợ cũ và vấn đề Kaliningrad đánh đồng với nhau.

Xem ra, vấn đề nợ cũ của Nga đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới vấn đề lãnh thổ. Trong rất nhiều vấn đề quan hệ đối ngoại quan trọng của Nga thường xuyên xuất hiện sự can thiệp của vấn đề nợ cũ.

Nước Nga vừa bước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á và đang cần gấp một lượng tiền lớn.

Ban đầu, trong ngân sách của Nga chỉ có 1,3 tỷ đô la dùng để trả nợ nước ngoài. Dưới sức ép của các nước phương Tây, chính phủ Putin đã buộc phải sửa đổi ngân sách. Lập trường cơ bản của chính phủ Putin là, nợ nước ngoài của Nga vẫn phải trả nhưng nợ nước ngoài của Liên Xô, liệu có thể xoá bỏ được phần nào hay không? Điều này cần phải trải qua các cuộc đàm phán ngoại giao vô cùng khó khăn.

Mục đích của các nước phương Tây là thông qua nợ nước ngoài để thít chặt Putin, nhưng phương Tây vẫn chưa thể thực hiện được ý đồ của họ.

5. Sức nặng của “quả cân nga”?

Sau khi chính phủ Putin bắt giam người giàu có nhất nước Nga là Khodokovsky, chính phủ Bush đã công khai phản đối, yêu cầu Putin đưa ra chứng cứ luật pháp buộc tội đối với Khodokovsky. Đồng thời nhắc nhở rằng hành động bắt giam này có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề chính trị dân chủ ở Nga. Thái độ cứng rắn của Putin không hề bị lay động bởi sự can thiệp của chính phủ Bush.

Chính phủ Bush không thể “kiên nhẫn” được nữa. Một trong những mục tiêu quan trọng của Mỹ đối với chính sách của Nga là phải ngăn chặn những người có thế lực thống trị nước Nga.

Ban đầu, nước Mỹ cho rằng, nếu chính phủ Putin tiếp tục thực hiện dân chủ Quốc hội kiểu phương Tây và không ngừng tăng cường xây dựng nền kinh tế thị trường, sẽ tạo ra mối uy hiếp rất lớn cho lợi ích chiến lược của Nga đối với Mỹ. Nhưng sau đó Mỹ phát hiện, dường như chính phủ Putin ngày càng trở nên chuyên chế, điều này làm cho Mỹ nghĩ lại tình cảnh tranh bá giữa Nga và Mỹ vào thời Stalin.

Nhưng rốt cuộc sức nặng của “quả cân Nga” nặng bao nhiêu? Điều này được quyết định bởi chính nước Nga.

Trước mắt, ngoại trừ vũ khí ra, Nga đã bị đẩy ra khỏi thị trường sản phẩm khoa học kỹ thuật trên thế giới.

Chính phủ Putin đang ra sức phát triển kỹ thuật cao, tăng cường sản xuất các sản phẩm có tính trí tuệ cao, phát triển hệ thống thông tin, công trình công cộng, kinh doanh, khoa học và giáo dục, thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế…

Hơn 70% thiết bị của các công ty công nghiệp Nga đều đã lạc hậu, chỉ còn lại năm mươi phần trăm sức sản xuất. Sau khi Putin đắc cử Tổng thống, ông bắt đầu điều chỉnh cơ cấu kinh tế, coi trọng phát triển các sản phẩm có trình độ khoa học kỹ thuật cao, thay đổi cơ cấu xuất khẩu dựa vào nguyên liệu là chính. Vì thế, việc điều chỉnh năng lượng được đặt lên vị trí hàng đầu.

Việc điều chỉnh thuế suất, thuế quan, giá cả, cơ cấu năng lượng và việc đổi mới các thiết bị kỹ thuật công nghiệp năng lượng là những vấn đề mang tính toàn cục. Chính phủ Putin dự định sẽ tăng lượng xuất khẩu dầu để đảm bảo nguồn ngoại hối thu về. Nhưng các công ty dầu lại buộc phải căn cứ vào sự dao động giá cả trên thị trường quốc tế để quyết định sản lượng dầu nhằm đảm bảo lợi nhuận.

Năng lượng là ngành công nghiệp quan trọng của Nga và là nguồn thu ngoại hối chính.

Chính phủ Putin đã tiến hành cải cách ban lãnh đạo của công ty điện lực, dầu mỏ, khí đốt tự nhiên. Điều này đã động chạm tới lợi ích của một số người và vô số các vấn đề khó khăn cũng từ đó xuất hiện.

Trong tình hình thiếu tiền vốn, hệ thống tài chính của Nga không có đầy đủ thực lực để đầu tư cho các doanh nghiệp, dự trữ của người dân không có đảm bảo, chính phủ khó lòng có thể huy động vốn từ trong dân chúng. Thêm vào đó, số vốn thất thoát ra ngoài hàng năm của Nga lên tới con số 30 tỷ đô la, đến nay chính phủ vẫn khó lòng có thể khống chế được các con đường thất thoát ngầm.

Để điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp của Nga ít nhất phải cần 300 tỷ đô la, nếu muốn thực hiện công cuộc hiện đại hoá thì phải cần 1.000 tỷ đô la.

Chính phủ Putin cần phải xây dựng được hệ thống ngân hàng hoàn thiện, đẩy nhanh cải cách chế độ thuế, cho ra đời các luật có liên quan, chặn đứng các con đường thất thoát tiền tệ; cần phải giúp đỡ các ngân hàng thương mại, giảm thiểu các rủi ro cho các khoản tiền mà ngân hàng cho các doanh nghiệp vay, tăng cường đảm bảo cho các khoản dự trữ của người dân, mở cửa, tạo ra nhiều môi trường tốt hơn nữa để thu hút các nhà đầu tư.

Không những thế, chính phủ Putin còn phải thay đổi các chính sách đối với vốn đầu tư nước ngoài, nhanh chóng giải quyết vấn đề sử dụng đất, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều hơn nữa.

6. Lịch sử không thể lặp lại.

Vào những năm 70 của thế kỷ 20, tổng giá trị sản xuất quốc dân của Liên Xô chỉ bằng 50% so với Mỹ, nhưng các chi phí về quân sự lại không hề thua kém Mỹ.

Chi phí quân sự của Mỹ chỉ chiếm 5% tổng giá trị sản xuất quốc dân nhưng của Liên Xô lại lên tới 16%.

Sự phát triển kinh tế của Liên Xô mất cân bằng nghiêm trọng.

Nguồn tài nguyên của Liên Xô vô cùng phong phú nhưng nông nghiệp lại giẫm chân tại chỗ. Các sản phẩm công nghiệp thì thô và nặng, sản lượng rất thấp.

Liên Xô đã chế tạo được một số lượng lớn vũ khí hạt nhân tiên tiến nhất nhưng lại không có khả năng cung cấp các thiết bị y tế cho bệnh viện.

Liên Xô có trong tay đội ngũ hàng trăm vạn các kỹ sư nhưng hệ thống liên lạc bằng điện thoại vẫn còn ở trình độ đầu thế kỷ trước.

Vào những năm 80 của thế kỷ 20, ti vi màu đã đi vào đời sống của các gia đình bình dân ở các nước phát triển nhưng người dân Liên Xô vẫn xem ti vi đen trắng, sau khi mở công tắc ti vi vài phút sau mới có thể xem được hình. Một phần ba các vụ hoả hoạn ở Mascow là do ti vi tự nhiên bốc cháy gây ra.

Lịch sử đã lật sang một trang mới, nhưng cho đến nay mỗi khi tới mùa đông thì khủng hoảng năng lượng từ khu vực ven Bắc Băng Dương xa xôi cho tới Siberia đã khiến cho hàng vạn người dân chịu sự đe dọa của cái lạnh thấu xương. Cũng chính điều này đã làm cho một Bộ trưởng mất chức và hàng loạt quan chức địa phương phải đồng loạt từ chức.

Bộ trưởng Bộ Tình trạng khẩn cấp của Nga đã nhiều lần điều chỉnh các biện pháp giải quyết. Đối mặt với khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng như vậy, chính phủ Putin buộc phải rút ra 500 đến khoảng 800 triệu rúp Nga đểứng cứu cho dân chúng ở khu vực bị lạnh giá.

Và mùa đông năm sau tiếp tục sẽ đến, mùa đông của khu vực Bắc Siberia kéo dài hơn nửa năm. Chính phủ Nga cần phải nắm giữ khoảng thời gian nửa năm còn lại để tu bổ gấp hạ tầng cung cấp điện sưởi ấm. Sau khi thị sát Siberia, Putin yêu cầu chính phủ phải làm tốt công tác chống rét ở đây. Khu vực Siberia và vùng Viễn Đông có diện tích tương đương với 36 nước Đức, tài nguyên phong phú.

Giải quyết khủng hoảng năng lượng cần phải xem xét tổng hợp tới việc khai thác và phát triển dầu khí Siberia, các mỏ than ở Yakusk, xây dựng các trạm thuỷ điện và khai thác phát triển mỏ khí đốt vốn khá phong phú ở vùng này…

Chỉ tính riêng vùng Siberia trong vòng một năm đã có thể khai thác được 300 triệu tấn dầu và 45 tỷ m3 khí đốt, trữ lượng than của vùng Viễn Đông đạt tới 2,7 tỷ tấn than cốc chất lượng tốt. Giải quyết vấn đề khủng hoảng năng lượng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc phát triển kinh tế của Nga.

Sau khi Liên Xô tan rã, mức sống của người Nga ngày càng sút kém. Thêm vào dó, cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1998 đã khiến cho rất nhiều gia đình Nga trở nên nghèo khó, nhiều doanh nghiệp bị phá sản, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, công nhân không được phát lương hưu, các ban ngành chính phủ không có khả năng trả lương đúng thời hạn.

Sau khi Putin lên nhận chức thì đại đa số các vùng đã phát lương hưu trở lại, tỷ lệ thất nghiệp giảm, thu nhập của người dân tăng lên. Do sự tiêu cực của một số quan chức, nên một vài khu vực vẫn còn kéo dài nợ lương, thậm chí có nơi vẫn còn kéo dài tới hơn nửa năm.

Tổng thống Putin đã tận dụng mọi cơ hội để tìm hiểu quần chúng, bí mật thăm dò cuộc sống các gia đình người dân.

Chính phủ Nga chủ trương đẩy nhanh việc cải cách ruộng đất, hỗ trợ nông dân về tư liệu sản xuất và cho vay vốn ngân hàng, giải quyết những vấn đề khó khăn của nông dân.

Trước đây, khoảng cách giàu nghèo của người Nga tăng nhanh, khoảng cách của các khu vực, giữa các ngành nghề cũng tăng lên nhanh chóng. Chính phủ Putin đã phải hỗ trợ một lượng lớn tiền vốn cho các khu vực, giải quyết vấn đề nâng cao mức sống cho người dân.

Putin quyết định tăng 10% tiền lương hưu, tiền lương hưu tối thiểu tăng từ 453 rúp tăng lên 600 rúp (21 đô la). Mức lương tối thiểu của Nga và bình quân tiền lương hàng tháng cũng tăng lên.

Sau khi Nga thực hiện tư hữu hoá về nhà ở, rất nhiều công trình kiến trúc có hệ thống cung cấp điện, nước và làm ấm có thâm niên hơn 50 năm đã xuống cấp rất cần phải cải tạo.

Chính phủ Putin nỗ lực khống chế mức lạm phát ở mức 12% và từng bước nâng cao mức sống của người dân…

TƯ LIỆU VỀ BREZHNEV:

Người lãnh đạo Đảng Cộng sản “không đủ sức lay chuyển trời đất”

Năm 1964 Khruschov phải trao lại quyền lãnh đạo, Leonid Brezhnev đảm nhận chức Tổng Bí thư của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, liên tiếp đảm nhận vai trò là người lãnh đạo tối cao Quân uỷ trung ương Liên Xô trong 18 năm. Vào thời Brezhnev, sự bứt phá của Liên Xô bị chậm lại, kinh tế gần như ngừng phát triển, tham ô hối lộ dường như đã trở thành chuẩn mực của cuộc sống.

Brezhnev không có tầm nhìn xa trông rộng, không hiểu được các kiến thức về kinh tế nhưng ông ta lại giỏi thao túng quyền lực và giỏi điều khiển cấp dưới tuân theo mệnh lệnh của mình.

Lúc đó, chi phí cho quân sự của Liên Xô đã đạt tới mức làm cho người ta phải kinh ngạc, quân đội Liên Xô đã cùng song song tiến bước với quân đội Mỹ.

Nhưng công nghiệp và nông nghiệp của Liên Xô không được thực hiện hiện đại hoá và thiếu nghiêm trọng hệ thống dịch vụ thương mại. Mức sống của người dân Liên Xô càng ngày càng trở nên sút kém, đó chính là mầm mống dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô và sự giải tán của Đảng Cộng sản Liên Xô.

Vào thời kỳ Brezhnev, bài học chính của Liên Xô là: nhà nước không những không thể đảm bảo được tiến bộ xã hội mà ngày càng ngăn cản sự tiến bộ của xã hội. Brezhnev đã từng dùng các biện pháp trấn áp để củng cố thống trị nhưng lại không có đủ năng lực để “lay chuyển trời đất”, khó có thể khôi phục lại được sức mạnh của Liên Xô.

7. Ý chí cường quốc luôn thôi thúc

Năm 1999, GDP của Nga chỉ bằng khoảng một phần mười của Mỹ và bằng xấp xỉ một phần năm của Trung Quốc.

Để tránh không trở thành “quốc gia loại 2” và để trở thành một nước phát triển, căn cứ vào sức mua bình quân của người dân để tính toán thì GDP của Nga phải chiếm khoảng từ 4 đến 5% của cả thế giới. Chỉ có như vậy thì Nga mới có thể tiếp cận với các nước phát triển.

Muốn thực hiện được mục tiêu này, giả sử tốc độ phát triển của các nước trên thế giới hiện nay không thay đổi thì ít nhất Nga phải mất 40 đến 50 năm và mỗi năm phải duy trì tốc độ tăng trưởng 5 đến 6%.

Năm 1999, hầu hết mức sống của người dân Nga vẫn chỉ đạt dưới mức đảm bảo thấp nhất có thể chấp nhận được. Mức chênh lệch giữa 10% những người có thu nhập cao nhất ở Nga và 10% những người có thu nhập thấp nhất ở Nga là 15 lần. Kể từ năm 1992, dân số của Nga liên tục giảm, tỷ lệ tử vong gấp 2,8 lần so với tỷ lệ sinh. Nếu không có là một lượng lớn dân di cư của các nước liên bang cũ sang từ thời Liên Xô thì tình hình dân số của Nga đã biến đổi theo chiều hướng xấu hơn nữa.

Năm 2000, trong báo cáo gửi Quốc hội về tình hình quốc gia, Tổng thống Putin có viết: Mỗi năm dân số Nga giảm khoảng 750.000 người, theo đà này 15 năm sau sẽ giảm 22 triệu người, tức là bằng một phần bảy dân số hiện nay của Nga.

Nếu so sánh về tài sản xã hội và kinh tế để lại của người tiền nhiệm Putin, thì tài sản để lại về chính trị quả thực đáng sợ.

Yeltsin nắm chính quyền gần 10 năm nhưng không hề tiến hành cải cách về lĩnh vực xã hội và xây dựng chính quyền.

Do xuất phát từ sức khoẻ và nhiều nguyên nhân khác của Yeltsin, các ông trùm kinh tế đã thông qua “gia tộc” này để thao túng chính phủ, các thế lực ở các địa phương cũng thừa cơ nổi dậy. Ngay đến cả Chechnya nhỏ bé cũng dám công khai đòi độc lập, một vài nước trực thuộc khác cũng nhân cơ hội đó nổi dậy đòi độc lập, tách khỏi liên bang.

Một “quái thai” lớn trong diễn đàn chính trị của Nga chính là việt các ông trùm kinh tế đã can dự vào chính trường. Một vài tập đoàn tài chính sau quá trình tư hữu hoá thâu tóm được tài chính thì nhất loạt mua lại các cơ quan báo chí, truyền thông với ý đồ thao túng chính trị, “tư hữu hoá” quyền lực chính phủ. Cựu Giám đốc đài truyền hình Nga chua chát nhận xét: Ở Nga, dư luận đã biến thành một món hàng, giới truyền thông chẳng khác gì kỹ nữ.

“Chiếm đoạt địa vị chính trị và tranh giành quyền lợi kinh tế” là xu thế chung của xã hội trong gần 10 năm Yeltsin cầm quyền. Cục diện chính trị hỗn loạn kéo dài, quan chức hủ bại và hai cuộc khủng hoảng tài chính là biểu hiện của thời đại Yeltsin.

Ngày 8 tháng 7 năm 2000, Chủ tịch Thượng viện Nga phát biểu: “Putin cũng giống như một bác sỹ khoa ngoại vậy, khi “khai đao” phẫu thuật mới phát hiện được cơ thể bệnh nhân đâu đâu cũng có bệnh ra rồi”.

Putin tiến hành cải cách nền kinh tế thị trường, nhưng ông không làm theo cách mà Yeltsin đã học theo các nước phương Tây.

Nước Nga đang đẩy nhanh tốc độ khôi phục lại hệ thống quản lý giám sát nhà nước, ra sức phát triển theo mô hình kinh tế hiệu quả cao.

Chính phủ Putin tăng cường điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế nhà nước, coi trọng phát triển kinh tế có trình độ khoa học và kỹ thuật cao, cải thiện cơ cấu kinh tế tiến tới từng bước tiến hành cải cách kinh tế; kích thích tính tích cực của các nhà đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Để duy trì tính liên tục của việc cải cách nền kinh tế thị trường, nước Nga không thực hiện quốc hữu hoá, ngăn chặn việc bán các doanh nghiệp nhà nước với giá thấp, các doanh nghiệp mang tính chiến lược vẫn duy trì cơ chế nhà nước hoặc do nhà nước nắm cổ phần lớn.

Chính phủ Putin đã thay đổi chính sách thông qua việc phát hành trái phiếu để bù vào lỗ hổng tài chính; cải cách chế độ phúc lợi xã hội; khống chế nguồn vốn tuồn ra ngoài một cách phi pháp; giảm nợ trong và ngoài nước; bãi bỏ khuynh hướng sai lầm coi trọng tài chính, xem nhẹ sản xuất trước đây, ra sức hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ; giảm thuế, thuế giá trị gia tăng và thuế lợi nhuận; trong cạnh tranh quốc tế, bảo hộ cho nhà sản xuất và thị trường Nga.

Kể từ nửa cuối năm 1999, nền kinh tế Nga bắt đầu hồi phục.

Năm 2000, tổng giá trị sản xuất quốc dân Nga tăng trưởng 7,6%, tài chính nhà nước lần đầu tiên chuyển từ lỗ sang lãi.

Về phương diện ngoại giao, Putin lấy an ninh quốc gia và tạo ra môi trường bên ngoài thuận lợi cho sự phát triển của Nga làm trọng điểm, chỉ rõ tính thiết thực của ngoại giao.

Putin đã dựa vào địa vị vốn có của Nga trên quốc tế yêu cầu xây dựng một thế giới đa cực, tham gia tích cực vào các sự vụ của khu vực như Trung Đông và bán đảo Triều Tiên, từ đó khôi phục một cách có hiệu quả địa vị quốc tế của Nga.

Cộng đồng quốc gia độc lập khu vực Âu Mỹ và châu Á là hướng phát triển ngoại giao ưu tiên của Nga. Dưới sự lãnh đạo của Putin, Nga đã triển khai hướng phát triển ngoại giao toàn diện từ phương Tây sang phương Đông. Vài năm trở lại đây, Nga đã làm giảm được cục diện đòi độc lập chính trị của các nước độc lập liên bang, loại bỏ được bóng đen trong quan hệ căng thẳng giữa Nga và phương Tây do cuộc khủng hoảng Kosovo và gây ra cuộc chiến tranh Chechnya mang lại, Nga và Khối NATO đã có nhiều cuộc tiếp xúc.

Nga coi Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam là trọng điểm ngoại giao ở châu Á, là bước đi không thể thiếu để nâng cao ảnh hưởng của Nga tại khu vực này. Nga đã khôi phục lại quan hệ với các nước từng có quan hệ lâu đời như Iran, Irac và Cu Ba. Tiến thêm một bước tăng cường cân đối hợp tác và đối thoại với các nước phương Tây trong đó Mỹ là đối tượng đầu tiên. Nhưng, trong các lĩnh vực như củng cố sựổn định của cục diện chính trị Nga, tiến thêm một bước phát triển kinh tế và xử lý quan hệ Nga – Mỹ, Putin vẫn còn trách nhiệm nặng nề trước mắt.

8. Theo đuổi thế giới đa cực

Ngày 10 tháng 2, tại Hội nghị An ninh quốc tế thường niên được tổ chức ở thành phố Murnid (Đức), Tổng thống Nga Vladimir Putin đã có bài phát biểu quan trọng thể hiện tư tưởng theo đuổi thế giới đa cực của ông. Sau đây là bài phát biểu:

Thế giới đơn cực không phù hợp với sự tự do dân chủ

Tôi rất cảm ơn về lời mời tham dự một Hội nghị tầm cỡ như thế này, một diễn đàn có sự tham gia của các nhà chính trị, quân sự, các nhà kinh doanh, các chuyên gia từ hơn 40 nước trên thế giới.

Cơ chế của Hội nghị cho phép tôi có thể tránh được sự gò bó trong một khuôn khổ chính trị “chính thống quá mức”, và không phải nói những lời khuôn sáo ngoại giao dễ chịu, tròn trịa, nhưng trống rỗng. Nó cho phép tôi nói ra những gì mà tôi đang thực sự trăn trở về các vấn đề an ninh quốc tế. Nếu các đồng nghiệp của chúng tôi cảm thấy những nhận xét của tôi mang tính tranh luận quá gay gắt hoặc chưa được chính xác, thì tôi cũng mong các ngài lượng thứ cho – vì đây chỉ là một hội nghị.

Rõ ràng là chủ đề an ninh quốc tế là một phạm trù rộng hơn nhiều so với các vấn đềổn định chính trị – quân sự. Đó là sự bền vững của nền kinh tế thế giới, là việc khắc phục nghèo đói, là an ninh kinh tế và phát triển đối thoại giữa các nền văn minh.

Tính chất tổng thể, không thể chia tách của nền an ninh cũng được thể hiện trong nguyên tắc cơ bản của nó: “An ninh của mỗi người là an ninh của tất cả mọi người”. Như F.Roosevelt đã nói trong ngày đầu tiên của Chiến tranh Thế giới lần thứ hai: “Khi hoà bình ở bất kỳ nơi nào bị phá vỡ, thì hoà bình ở khắp mọi nơi trên thế giới đều bị nguy hiểm và bị đe dọa”. Ngày nay, câu nói đó vẫn còn nguyên tính thời sự. Ngay cả chủ đề Hội nghị của chúng ta hôm nay là “Những cuộc khủng hoảng toàn cầu – trách nhiệm toàn cầu” cũng chứng tỏ điều này.

Chỉ cách đây hai thập kỷ, thế giới vẫn còn bị phân chia về ý thức hệ và về kinh tế, còn nền an ninh thế giới thì được đảm bảo bởi tiềm năng chiến lược to lớn của hai siêu cường. Sự đối đầu toàn cầu đã đẩy các vấn đề kinh tế và xã hội hết sức gay gắt ra ngoài rìa quan hệ quốc tế và chương trình nghị sự. Cũng như mọi cuộc chiến tranh, “chiến tranh lạnh” đã để lại cho chúng ta “những quả đạn pháo chưa nổ”, nếu diễn tả một cách hình tượng là như vậy. Đó là những khuôn mẫu ý thức hệ, những tiêu chuẩn kép và những thói quen khác của lối tư duy theo các khối. Thế giới đơn cực được đề xuất ngay sau “chiến tranh lạnh” cũng đã không đứng vững.

Tất nhiên, lịch sử nhân loại cũng biết đến các thời kỳ của tình trạng đơn cực và tham vọng thống trị thế giới. Chẳng có điều gì là chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân loại.

Song, thế giới đơn cực là gì? Cho dù người ta có tô vẽ một cách mỹ miều cho thuật ngữ này, thì nói cho cùng trên thực tế, nó cũng chỉ mang một nghĩa: Thế giới đơn cực có nghĩa là một trung tâm quyền lực, một trung tâm sức mạnh, một trung tâm ra quyết định. Đó là thế giới của một ông chủ, của một vị toàn quyền. Rốt cuộc, điều đó không chỉ nguy hại đối với tất cả những ai nằm trong khuôn khổ của hệ thống này, mà còn tai hại đối với chính bản vị toàn quyền đó, bởi vì nó huỷ hoại thực thể toàn quyền đó từ bên trong. Tất nhiên, điều đó chẳng có gì tương đồng với dân chủ. Bởi vì dân chủ như mọi người đều biết, là quyền lực của đa số, có tính đến lợi ích và ý kiến của thiểu số.

Nhân đây cũng xin nói thêm rằng, có những người thường xuyên lên lớp cho chúng tôi – nước Nga- về dân chủ. Nhưng chính họ chẳng rõ vì lẽ gì mà lại rất không muốn tự học về điều đó.

Các hành động đơn phương là nguyên nhân của những tấn thảm kịch mới

Tôi cho rằng, mô hình đơn cực không chỉ không chấp nhận được, mà nhìn chung là không khả thi đối với thế giới hiện nay. Không chỉ vì trong thế giới đương đại- tôi xin nhấn mạnh là chính trong thế giới đương đại này, một nước nắm quyền bá chủ sẽ không đủ nguồn lực chính trị – quân sự và kinh tế. Nhưng điều quan trọng hơn cả là chính mô hình đó không hiệu quả, bởi lẽ trong nền móng của nó không và không thể có cơ sở đạo lý cho nền văn minh hiện đại.

Nhưng, tất cả những gì đang diễn ra hiện nay trên thế giới, mà lúc này chúng ta mới chỉ đang bắt đầu bàn luận, lại chính là hậu quả của những mưu toan áp dụng quan điểm đó vào các công việc quốc tế – quan điểm thế giới đơn cực.

Vậy thì kết quả là như thế nào?

Các hành động đơn phương, thường là bất hợp pháp, đã không giải quyết được bất kỳ vấn đề gì. Không những thế, những hành động đó đã trở thành nguyên nhân gây ra những tấn thảm kịch mới của nhân loại và những lò lửa căng thẳng. Chúng ta đều thấy các cuộc chiến tranh, các cuộc xung đột cục bộ và khu vực đã không hề giảm đi. Ngài Ten-trích, Chủ tịch Hội nghị, vừa rồi có đề cập qua vấn đề này. Số người chết trong các cuộc xung đột đó không ít hơn, thậm chí còn nhiều hơn trước đây. Nhiều hơn một cách đáng kể – nhiều hơn rất nhiều!

Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến việc sử dụng một cách bừa bãi và ồạt trong giải quyết các công việc quốc tế đang đẩy thế giới vào vực thẳm của các xung đột triền miên. Rốt cuộc là không đủ lực lượng để giải quyết đồng bộ bất cứ một cuộc xung đột nào trong số đó. Việc tìm kiếm các giải pháp chính trị cho các cuộc xung đột này cũng không thể thực hiện được.

Chúng ta cũng đang chứng kiến các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế ngày càng bị coi thường. Hơn thế nữa, một số tiêu chuẩn, thậm chí hầu như toàn bộ hệ thống luật pháp của một nước, mà trước tiên là nước Mỹ, đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia của mình và áp đặt cho những nước khác trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, nhân văn. Xin hỏi, có ai thích điều này không? Có ai hài lòng với điều đó không?

Trong các công việc quốc tế ngày càng thấy rõ những mưu toan giải quyết vấn đề này hay vấn đề khác xuất phát từ cái gọi là sự hợp lý về chính trị dựa trên những tính toán chính trị nhất thời. Tất nhiên, điều đó là hết sức nguy hiểm. Tình hình đã đến mức không một ai cảm thấy an toàn nữa. Tôi muốn nhấn mạnh điều này – không ai cảm thấy an toàn, bởi lẽ không ai có thể nấp dưới cái ô bảo vệ chắc chắn của luật pháp quốc tế. Tất nhiên, chính sách như vậy chính là chất xúc tác cho một cuộc chạy đua vũ trang.

Chính việc lạm dụng vũ lực tất yếu thúc đẩy một số nước tìm cách sở hữu vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Nghiêm trọng hơn, đã xuất hiện những mối đe doạ hoàn toàn mới mà trước đây chúng ta cũng đã từng biết đến, nhưng hiện nay lại mang tính toàn cầu, như chủ nghĩa khủng bố.

Việc sử dụng vũ lực phải được Liên hợp quốc thông qua

Tôi cho rằng, đã đến lúc chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc về toàn bộ cơ cấu của hệ thống an ninh toàn cầu. Trong vấn đề này, chúng ta cần xuất phát từ việc tìm kiếm một sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích của tất cả các chủ thể quan hệ quốc tế. Đặc biệt là vào lúc này, khi “diện mạo quốc tế” đang thay đổi rất rõ rệt và nhanh chóng do sự phát triển năng động của hàng loạt nước và khu vực.

Bà Thủ tướng Liên bang Đức cũng đã nhắc đến điều này. Xét về sức mua tương đương, tổng giá trị Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Ấn Độ và Trung Quốc gộp lại đã vượt Mỹ, còn tổng GDP của nhóm 4 nước BRIC (Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc) đã vượt EU. Theo đánh giá của các chuyên gia, trong tương lai gần, khoảng cách này sẽ ngày càng gia tăng. Không còn nghi ngờ gì nữa, tiềm lực kinh tế của các trung tâm mới trên thế giới chắc chắn sẽ được chuyển hoá thành ảnh hưởng đến chính trị toàn cầu và sẽ củng cố tính chất đa cực của thế giới. Trong bối cảnh đó, vai trò của ngoại giao đa phương ngày càng tăng lên. Tính công khai, minh bạch và có thể dự đoán được trong chính trị là không thể thay thế, còn việc sử dụng vũ lực phải được coi là biện pháp hết sức hãn hữu cũng giống như việc áp dụng án tử hình trong hệ thống luật pháp của một số quốc gia. Nhưng hiện nay, chúng ta đang chứng kiến những điều trái ngược, khi những nước cấm áp dụng án tử hình, ngay cả đối với những tên sát nhân và những tên tội phạm nguy hiểm, lại dễ dàng tham gia vào những chiến dịch quân sự bất hợp pháp làm cho cả trăm, nghìn dân thường thiệt mạng! Đồng thời cũng nảy sinh một câu hỏi khác: Chẳng lẽ chúng ta lại thờơ đứng nhìn những cuộc xung đột nội bộ khác nhau ở các nước, bỏ qua những hành động của các chế độ độc tài, bạo chúa, làm ngơ trước việc phổ biến vũ khí huỷ diệt? Về bản chất thì điều này chính là cốt lõi của câu hỏi mà Ngài Li-béc-man đã nêu ra cho Bà Thủ tướng Đức. Liệu chúng ta có thể thờ ơ trước những gì đang xảy ra hay không? Tôi xin mạn phép thử trả lời câu hỏi đó. Thưa các ngài, tất nhiên là không! Chúng ta không thể thờơ đứng nhìn những gì đang diễn ra!

Nhưng chúng ta có đủ phương tiện để chống lại những nguy cơ đó không? Tất nhiên là có. Hãy thử nhớ lại lịch sử cách đây không lâu. Có phải chính ở đất nước chúng tôi đã diễn ra sự chuyển đổi dân chủ trong hoà bình? Đó chính là chuyển đổi hoà bình đã xảy ra dưới chế độ Xô-viết – một sự chuyển biến trong hoà bình! Đã chuyển biến được một chế độ như thế! Với một chế độ cực kỳ mạnh, sở hữu số lượng vũ khí vô cùng lớn, bao gồm cả vũ khí hạt nhân, vậy mà vẫn có thể thực hiện được sự chuyển biến hoà bình! Tại sao ngày nay trong mỗi trường hợp tương tự lại phải ném bom, bắn giết? Chẳng lẽ trong những điều kiện không thể tiêu diệt lẫn nhau, thì chúng ta không có đủ văn hoá chính trị, sự tôn trọng các giá trị dân chủ và luật pháp.

Tôi tin rằng, cơ chế duy nhất thông qua quyết định sử dụng sức mạnh quân sự như một cách giải quyết cuối cùng chỉ có thể là Hiến chương Liên hợp quốc. Do đó, tôi thực sự không hiểu những gì mà đồng nghiệp của chúng tôi đây, Ngài Bộ trưởng Quốc phòng I-ta-li-a, đã nói cách đây không lâu rằng việc sử dụng vũ lực chỉ được coi là hợp pháp khi nó được NATO, EU hoặc Liên hợp quốc thông qua. Nếu ông ấy thực sự cho rằng như vậy thì chúng tôi và ông ấy có quan điểm khác nhau. Hay là tôi đã nghe nhầm. Chỉ có thể coi việc sử dụng vũ lực là hợp pháp khi nó được thông qua trên cơ sở và trong khuôn khổ Liên Hợp quốc. Chớ nên dùng NATO hoặc EU để thay thế Liên Hợp quốc. Khi Liên hợp quốc thực sự tập hợp được sức mạnh của cộng đồng quốc tế để có thể phản ứng một cách hữu hiệu đối với những biến cốở một nước nào đó, khi chúng ta loại bỏ được tình trạng coi thường luật pháp quốc tế, thì tình hình mới có thể thay đổi. Trong trường hợp ngược lại, tình hình quốc tế sẽ lâm vào ngõ cụt và số lần sai lầm chắc chắn sẽ tăng lên. Tất nhiên, cần phải làm sao để luật pháp quốc tế có tính chất phổ quát cả trong quan niệm lẫn trong việc vận dụng các chuẩn mực. Chúng ta cũng không được phép quên rằng cách thức hành động dân chủ trong chính trị nhất thiết đòi hỏi phải tiến hành bàn bạc và đưa ra các quyết định một cách cẩn trọng.

Quân sự hóa vũ trụ có thể gây ra những hậu quả khôn lường

Tình trạng đình trệ trong lĩnh vực giải trừ quân bị hiện nay cũng là một nguy cơ tiềm tàng gây bất ổn các mối quan hệ quốc tế. Nước Nga luôn tán thành việc nối lại đối thoại về vấn đề thiết yếu này. Điều quan trọng là phải duy trì được tính ổn định của cơ sở luật pháp quốc tế về giải trừ quân bị, trong đó phải đảm bảo tính kế thừa của tiến trình cắt giảm vũ khí hạt nhân.

Chúng tôi đã thoả thuận với Mỹ về việc cắt giảm các tiềm lực tên lửa hạt nhân chiến lược xuống còn khoảng 1.700 đến 2.200 đầu đạn trước ngày 31 tháng 12 năm 2012. Nga chủ trương thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết của mình. Chúng tôi hy vọng các đối tác thực hiện điều đó một cách công khai, minh bạch và sẽ không cất vào đâu đó đôi ba trăm đầu đạn hạt nhân để phòng ngừa cho “một ngày xấu trời nào đó”. Và nếu như Ngài tân Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đang có mặt ở Hội nghị này tuyên bố cho chúng ta biết rằng, nước Mỹ sẽ không cất giấu những đầu đạn hạt nhân đó trong kho hoặc ở một nơi nào đó, thì tôi xin đề nghị tất cả mọi người đứng dậy hoan hô. Tôi nghĩ, nếu có thì đó sẽ là một tuyên bố vô cùng quan trọng. Nga đang và sẽ tiếp tục tuân thủ Hiệp ước về không phổ biến vũ khí hạt nhân và cơ chế kiểm soát đa phương đối với công nghệ chế tạo tên lửa. Những nguyên tắc được đưa ra trong các văn kiện này mang tính phổ quát.

Nhân đây, tôi xin nhắc lại rằng, trong những năm 80 của thế kỷ trước, Liên Xô và Hoa Kỳ đã cùng ký Hiệp ước thủ tiêu toàn bộ tên lửa tầm ngắn và tầm trung, nhưng văn bản này lại thiếu tính phổ quát.

Ngày nay, những loại tên lửa nói trên đã xuất hiện ở một loạt nước: Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Hàn Quốc, Ấn Độ, Iran, Pakistan, Ixraen. Rất nhiều các quốc gia khác trên thế giới cũng đang tiến hành nghiên cứu hệ thống tên lửa này và có kế hoạch trang bị cho quân đội. Chỉ có Mỹ và Nga là cam kết không chế tạo những hệ thống vũ khí tương tự.

Rõ ràng, trong bối cảnh như vậy, chúng tôi buộc phải suy nghĩ cách thức đảm bảo an ninh cho chính mình. Đồng thời, chúng ta cũng không được để xuất hiện các loại vũ khí hiện đại mới gây mất ổn định tình hình. Đấy là tôi còn chưa nói đến các biện pháp ngăn ngừa các lĩnh vực đối đầu mới, đặc biệt là trong vũ trụ. “Chiến tranh giữa các vì sao”, như mọi người đều biết không còn là chuyện viễn tưởng nữa, mà đã trở thành hiện thực. Ngay từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước, các đối tác Mỹ của chúng tôi trên thực tế đã thử nghiệm việc đánh chặn vệ tinh. Theo quan điểm của Nga, việc quân sự hóa vũ trụ có thể gây ra những hậu quả khôn lường đối với cộng đồng quốc tế – những hậu quả không kém gì việc khởi đầu kỷ nguyên hạt nhân. Chúng tôi đã nhiều lần đưa ra các sáng kiến nhằm ngăn chặn việc đưa vũ khí lên vũ trụ.

Hôm nay, tôi muốn thông báo với các bạn rằng chúng tôi đã hoàn tất dự thảo Hiệp ước về ngăn chặn việc bố trí vũ khí trên khoảng không vũ trụ. Trong thời gian tới dự thảo đó sẽ được chuyển cho các đối tác với tư cách là một đề xuất chính thức. Chúng ta hãy cùng nhau thảo luận vấn đề này.

Những bức tường và những ranh giới phân chia mới

Chúng tôi cũng rất lo ngại về những kế hoạch triển khai các bộ phận của hệ thống phòng thủ chống tên lửa ở châu Âu. Một cuộc chạy đua vũ trang nữa là không tránh khỏi, nhưng điều đó cần cho ai? Tôi không nghĩ là điều đó cần cho người châu Âu.

Hiện chưa có một nước nào trong số cái gọi là “các nước có vấn đề” đã sở hữu loại tên lửa thật sự đe dọa châu Âu với tầm bắn khoảng 5 đến 8 nghìn km. Trong tương lai gần cũng chưa thể xuất hiện loại tên lửa đó. Ngay giả thiết về một vụ phóng tên lửa, của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên chẳng hạn, nhằm vào lãnh thổ Mỹ mà lại phóng qua Tây Âu, thì điều đó rõ ràng trái với quy luật của đạn đạo. Điều đó là không thuận, không hợp lý, cũng giống như ở Nga chúng tôi thường nói “dùng tay phải để véo tai trái”.

Thêm nữa, khi có mặt tại Đức, tôi không thể không nhắc tới tình trạng khủng hoảng của Hiệp ước về các lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu. Hiệp ước về các lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu được ký năm 1999. Hiệp ước này đã tính đến thực tế địa chính trị mới là sự sụp đổ của Khối Hiệp ước Vác-sa-va. Từ đó đến nay đã 7 năm trôi qua, nhưng chỉ có 4 nước phê chuẩn văn kiện này, trong đó có Liên bang Nga.

Các nước NATO đã công khai tuyên bố rằng, họ sẽ không phê chuẩn hiệp ước trên, bao gồm cả các điều khoản về hạn chế bố trí các lực lượng vũ trang với số lượng nhất định ở các hướng, chừng nào Nga chưa rút hết các căn cứ quân sự của mình ra khỏi Gradia và Mondova. Quân đội Nga đang rút khỏi Grudia, thậm chí là với nhịp độ được đẩy nhanh. Chúng tôi và các đồng nghiệp Gru-di-a đã giải quyết các vấn đề này, và điều đó ai cũng biết. Ở Mondova cũng chỉ còn một lực lượng khoảng 1.500 quân nhân có nhiệm vụ gìn giữ hòa bình và bảo vệ các kho vũ khí còn tồn lại từ thời Liên Xô. Chúng tôi vẫn thường xuyên thảo luận với Ngài Xô-la-na về vấn đề này, ông ấy biết rõ lập trường của chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng tiếp tục hành động theo hướng đó.

Nhưng điều gì đang diễn ra? Chính lúc này, tại Bun-gari và Rumani đang xuất hiện cái gọi là những căn cứ tiền tiêu hạng nhẹ của Mỹ với 5.000 quân mỗi nơi. Như vậy, NATO đang đẩy các lực lượng tiền tiêu tới sát biên giới quốc gia của chúng tôi, còn chúng tôi thì không thể đáp trả lại những hành động này, vì phải triệt để tuân thủ Hiệp ước.

Theo tôi, rõ ràng là tiến trình mở rộng NATO hoàn toàn không liên quan tới việc hiện đại hóa liên minh này hoặc việc đảm bảo an ninh ở châu Âu.

Ngược lại, đây là một nhân tố khiêu khích nghiêm trọng, làm giảm mức độ tin cậy lẫn nhau. Và chúng tôi hoàn toàn có quyền được hỏi thẳng rằng sự mở rộng này nhằm chống ai? Liệu những cam kết mà các đối tác phương Tây đưa ra sau khi giải thể khối Hiệp ước Vacsava còn có giá trị nữa hay không? Những tuyên bố đó giờ đâu rồi? Thậm chí chẳng còn ai nhớ đến chúng nữa. Song, tôi xin phép được nhắc lại với cử tọa ở đây những điều người ta đã nói. Tôi xin trích dẫn một đoạn trong bài phát biểu của ngài Véc-nơ, Tổng Thư ký NATO, tại Brúc-xen ngày 17 tháng 5 năm 1990. Lúc đó ông ấy nói rằng: “Bản thân việc chúng tôi không sẵn sàng bố trí quân đội NATO ở ngoài biên giới lãnh thổ Cộng hòa liên bang Đức đã đem lại cho Liên Xô những đảm bảo vững chắc về an ninh”. Những đảm bảo đó đâu rồi?

Những viên đá, những tấm bê tông của Bức tường Béclin từ lâu đã trở thành những món đồ lưu niệm. Nhưng không được quên rằng, Bức tường Béc-lin có thể sụp đổ cũng là nhờ sự lựa chọn có tính lịch sử, trong đó có sự lựa chọn của dân tộc Nga chúng tôi, sự lựa chọn nghiêng về phía dân chủ và tự do, nghiêng về phía cởi mở và xây dựng quan hệ đối tác chân thành với tất cả các thành viên của đại gia đình châu Âu.

Nhưng hiện nay, người ta đang tìm cách áp đặt cho chúng tôi những bức tường và những ranh giới phân chia mới, đành rằng đó có thể là những bức tường ảo, nhưng dù sao chúng cũng đang chia cắt lục địa chung của chúng ta. Chẳng lẽ lại phải cần nhiều năm, nhiều thập kỷ nữa, cần phải trải qua một vài thế hệ các nhà chính trị nữa mới có thể “tháo dỡ” và “phá bỏ” những bức tường mới này?

Sáng kiến xây dựng các trung tâm đa quốc gia làm giàu uranium

Chúng tôi cũng nhất quán ủng hộ việc củng cố cơ chế không phổ biến hạt nhân. Cơ sở luật pháp quốc tế hiện hành cho phép chế tạo công nghệ sản xuất nhiên liệu hạt nhân để sử dụng vào mục đích hòa bình. Với một cơ sở hoàn toàn hợp pháp, nhiều nước muốn xây dựng ngành năng lượng hạt nhân của mình. Lấy đó làm nền tảng cho sự độc lập của họ về năng lượng. Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng, những công nghệ này có thể nhanh chóng được chuyển hóa thành công cụ tạo ra nguyên liệu sản xuất vũ khí.

Điều đó đang gây ra sự căng thẳng nghiêm trọng trong cộng đồng quốc tế. Vấn đề hạt nhân của Iran là một ví dụ điển hình. Nếu cộng đồng quốc tế không đưa ra được một giải pháp sáng suốt để giải quyết xung đột lợi ích này, thế giới sẽ tiếp tục bị chấn động bởi những cuộc khủng hoảng đầy bất ổn tương tự, bởi vì chúng tôi và các vị đều biết rằng, không phải chỉ có một mình Iran là “nước có vấn đề”. Chúng ta sẽ thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ phổ biến vũ khí hủy diệt.

Năm ngoái, Nga đã đưa ra sáng kiến xây dựng các trung tâm đa quốc gia làm giàu uranium. Chúng tôi hoàn toàn cởi mở để các trung tâm đó được xây dựng không chỉở Nga, mà còn ở nhiều nước khác, nơi mà năng lượng hạt nhân hòa bình đang tồn tại hợp pháp. Các quốc gia muốn phát triển năng lượng nguyên tử có thể được cung cấp nhiên liệu thông qua việc trực tiếp tham gia hoạt động của các trung tâm này, nhưng tất nhiên là dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA).

Những sáng kiến gần đây của Tổng thống Mỹ G.Bu-sơ cũng đồng điệu với đề xuất của Nga. Tôi cho rằng, Nga và Mỹ về khách quan đều quan tâm như nhau đến việc siết chặt cơ chế không phổ biến vũ khí hủy diệt và các phương tiện mang loại vũ khí đó. Chính hai nước chúng ta-hai nước đứng đầu về tiềm lực hạt nhân và tên lửa-cần phải là những nước đi đầu trong việc đề ra các biện pháp mới chặt chẽ hơn trong lĩnh vực không phổ biến hạt nhân. Nga đã sẵn sàng cho điều đó. Chúng tôi đang tiến hành tham khảo ý kiến với những người bạn Mỹ. Về đại thể, cần bàn bạc tới vấn đề xây dựng cả một hệ thống đòn bẩy chính trị và những biện pháp kích thích kinh tế. Với những biện pháp kích thích này, các quốc gia sẽ không còn quan tâm đến việc xây dựng các cơ sở riêng sản xuất nhiên liệu hạt nhân, nhưng vẫn có khả năng phát triển năng lượng nguyên tử, từ đó củng cố tiềm lực năng lượng của mình.

Giá năng lượng không phải là công cụ để đầu cơ chính trị

Nhân đây, tôi cũng xin đề cập sâu hơn về hợp tác năng lượng quốc tế. Bà Thủ tướng Cộng hòa liên bang Đức cũng đã đề cập một cách ngắn gọn đến chủ đề này. Trong lĩnh vực năng lượng, Nga chủ trương xây dựng các điều kiện minh bạch và các nguyên tắc thị trường thống nhất đối với tất cả các nước. Rõ ràng, giá năng lượng cần phải do thị trường quyết định chứ không phải là công cụ để đầu cơ chính trị, gây áp lực kinh tế hoặc dọa dẫm.

Chúng tôi cởi mở, sẵn sàng hợp tác. Nhiều công ty nước ngoài đang tham gia vào những dự án năng lượng lớn nhất của chúng tôi. Theo nhiều đánh giá khác nhau, thì có đến 26% lượng dầu khai thác ở Nga-xin các vị hãy chú ý đến con số 26% này-là nhờ vốn đầu tư nước ngoài. Các vị hãy thử đưa ra cho tôi một ví dụ về sự tham gia với quy mô tương tự của các doanh nghiệp Nga trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế các quốc gia phương Tây. Không hề có trường hợp như vậy! Hoàn toàn không có.

Tôi cũng xin nói đến mối tương quan giữa vốn đầu tư nước ngoài vào Nga và vốn của Nga đầu tư vào các nước khác trên thế giới. Tương quan đó có tỷ lệ khoảng 15:1. Đó là bằng chứng rõ ràng về sự mở cửa và ổn định của nền kinh tế Nga.

An ninh kinh tế là một lĩnh vực mà trong đó tất cả các bên đều cần phải tuân thủ những nguyên tắc thống nhất. Chúng tôi sẵn sàng tham gia cạnh tranh một cách lành mạnh.

Kinh tế Nga đang ngày càng có thêm nhiều khả năng để làm điều đó. Sự năng động trên được các chuyên gia và các đối tác nước ngoài đánh gíá một cách khách quan. Gần đây, điểm xếp hạng của Nga trong Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế đã tăng lên: nước Nga đã chuyển từ nhóm rủi ro thứ tư lên nhóm thứ ba. Và nhân đây, tại Muy-ních hôm nay, tôi xin cảm ơn các đồng nghiệp Đức đã hỗ trợ cho việc thông qua quyết định tôi vừa nêu trên.

Tiếp theo, như các vị đã biết, quá trình gia nhập WTO của Nga đã đi đến giai đoạn chót. Trong quá trình đàm phán phức tạp và lâu dài đó, chúng tôi đã nhiều lần phải nghe về tự do ngôn luận, tự do thương mại, về các cơ hội bình đẳng, nhưng chẳng hiểu tại sao lại chỉ đòi hỏi tự do đối với thị trường Nga của chúng tôi thôi.

Một tay trao “viện trợ phát triển” còn tay kia “duy trì” sự lạc hậu

Còn một đề tài quan trọng nữa cũng có ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh toàn cầu. Hiện nay, người ta nói nhiều đến cuộc đấu tranh chống đói nghèo. Trên thực tế, điều gì đang diễn ra ở đây? Một mặt, có những nguồn tài chính, đôi khi không hề nhỏ, đang được dành cho các chương trình hỗ trợ các nước nghèo. Nhưng thành thật mà nói thì nhiều người ở đây cũng biết rằng, đôi khi các khoản tiền này lại được các công ty của chính các nước tài trợ “khai thác”. Mặt khác, tại các nước phát triển vẫn duy trì chế độ trợ cấp nông nghiệp và hạn chế các nước khác tiếp cận công nghệ cao.

Xin hãy gọi sự vật bằng chính tên gọi của nó: trên thực tế, một tay thì trao “viện trợ từ thiện”, còn tay kia thì không những vẫn “duy trì” sự lạc hậu kinh tế, mà còn thu lượm lợi nhuận cho mình. Tình trạng căng thẳng xã hội ở các khu vực kém phát triển đó tất yếu sẽ làm gia tăng chủ nghĩa cấp tiến và cực đoan, nuôi dưỡng chủ nghĩa khủng bố và các xung đột cục bộ. Và nếu như tất cả những điều đó xảy ra, ở Trung Đông chẳng hạn, trong bối cảnh ở đó nhìn nhận thế giới bên ngoài một cách gay gắt và coi đó là một thế giới bất công, thì chắc chắn sẽ nảy sinh nguy cơ mất ổn định toàn cầu. Rõ ràng là các nước lớn trên thế giới phải thấy được nguy cơ đó. Và phải căn cứ theo đó để xây dựng một hệ thống quan hệ kinh tế công bằng, dân chủ hơn trên thế giới-một hệ thống đem lại cho tất cả các quốc gia cơ hội và điều kiện để phát triển.

Đảm bảo an ninh không chỉ cho số ít

Khi phát biểu tại một hội nghị về an ninh, chúng ta không thể không nói đến hoạt động của Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu (OSCE). Như mọi người đều biết, tổ chức này được thành lập để xem xét tất cả-tôi xin nhấn mạnh là tất cả, mọi khía cạnh của nền an ninh, như chính trị-quân sự, kinh tế, nhân văn trong mối liên hệ mật thiết với nhau.

Hiện tại, chúng ta thấy gì trên thực tế? Chúng ta thấy mối tương quan đó đang bị phá vỡ. Người ta đang tìm cách biến OSCE thành một công cụ tầm thường nhằm đảm bảo các lợi ích đối ngoại của một hoặc một nhóm nước trong quan hệ với các nước khác. Và bộ máy quan liêu của OSCE, một bộ máy hoàn toàn không gắn với các nước sáng lập ra tổ chức này, cũng đã bị cắt xén cho phù hợp với nhiệm vụ này. Người ta cũng đã “cắt xén” trình tự thông qua quyết định và sử dụng cái gọi là “các tổ chức phi chính phủ” cho phù hợp với nhiệm vụ đó. Về hình thức thì đúng là độc lập thật đấy, nhưng thực chất những tổ chức này được tài trợ có mục đích, mà như vậy có nghĩa là bị kiểm soát.

Theo các văn kiện cơ bản của OSCE, trong lĩnh vực nhân văn, tổ chức này có sứ mệnh hỗ trợ các nước thành viên tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền khi họ yêu cầu. Đây là một nhiệm vụ quan trọng. Chúng tôi ủng hộ nhiệm vụ này. Nhưng nhìn chung điều này không có nghĩa là được can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, nhất là ép buộc họ phải sống và phát triển như thế nào. Rõ ràng, sự can thiệp như vậy hoàn toàn không có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các quốc gia dân chủ thực sự, mà ngược lại, còn làm cho họ trở nên phụ thuộc, hậu quả là bị mất ổn định về chính trị và kinh tế. Chúng tôi hy vọng rằng OSCE sẽ thực hiện những nhiệm vụ trực tiếp của mình và xây dựng quan hệ với các quốc gia có chủ quyền trên cơ sở tôn trọng, tin cậy và minh bạch.

Để kết thúc bài phát biểu này, tôi xin nêu một vấn đề sau. Chúng tôi và cá nhân tôi rất nhiều lần được nghe các đối tác của Nga, trong đó có các đối tác châu Âu, kêu gọi Nga hãy đóng vai trò tích cực hơn nữa trong các công việc quốc tế. Do đó, tôi xin phép được đưa ra một lời bình luận nhỏ. Có lẽ chẳng cần phải thúc đẩy, kích thích chúng tôi làm việc đó. Nga là một đất nước có hơn 1.000 năm lịch sử, và thực tế nước Nga đã luôn luôn tận dụng đặc quyền thực hiện chính sách đối ngoại độc lập.

Ngày nay, chúng tôi cũng không có ý định thay đổi truyền thống đó. Đồng thời chúng tôi thấy rất rõ thế giới đã đổi thay như thế nào, chúng tôi đánh giá một cách thực tế khả năng và tiềm lực của mình. Và tất nhiên, chúng tôi cũng mong được làm việc với những đối tác tự chủ và có trách nhiệm, có thể cùng chúng tôi nghiên cứu xây dựng một trật tự thế giới công bằng và dân chủ, bảo đảm an ninh và phồn thịnh cho tất cả mọi người, chứ không chỉ cho một số ít trong thế giới đó.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.