Bí Mật Núi Sát Nhân

CHƯƠNG 38



Stone và Milton đã quan sát kỹ trước khi chiếc mô-tô đứng khựng trước mặt họ tại nhà ga Liên minh. Reuben cởi kính đi xe của mình ra và dụi đôi mắt đỏ ngầu.
“Reuben, chuyện gì xảy ra với chiếc xe bán tải của cậu rồi?” Stone ngỡ ngàng hỏi.
“Tôi tìm thấy cục cưng này trong một bãi phế thải, nếu như các cậu có thể tin được. Phải mất cả năm vừa rồi sửa sang lại đấy.”
“Nó là cái gì vậy?” Stone hỏi.
“Nó là một chiếc sidecar Indian Chief 1982,” Milton trả lời ngay lập tức.
“Làm thế nào mà cậu lại biết được?” Reuben hỏi, mắt trợn tròn nhìn ông bạn.
“Tôi đã đọc về nó trong một bài báo cách đây khoảng sáu năm rưỡi trong Tạp chí xe máy cổ trong lúc ngồi chờ ở phòng khám răng. Tôi tới đó để làm mũ răng.”
“Làm mũ răng?” Reuben hỏi.
“Ừ, đó là việc liên quan đến kỹ thuật lót cao su rồi khoan để nạo bỏ phần men cũ, làm lộ ra một mảng men răng có đường kính khoảng hai mi-li-mét, nhưng không làm lộ phần tủy bên trong. Phần mũ vĩnh viễn được làm bằng sứ. Trông cũng đẹp phết. Cậu thấy không?” Ông há miệng mình ra khoe với bạn.
Reuben sốt ruột nói, “Cám ơn bài giảng về nha khoa đầy máu me 1 của cậu, Bác sĩ Farb.”
“Ồ, hầu như không có tí máu nào đâu, Reuben,” Milton trả lời, hoàn toàn không nhận ra vẻ châm biếm trong nhận xét của bạn mình.
Reuben thở dài và tự hào nhìn lướt qua chiếc xe máy màu đỏ như táo chín được trang điểm bằng đinh tán với một thùng xe phụ bên cạnh. “Động cơ có công suất một nghìn phân khối, bộ truyền lực và magneto đã được đo lại. Chiếc thùng xe phụ thì không còn nguyên bản; nó là hàng được làm nhái lại bằng sợi thủy tinh, nhưng được cái không bị han gỉ và lại nhẹ hơn nhiều. Tôi kiếm được hầu hết các phụ tùng cho nó từ trên mạng eBay, và một người bạn của tôi có mảng da bò thừa mà tôi sử dụng để bọc cho yên của phần thùng xe phụ. Và nên nhớ chiếc xe có thùng xe phụ được lắp về phía bên trái như thế là cực kỳ hiếm đấy. Bình thường một chiếc trong điều kiện như thế này có thể thừa sức bán được với giá hơn chục nghìn, trong khi tôi mới chỉ phải bỏ ra chưa đến một phần mười cho nó. Không phải tôi đang nghĩ đến chuyện bán nó đi, mong các cậu nhớ thế, nhưng cũng chẳng biết đâu được.”
Ông chìa ra một chiếc mũ bảo hiểm màu đen cho Stone có gắn kèm cả kính chắn gió.
“Chính xác thì tôi phải ngồi ở chỗ nào đây?” Stone hỏi.
“Trong thùng xe phụ, tất nhiên rồi. Thế cậu nghĩ nó để làm quái gì cơ chứ? Một cái chậu trồng hoa chết tiệt chắc?”
Stone chụp chiếc mũ bảo hiểm lên đầu và chỉnh lại kính chắn gió, sau đó mở cánh cửa nhỏ, bước vào thùng xe phụ và ngồi xuống. Đó quả là một chỗ chật chội đối với một người đàn ông cao lớn như ông.
Reuben nói, “Được rồi, chúng ta đi nào.”
“Chờ một phút!” Stone thốt lên. “Có bất kỳ điều gì mà tôi cần biết về chiếc xe máy này không vậy?”
“Có đấy, nếu bánh xe ở bên thùng xe phụ mà bị bung ra thì cậu có thể bắt đầu cầu nguyện đi là vừa.”
Reuben đạp cần khởi động và chiếc xe nổ máy pằm pằm. Ông kéo ga vài nhịp, vẫy tay chào tạm biệt Milton, rồi họ lên đường rời khỏi nhà ga Liên minh.
Reuben tăng tốc chiếc xe máy chạy về phía Tây trên Đại lộ Hiến pháp. Họ chạy tắt qua Đài Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam, cựu chiến binh Reuben nghiêm trang giơ tay chào bức tường, rồi vòng qua Đài Tưởng niệm Lincoln và băng qua Cầu Tưởng niệm, con đường đưa họ sang mạn Virginia. Từ đây họ hướng thẳng về phía Nam trên đường cao tốc George Washington, mà người dân địa phương thường gọi vắn tắt là đường cao tốc GW. Chiếc xe lao vun vút trên đường, kéo theo những ánh mắt tò mò của mọi người xung quanh.
Stone nhận ra rằng nếu như hơi nghiêng chân đi một chút thì có thể duỗi thẳng chân ra. Ông ngồi hẳn ra sau và căng mắt ngắm nhìn dòng sông Potomac bên trái mình. Trên sông một chiếc xuồng cao tốc vừa băng qua hai đội chèo thuyền đang cật lực chạy đua với nhau. Mặt trời thật ấm áp, làn gió nhẹ mơn man mời gọi thật thư thái, và trong giây lát Stone cho phép tâm trí mình được tạm thoát ra khỏi vô số nguy cơ đang rình rập trước mặt Hội Camel.
Reuben chỉ vào một tấm biển chỉ đường và hét to át tiếng động cơ ầm ầm. “Cậu có nhớ là suốt bao nhiêu năm tấm biển kia vẫn đề là Công viên Tưởng niệm Lady Bird Johnson không?”
“Nhớ chứ. Cho đến khi có người thông báo cho họ biết là bà ta chưa chết,” Stone hét lên đáp lại. “Và đặt tên nó lại là LBJ, người mà bây giờ cũng chết thật rồi.”
“Tôi rất thích tính hiệu quả của Chính phủ của chúng ta,” Reuben nói to. “Chỉ có điều là phải mất đến cả thập kỷ có dư mới sửa chữa được nhầm lẫn. Cũng may mà tôi không đóng thuế, nếu không chắc tôi giận điên lên mất.”
Cả hai cùng chăm chú nhìn một chiếc máy bay cất cánh khỏi đường băng tại Sân bay Quốc gia Reagan hướng về phía Bắc rồi nghiêng cánh một đoạn dài và cuối cùng lại hướng về phía Nam, hướng mà hai người đang đi theo. Vài phút sau họ đi vào ranh giới thành phố chính thức của khu Old Town Alexandria, một trong những địa điểm có ý nghĩa lịch sử nhất của cả nước. Nơi này không chỉ có một mà là hai ngôi nhà thời thơ ấu của vị tướng từng đứng về phe miền Nam Robert E. Lee, cùng với Nhà thờ Chúa, nơi có những hàng ghế đã từng vinh hạnh được George Washington ngồi. Thị trấn này đông nghịt những ngôi nhà sang trọng và cổ kính được phục chế vô cùng lộng lẫy, những con phố lát đá cuội gồ ghề, những nhà hàng và trung tâm mua sắm tuyệt vời, cùng đời sống ngoài trời sôi động và một khu vực bờ sông đầy mời mọc. Đây cũng là nơi đặt trụ sở Tòa án Phá sản liên bang.
Khi họ đang chạy qua tòa án, Reuben bỗng buột miệng. “Một nơi chết tiệt. Tôi đã phải trải qua chỗ này hai lần rồi đấy.”
“Caleb biết những người có thể giúp cậu về vấn đề tiền nong của mình đấy. Và tôi tin chắc Chastity cũng có thể cung cấp những dịch vụ giá trị cho mà xem.”
“Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng cô nàng Chastity ngọt ngào có thể phục vụ những nhu cầu của tôi, nhưng nếu thế thì anh bạn Milton sẽ phát điên lên với tôi mất,” Reuben nói to với một cái nháy mắt tinh quái. “Và tôi cũng không cần người giúp đỡ về số tiền mà tôi có, Oliver ạ, tôi chỉ cần người giúp đỡ kiếm thêm thôi.”
Ông ngoặt sang trái, và rồi xe của họ chạy chầm chậm dọc một con phố nhỏ hướng về phía bờ sông cho đến khi đâm thẳng ra phố Liên minh. Reuben tìm được một chỗ đậu xe, và Stone khó nhọc chui ra khỏi chiếc thùng xe phụ.
“Mặt cậu sao vậy? Có chuyện gì đã xảy ra vậy?” Reuben hỏi. Rõ ràng là trước đó ông không để ý đến những vết thương trên mặt bạn.
“Tôi bị ngã.”
“Ở đâu?”
“Trong công viên. Tôi đã chơi cờ với T.J., và sau đó ngồi uống cà phê với Adelphia. Tôi bị vấp vào một cái rễ cây lúc chúng tôi ra về.”
Reuben chộp cứng lấy vai bạn mình. “Adelphia ấy à! Oliver, mụ đàn bà đó bị thần kinh đấy. Cậu đúng là gặp may khi mụ ta không bỏ thuốc độc vào cốc cà phê của cậu. Hãy nhớ lấy những lời của tôi, một đêm nào đó mụ ta sẽ bám theo cậu về nhà cậu và cắt cổ cậu cho mà xem.” Ông ngừng lại và nói thêm với giọng trầm trầm, “Hoặc thậm chí còn tồi tệ hơn, mụ sẽ tìm cách quyến rũ cậu.” Reuben rùng mình khi hình dung ra cảnh Adelphia trở thành một người đàn bà đi quyến rũ người khác.
Họ đi bộ qua quán rượu Phố Liên minh và băng ngang qua đường rồi hướng về một cửa hàng gần góc đường. Tấm biển gắn trên cánh cửa có dòng chữ: “Libri Quattuor Sententiarum.”
“Cái chết tiệt này ở đâu ra vậy nhỉ?” Reuben vừa hỏi vừa chỉ vào tấm biển. “Tôi biết là tôi không tới đây một thời gian rồi, nhưng chẳng phải trước kia chỗ này có tên là Cửa hàng Sách của Doug sao?”
“Cái tên đó không thu hút được lượng khách hàng như mong muốn, vì vậy họ đã đổi tên.”
“Li-bri Quat-tuor Senten-tiarum? Đúng là bắt mắt thật! Nhưng nó có nghĩa là gì vậy?”
“Tiếng La-tinh có nghĩa là ‘Bốn tập sách về Thần học’. Đó là một bản thảo có từ thế kỷ mười hai của Peter Lombard, sau đó được chia ra và biên soạn lại theo bản in năm 1526 quanh những bài giảng của Thánh Thomas Aquinas về Những bức thư của sứ đồ Paul. Một số học giả cho rằng công trình của Thánh Aquinas là cuốn sách hiếm nhất trên thế giới. Một công trình thậm chí còn có từ trước bản in được biên soạn lại đó thì chắc chắn phải còn đặc biệt hơn nhiều. Do đó, nó là một cái tên rất thích hợp cho một cửa hàng sách hiếm.”
“Tôi thấy ấn tượng đấy, Oliver. Tôi thậm chí còn không biết là cậu nói được cả tiếng La-tinh.”
“Tôi có biết đâu. Caleb nói cho tôi biết đấy chứ. Thật ra thì việc đổi lại tên cửa hàng là ý tưởng của câụ ấy. Như cậu biết đấy, tôi đã giới thiệu cậu ấy với chủ cửa hàng. Tôi nghĩ như thế sẽ là điều tốt, vì Caleb là một chuyên gia về sách hiếm mà. Ban đầu đơn giản là cậu ấy chỉ giúp tư vấn về một số vấn đề, nhưng giờ thì Caleb có cổ phần trong cửa hàng này.”
Họ bước vào trong cửa hàng trong tiếng leng keng của một chùm chuông gió gắn trong vòm cửa uốn cong bằng gỗ sồi dày. Bên trong, tường nhà là những mảng cân đối của gạch không trát và đá cổ với những thanh rầm gỗ mối ăn lỗ chỗ trên đầu. Những bức sơn dầu đầy tinh tế treo trên các bức tường, và những giá sách cầu kỳ cùng tủ kệ đồ sộ chất đầy các tập sách cũ kỹ được dán nhãn cẩn thận và xếp ngay ngắn đằng sau những cánh cửa kính trong suốt.
Trong một căn phòng riêng biệt, một người phụ nữ đang đứng sau chiếc bàn cà phê nhỏ pha đồ uống cho mấy vị khách hàng khát nước. Một tấm biển gắn trên tường nhắc nhở các vị khách không mang theo đồ uống khi bước vào ngăn dành cho sách hiếm.
Một người đàn ông nhỏ bé và đang hói bước ra từ phía sau, diện chiếc áo gi lê màu xanh, quần có dây đeo và một chiếc áo len cao cổ, hai tay ông ta vươn rộng ra trong khi khuôn mặt rám nắng nở một nụ cười hồ hởi. “Chào mừng, chào mừng đến với Libri Quattuor Sententiarum,” ông ta thốt lên, những từ ngữ cứ thế liến thoắng buột ra khỏi cái miệng trơn tuột của ông ta. Sau đó ông ta đứng sững lại chăm chú nhìn Reuben rồi quay sang đăm đăm nhìn Stone.
“Oliver?”
Stone chìa tay ra. “Xin chào, Douglas. Anh còn nhớ Reuben Rhodes chứ?”
“Douglas!” Reuben lẩm bẩm trong hơi thở của mình. “Chuyện gì xảy ra với Doug’s vậy?”
Douglas ôm Stone rất lâu rồi bắt tay Reuben. “Oliver, nhìn anh, ừm, nhìn anh khác quá. Rất ổn, nhưng khác quá. Tôi thích phong cách này. Không, tôi yêu nó thì đúng hơn. Cà phê. Bellissimo!”
“Cám ơn anh. Caleb nói là mọi việc ở đây đang tiến triển rất thuận lợi.”
Douglas nắm lấy khuỷu tay Stone và dẫn họ qua một góc yên tĩnh hơn.
“Caleb thật là một viên ngọc quý, một kho báu, một phép màu.”
“Ấy vậy mà tôi lại cứ nghĩ cậu cũng chỉ là một thằng cha mọt sách lập dị,” Reuben nói với một nụ cười khẩy.
Douglas tiếp tục say sưa nói. “Tôi không thể cảm ơn anh thế nào cho đủ, Oliver ạ, vì đã giới thiệu Caleb với tôi. Công việc làm ăn đang bùng nổ! Bùng nổ! Trước kia tôi khởi đầu bằng việc bán truyện tranh khiêu dâm từ thùng xe của mình vậy mà bây giờ nhìn tôi xem. Tôi có một căn hộ trong khu Old Town, một chiếc du thuyền dài ba mươi bộ, một nhà nghỉ ở Bãi biển Dewey và thậm chí còn có cả chương trình tiết kiệm hưu trí cao cấp nữa chứ.”
“Tất cả là nhờ sức mạnh của những ngôn từ được viết ra,” Stone nói. “Thật phi thường.”
“Vậy anh còn bán mấy cái thứ khiêu dâm kia không?” Reuben háo hức muốn biết.
“Ừ, Douglas, tôi cần nhìn qua mấy thứ của mình, trong khoảng diện tích Caleb đã bố trí cho tôi sử dụng,” Stone khẽ nói.
Khuôn mặt của Douglas hơi tái đi và ông ta hồi hộp nuốt khan. “Ồ, tất nhiên, tất nhiên rồi. Xin cứ tự nhiên. Và nếu hai người cần bất kỳ thứ gì, xin cứ việc hỏi. Thật sự là hôm nay chúng tôi có loại cà phê Capuchino rất ngon và bánh nướng tuyệt hảo. Hoàn toàn miễn phí, đúng như mọi khi.”
“Cám ơn anh. Cám ơn anh rất nhiều.”
Douglas lại ôm choàng lấy Stone và vội vàng bước tới giúp một người phụ nữ vừa mới bước vào cửa hàng trong trang phục áo khoác lông thú choàng kín người dù thời tiết nóng phát điên.
Reuben nhìn quanh những giá sách chồng chất. “Có lẽ hầu hết những tác giả này đều chết không một xu dính túi, vậy mà hắn ta thì mua nào căn hộ, nào du thuyền, lại còn cả tiết kiệm nghỉ hưu nữa, bằng mồ hôi xương máu của họ.”
Stone không trả lời. Ông mở một cánh cửa nhỏ dẫn ra bên hông lối vào của cửa hàng và đi thẳng xuống một cầu thang nhỏ dẫn xuống một khu tầng hầm bỏ không. Ông bước về phía một hành lang ngắn và bước qua cánh cửa gỗ cũ kỹ có dòng chữ “Không phận sự miễn vào”. Ông đóng cánh cửa lại và rẽ trái đi xuống tiếp một hành lang khác. Sau đó Stone lấy từ trong túi áo ra một chiếc chìa khóa kiểu cổ và dùng nó mở một cánh cửa uốn cong ở cuối hành lang này, hai người bước vào một căn phòng nhỏ được ốp bằng loại gỗ rất lâu năm. Ông bật một bóng điện lên và bước tới một bệ lò sưởi lớn được xây sát tường. Trong khi Reuben đứng nhìn, Stone quỳ xuống, thò tay vào bên trong lò sưởi và kéo một mẩu kim loại nhỏ được gắn với một sợi dây ngắn treo trong đó. Có một tiếng tách rất khẽ, rồi một mảng tường bên cạnh lò sưởi vụt mở ra.
“Tôi bắt đầu thích những cái hốc bí mật này rồi đấy,” Reuben vừa nói vừa nắm lấy mảng ốp gỗ vừa hé mở và kéo nó mở toang hẳn ra khỏi tường.
Bên trong là một căn phòng dài khoảng tám bộ, rộng sáu bộ và cao đủ để ngay cả Reuben cũng có thể thoải mái đứng thẳng người. Stone rút trong túi áo ra một chiếc đèn pin và bước hẳn vào trong. Những giá sách vây kín cả ba bức tường. Trên mỗi giá sách này là những cuốn sổ ghi chép xếp chật cứng, cùng một vài chiếc hộp bằng kim loại có khóa và vô số thùng bằng bìa giấy các-tông được dán chặt bằng băng dính.
Trong lúc Stone chăm chú lần giở những chồng báo và sổ ghi chép, Reuben chợt nảy ra một ý nghĩ. “Tại sao cậu lại không giữ tất cả những thứ này ở nhà của mình?”
“Chỗ này có một hệ thống báo động. Tất cả những gì tôi có để bảo vệ cho ngôi nhà của mình là người chết.”
“Hừm, làm sao cậu có thể chắc chắn là anh bạn già Douglas kia lại không xuống đây và thọc mũi vào đồ của cậu mỗi khi cậu không ở đây?”
Stone vừa tiếp tục kiểm tra những cuốn sổ ghi chép vừa trả lời. “Tôi bảo với anh ta là tôi đã gài bẫy trong căn phòng này và không ai ngoài tôi ra có thể mở được nó một cách an toàn mà không phải đối mặt với nguy cơ chết bất đắc kỳ tử.”
“Và cậu nghĩ là hắn tin cậu à?”
“Thật ra cũng không quan trọng lắm. Bản thân anh ta không phải là người liều lĩnh gì, nên anh ta sẽ không đời nào đi kiểm chứng xem điều đó có đúng hay không. Hơn nữa, theo gợi ý của tôi, Caleb đã bóng gió nói với Douglas về việc tôi từng là một kẻ bệnh hoạn giết người hàng loạt, sau đó được phóng thích khỏi một bệnh viện tâm thần vì cái chứng điên thích giết người đó. Tôi đồ rằng đó chính là lý do tại sao lần nào gặp anh ta cũng ôm tôi. Hoặc là anh ta muốn lấy lòng tôi hoặc là anh ta đang kiểm tra xem tôi có mang theo vũ khí không. À, đây rồi.”
Stone rút ra một tập báo được đóng trong bìa da và mở ra. Tập báo chứa đầy những bài báo được cắt và dán rất cẩn thận lên những trang giấy lót. Ông đọc qua một lượt trong khi Reuben sốt ruột chờ đợi. Cuối cùng Stone cũng đóng tập báo lại và lại rút ra hai cuốn sách rất to từ trên giá xuống. Đằng sau hai cuốn sách này là một chiếc vali da lớn có kích thước khoảng mười tám inch vuông. Stone nhét chiếc vali nhỏ vào ba lô của mình cùng với tập báo cắt.
Trên đường đi ra Reuben nhón lấy ba chiếc bánh nướng từ cô nàng trẻ trung quyến rũ mặc đồ đen.
“Tôi là Reuben,” ông nói, đứng sừng sững trước mặt cô nàng và thót bụng lại.
“Tốt cho ông,” cô nàng nói cộc lốc trước khi quày quả bỏ đi.
“Tôi nghĩ là cô nàng kháu khỉnh đó có vẻ thích tôi,” Reuben tự hào nói khi họ quay trở ra chiếc xe máy của mình.
“Ừ, tôi đoán cô ta bỏ chạy mất dép như vậy là để khoe với đám bạn của mình,” Stone trả lời.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.