Bích Huyết Kiếm

Hồi 10: Yêu nhau lắm cắn nhau đau



Thừa Chí vội hỏi:

– Việc thứ hai là gì? Xin bác nói luôn đi! Ôn Nghi nói:

– Tướng công, hai người… hai người…

Lấy tay chỉ vào Thanh Thanh, Ôn Nghi đã hết hơi không nói tiếp được nữa, mắt nhắm nghiền, đầu gục xuống, chết liền. Thừa Chí để tay lại gần mũi bà ta thì không thấy thở nữa. Thanh Thanh nằm phục bên cạnh xác mẹ, khóc lóc, rồi vì đau đớn và bị cảm xúc quá nhiều, nàng chết giấc liền. Sợ hãi vô cùng, Thừa Chí vội kêu:

– Chú Thanh, chú Thanh! Hoàng Chân nói:

– Nàng đau đớn quá nên ngất đi đấy thôi. Không sao đâu! Rồi phun khói vào mũi Thanh Thanh. Chỉ thấy hắt hơi mấy cái nàng tỉnh lại dần dần, hai mắt lơ láo như người mất hồn vía.

Thừa Chí liền hỏi:

– Chú Thanh, chú đã đỡ chưa?

Nàng không trả lời. Hoàng Chân và Tiểu Tuệ không biết rõ sự quan hệ giữa Thừa Chí và mẹ con nàng ra sao, đều cảm thấy lạ lùng. Mọi người đều nghĩ thầm: “Mẹ con nàng hình như là người của phái Thạch Lương nhưng tại sao họ lại bị người nhà mưu hại như thế?” Vì không hiểu rõ nông nổi, nên không ai dám thêm ý kiến. Thừa Chí ứa lệ nói:

– Chú Thanh! Chú phải đi với chúng tôi! Không thể ở đây được đâu! Thanh Thanh vẫn ngơ ngác, chỉ gật đầu chứ không nói năng gì cả. Ẵm xác Ôn Nghi lên, Thừa Chí dẫn đầu đi ra, còn Hoàng Chân, Thanh Thanh, Tiểu Tuệ, Hy Mẫn thì theo sau.

Bọn Minh Đạt thấy anh em Thừa Chí tự do thao túng, xử trí mọi việc và tự tiện đem cháu gái mình đi, đều tức giận vô cùng. Nhưng trận đấu hôm qua, đã khiến ai nấy đều kinh hồn, không dám bước ra ngăn cản nữa.

Hoàng Chân dặn bảo Hy Mẫn:

– Một trăm lạng bạc này, con đem tặng người chủ nhà đã cho bọn ta ngủ trọ, và bảo họ phải dọn nhà đi ngay tức thì.

Hy Mẫn không hiểu tại sao liền hỏi:

– Tại sao lại bắt người ta phải dọn nhà đi?

– Với chúng ta, phái Thạch Lương bất đắc dĩ phải chịu nhịn. Tất nhiên họ sẽ “giận cá chém thớt”. Thế nào cũng đi kiếm người cho chúng ta ở trọ để hành hạ cho đỡ tức.

Hy Mẫn gật đầu:

– Sư phụ nghĩ chu đáo lắm! Nói xong, chàng chạy như bay đi liền.

Bốn người chờ tới khi Hy Mẫn quay trở lại mới vòng theo con đường nhỏ, rời khỏi Thạch Lương. Đi được ba mươi dặm, thấy trên sườn núi có một ngôi miếu đã đổ nát, trên đầu cổng có ba chữ lớn “Linh Quan Miếu”, nhưng trông rất lờ mờ không rõ.

Hoàng Chân lên tiếng:

– Hãy vào trong miếu nghỉ ngơi đã! Bước vào căn miếu đó, thấy mạng nhện và cát bụi phủ đầy, đồ đạc mục nát gần hết, cả năm người vào giữa điện ngồi nghỉ. Hoàng Chân nói:

– Di thể của bà này bây giờ tính toán sao? Chôn cất ngay đây, hay là vào thành kiếm phu đòn để khâm liệm?

Thừa Chí cau mày, không nói năng gì cả. Hoàng Chân lại nói tiếp:

– Hay là vào thành mua chiếc quan tài khâm liệm cho bà ta? Quan phủ sẽ tra hỏi tại sao bà ta mất? Chúng ta tuy không sợ, nhưng dù sao cũng vẫn thấy phiền phức lắm. Ý nghĩa lời nói của ông ta là nên chôn cất ngay tại đó. Thanh Thanh khóc lóc, rồi nói:

– Không được! Má em đã nói muốn được chôn cạnh mộ ba em kia mà! Hoàng Chân hỏi:

– Di thể của lệnh tôn chôn cất ở đâu?

Thanh Thanh không trả lời được liền đưa mắt nhìn Thừa Chí. Thừa Chí hiểu ý đáp ngay:

– Chôn ở trên núi Hoa Sơn của chúng ta! Nghe thấy chàng nói, bốn người đều ngạc nhiên, Thừa Chí lại nói tiếp:

– Phụ thân của nàng là Hạ lão tiền bối, xưa kia vẫn lừng danh là giang hồ quái kiệt Kim Xà Lang Quân đấy! Tuổi Hoàng Chân cũng xấp xỉ tuổi Hạ Tuyết Nghi. Lúc ông bước chân vào giang hồ, oai danh của Kim Xà Lang Quân đã chấn động khắp chốn võ lâm rồi, nên khi nghe thấy Thừa Chí nhắc đến tên Kim Xà Lang Quân, Hoàng Chân ngồi trầm ngâm giây lát, rồi nói:

– Tôi có một ý kiến, cô nương nghe rồi đừng trách cứ tôi nhé?

Thấy Hoàng Chân là người có tuổi, Thanh Thanh đáp:

– Xin bác cứ dạy! Hoàng Chân chỉ vào Thừa Chí:

– Chú ấy là sư đệ của tôi. Cô gọi tôi là bác, tôi đâu dám nhận. Thôi từ nay cô cứ gọi là đại ca đi! Hy Mẫn trợn mắt nhìn Thanh Thanh trong bụng nghĩ thầm: “Như vậy ta phải gọi con nhãi ranh này là cô kia à?” Thanh Thanh đưa mắt nhìn Thừa Chí như thầm hỏi ý kiến, rồi đổi luôn giọng xưng hô ngay:

– Hoàng đại ca đã dạy bảo, tiểu muội xin nghe theo! Hy Mẫn giật mình, tự bảo thầm: “Nguy to! Nguy to! Con nhỏ này thật thà quá đỗi, đã gọi ngay thầy ta là Hoàng đại ca rồi!” Thật quả lúc đó Hoàng Chân đâu có ngờ rằng trong đầu óc tên học trò ngốc ấy lại nghĩ lắm chuyện quá tự ái như thế? Ông ta liền nói với Thanh Thanh:

– Nếu ý định lệnh đường truyền lại, muốn được hợp táng với lệnh tôn, thì chúng ta cũng phải hoàn thành đúng như tâm nguyện của bà mới được. Nhưng ta tạm gác bỏ vấn đề khó khăn về sự chuyển vận linh cữu, từ đây tới Hoa Sơn xa xôi hàng nghìn dặm, không nói tới vội. Hãy nói tới vấn đề, dù linh cữu đã tới chân núi Hoa Sơn rồi, cũng không sao khiêng nổi lên trên đỉnh núi kia mà! Thanh Thanh hỏi:

– Vậy biết làm sao được bây giờ?

Thừa Chí nói:

– Núi Hoa Sơn hiểm trở khó lên lắm, người nào hơi kém võ công là không thể lên được tới đỉnh. Còn vấn đề chuyển vận linh cữu thì không có cách gì làm nổi.

Hoàng Chân nói:

– Ngoài ra, còn có một cách là đem hài cốt của lệnh tôn xuống dưới hợp táng với lệnh đường. Nhưng di hài của lệnh tôn đã an táng bao nhiêu lâu rồi, nay bỗng dưng lại động chạm tới tôi e không tiện.

Thấy lời nói đó hợp tình hợp lí lắm, Thanh Thanh lo quá khóc lóc và hỏi:

– Vậy biết làm thế nào bây giờ?

Hoàng Chân nói:

– Theo ý tôi thì bây giờ chỉ có cách hỏa thiêu di thể của lệnh đường, rồi đưa đống tro hài cốt lên trên đỉnh núi an táng, là thuận tiện và hoàn hảo hơn cả.

Tuy không muốn làm như thế, nhưng Thanh Thanh cũng không nghĩ ra được cách nào khác tốt hơn, đàng phải ngậm lệ gật đầu. Thế là mọi người đi nhặt củi và cỏ khô, hỏa thiêu di hài của Ôn Nghi. Từ thuở lọt lòng mẹ, rồi từ bé đến lớn, Thanh Thanh hoàn toàn sống trong một đại gia đình luôn chỉ độc có những tình cảm lạnh lùng và vô tình bao vây xung quanh. Ngoài người mẹ ra không có một người nào thật tâm thương yêu nàng cả. Suốt ngày, chỉ bị người ta nhạo báng, chế giễu, và khinh khi, vì vậy nàng mới có những tính nết quái dị như thế. Bây giờ trông thấy người mà nàng yêu mến nhất đời dần dần tiêu tan trong đống lửa hồng, nàng mới quá thương cảm mà phục xuống đất khóc lóc thảm thiết. Mọi người biết không thể nào khuyên can và an ủi nổi, đành để cho nàng khóc lóc cho thật đã đời, như thế mới có thể làm tan hoặc vơi bớt đi một phần nào những sự tấm tức, nhớ thương trong lòng.

Vào trong miếu đổ nát, kiếm được một cái hũ sành, chờ cho đống lửa tắt hẳn, Thừa Chí nhặt hài cốt bỏ vào, đoạn vái hai vái, miệng lẩm nhẩm khấn:

– Xin bác cứ yên tâm, thế nào cháu cũng đưa tro hài cốt này lên trên đỉnh núi Hoa Sơn an táng, cháu quyết không phụ lời phó thác của bác! Thấy mọi việc đã xong xuôi, Hoàng Châu bảo Thừa Chí rằng:

– Chúng ta phải đem số vàng này đến trấn Cửu Giang tỉnh Giang Tây. Sấm Vương đã phái rất nhiều anh em liên lạc khắp các tỉnh Giang Tô, Triết Giang, Giang Tây, Hà Nam, để chờ đợi lúc Trung Nguyên khởi sự là phía Nam cũng khởi nghĩa hưởng ứng. Viên sư đệ cướp lại được số vàng này, thật là công của sư đệ lớn lắm! Thanh Thanh nói:

– Quả thật tiểu muội không biết số vàng này lại quan trọng như vậy! Nếu không có hai vị đại ca ra cướp lại, có phải đã làm lỡ hết đại sự Sấm Vương rồi không?

Thôi Hy Mẫn nói:

– Quý hồ cô biết được là may mắn lắm rồi! Không bao giờ chịu thua ai bằng lời nói nào cả, Thanh Thanh trả đũa ngay:

– Nếu Hoàng đại ca không thân chinh hộ tống số vàng này em e rằng dọc đường còn xảy ra nhiều chuyện nữa đấy! Lời nói đó ám chỉ Hy Mẫn và Tiểu Tuệ đã bất lực, hộ tống không nổi số vàng này, nên mới để cho nàng cướp được. Hy Mẫn định trả lời chỉ trích lại, nhưng Hoàng Chân đã ra lệnh ngầm bằng mắt, cấm không cho hắn được nói nữa. Một lát sau, Hoàng Chân nói với Thừa Chí và Thanh Thanh:

– Viên sư đệ và Ôn cô nương không bận việc gì, cùng đi cả với chúng tôi tới Cửu Giang cho vui?

Thừa Chí đáp:

– Tiểu đệ muốn lên Nam Kinh chào sư phụ, xem sư phụ có sai bảo gì không? Và cũng nhân tiện đi thăm Thôi thúc thúc một thể.

– Sư phụ và chú Thôi Sơn đã trở về Thiểm Tây rồi. Lúc này quân vụ khẩn cấp lắm.

Việc Sấm Vương đại tấn công, chỉ nội nay mai là phát động rồi.

Thừa Chí giật mình nghĩ thầm: “Đó là thời cơ thuận tiện để trả thù cho cha ta đây!” Mắt đỏ ngầu, chàng nói:

– Nếu vậy, tiểu đệ phải về ngay Thiểm Tây yết kiến sư phụ, không đi Cửu Giang nữa. Đại ca nghĩ sao?

Chàng rất tôn trọng sư huynh nên việc gì cũng phải hỏi qua ý kiến sư huynh trước.

Hoàng Chân nói:

– Sấm Vương đại cử tấn công, cần dùng rất nhiều nhân tài. Tài ba lỗi lạc như sư đệ, nếu ra phò tá Sấm Vương thì còn gì tốt bằng. Sau này, vì dân diệt trừ gian tặc, chú sẽ phải vất vả nhiều!

– Xin đại sư huynh dạy bảo cho!

– Chú lễ phép quá. Thôi chúng ta hãy tạm biệt nhau tại nơi đây! Hoàng Chân nói xong, quay đầu đi luôn, Hy Mẫn cũng chào bái biệt sư thúc. Tiểu Tuệ nói với Thừa Chí:

– Thừa Chí đại ca! Chúc anh lên đường mạnh giỏi! Thừa Chí gật đầu, nói:

– Tôi xin gửi lời hỏi thăm thím An. Chúc cô thượng lộ bình an!

– Má em vẫn nhắc nhở tới anh luôn. Nếu biết anh trở nên vạm vỡ và tài hoa thế này, má em thế nào cũng vui sướng khôn xiết tả. Thôi, em đi đây! Vái chào Thừa Chí xong, Tiểu Tuệ vội vàng đuổi theo Hoàng Chân và Hy Mẫn, cùng đi về phía Nam. Vừa đi, nàng vừa quay đầu lại vẫy tay chào, Thừa Chí cũng giơ tay chào lại, cho tới khi khuất bóng ba người mới thôi.

Thanh Thanh “hừ” một tiếng rồi nói:

– Sao anh không đuổi theo vẫy tay chào nữa đi?

Thừa Chí đứng ngẩn người giây lát, không hiểu ý nghĩa lời nói móc của nàng.

Thanh Thanh lại nói:

– Sao anh không theo cô ta đi? Mà cứ vẩn vơ luyến tiếc mãi không dứt thế này?

Thừa Chí lúc này mới hay, vì lẽ đó mà nàng tức giận, liền vừa cười vừa nói:

– Hồi nhỏ tôi ngộ nạn, được má cô ta cứu giúp. Tôi và cô ta quen biết nhau từ hồi còn nhỏ và cũng vui chơi một nơi, vẫn quý mến nhau như anh em một nhà.

Thanh Thanh càng tức giận thêm, cầm một hòn đá, cứ đập bừa vào thềm đá, đom đóm lửa bật tung lên. Một lát sau, nàng liền nói kháy rằng:

– Thế mới gọi là “Thanh mai trúc mã”, quen biết nhau từ tuổi còn thơ chứ gì?

Cảm thấy tính nết cô nọ bướng bỉnh, không thể dùng lí lẽ khuyên can nổi, Thừa Chí chỉ có cách làm thinh.

Thanh Thanh giận dữ nói:

– Tại sao anh với cô ta chuyện trò tươi cười như thế? Mà với em thì cứ lì lì chẳng nói chẳng rằng! – Tôi vẫn vui vẻ trò chuyện đấy chứ!

– Phải, má người ta tốt lắm, lúc anh còn nhỏ đã cứu anh, thương anh. Còn tôi thì không có má như người ta! Nói tới đó, Thanh Thanh lại để cho giọt lệ tuôn rơi. Thừa Chí vội khuyên giải rằng:

– Thôi, cô đừng nên giở cái tính tiểu thư ra nữa. Chúng ta cần phải bàn định xem sau này chúng ta phải làm những gì.

Mặt đang nhợt nhạt, bỗng dưng đỏ liền, Thanh Thanh nói:

– Còn bàn định cái gì nữa? Anh thì đuổi theo em Tiểu Tuệ. Còn tôi, kẻ đau khổ này, sẽ đi phiêu bạt nơi chân trời góc biển.

Thừa Chí không biết trả lời ra sao, trong lòng suy tính, bây giờ làm thế nào mà xếp đặt cho cô bé trẻ tuổi này được yên ổn? Quả thật là nan giải! Thấy chàng không nói năng gì cả, Thanh Thanh đứng dậy, bưng luôn cái chĩnh đựng tro hài cốt của mẹ, quay đầu đi thẳng. Thừa Chí vội hỏi:

– Em đi đâu thế?

Thanh Thanh nói:

– Anh để mặc tôi! Nàng cứ theo phương Bắc mà đi. Bất đắc dĩ, Thừa Chí đành phải theo sau. Suốt dọc đường, nàng không nói năng nửa lời, Thừa Chí có ý gợi chuyện, nàng vẫn làm thinh như thường.

Khi tới trấn Kim Hoa, Thanh Thanh mua mũ và quần áo, cải trang đàn ông. Biết nàng ra đi vội vàng, bên người tất không sẵn tiền, nhân lúc nàng đi phố, Thừa Chí nhét hai thoi vàng vào trong bọc áo của nàng. Khi trở về, nàng lại đem vàng sang trả chứ không chịu lấy. Đêm hôm đó, nàng làm đạo chích trộm được năm trăm lạng bạc tại một nhà phú hộ nọ. Sáng hôm sau, vụ án đó đã đồn khắp thành Kim Hoa.

Thừa Chí biết nàng đã ra tay hành động, chỉ có chau mày lắc đầu, chứ không dám trách móc nàng nửa lời. Dù là người có võ công thượng thặng thật, nhưng đối phó với một cô gái khó tính như vậy, Thừa Chí cũng phải bó tay chịu hàng.

Muốn dùng lời lẽ êm dịu để van lơn nàng, thì chàng không muốn mất sĩ diện như thế! Còn bỏ mặc nàng, không đếm xỉa tới nữa, Thừa Chí không đành nhẫn tâm để cho một thiếu nữ cô đơn phải đi lang bạt giang hồ. Nghĩ lui nghĩ tới, chàng không biết làm thế nào cho phải.

Hôm đó, hai người rời khỏi thành Kim Hoa, đang đi về Thành Nghĩa. Ôn Thanh Thanh hậm hực đi trước, Thừa Chí vẫn lẽo đẽo theo sau. Bỗng mây đen kéo tới, hai người đều biết trời sắp mưa to, vội rảo cẳng đi cho mau. Nhưng mới đi được năm dặm, mưa đổ xuống như thác nước. Thừa Chí tính cẩn thận, lúc nào cũng đem theo chiếc dù.

Còn Thanh Thanh ngại cầm dù phiền phức, nên không đem theo đành phải giở khinh công ra chạy. Bực nhất hai bên đường không có đình miếu gì cả. Thấy nàng dùng khinh công phóng chạy, Thừa Chí cũng phải rảo cẳng đuổi theo. Khi tới cạnh nàng, liền đưa dù cho nàng dùng nhưng nàng đẩy dù ra không cầm.

Thừa Chí nói:

– Chú Thanh, chúng ta là anh em kết nghĩa, đã thề sống chết có nhau, họa phúc cùng chịu, tại sao bây giờ chú lại giận anh như thế?

Thấy chàng nói như vậy, Thanh Thanh bớt biận trả lời:

– Anh muốn tôi không giận, phải nghe theo tôi một điều này.

– Chú cứ nói đi, mười điều anh cũng xin theo.

– Từ nay trở đi, anh không được gặp mặt An cô nương và má cô ta nữa. Nếu anh nhận lời, em xin lỗi anh ngay.

Nói xong, nàng nhếch mép cười liền. Thừa Chí khó xử quá, chàng nghĩ thầm:

“Mẹ con nàng Tiểu Tuệ có ơn với mình, sau này thế nào ta cũng kiếm cách báo đền. Nay vô duyên, vô cớ tránh mặt không gặp người ta, như thế sao được.” Chàng là người thật thà trung thành, không thể lừa dối nàng mà cứ nhận bừa đi cho được êm chuyện. Vì vậy, chàng phân vân không biết trả lời thế nào cho phải. Thấy thế, Thanh Thanh giở mặt liền:

– Tôi biết mà, có khi nào anh nỡ bỏ em Tiểu Tuệ của anh! Nói xong, nàng lại quay đầu chạy thẳng. Thừa Chí vội gọi:

– Chú Thanh, chú Thanh! Thanh Thanh cứ cắm đầu chạy, không chịu đứng lại. Chạy được một quãng, thấy bên đường có cái đình nghỉ mát, nàng chạy thẳng vào. Thừa Chí cũng chạy theo vào.

Trời nóng nực, nàng lại mặc áo đơn rất mỏng, nay bị nước mưa ướt đẫm, áo quần dính sát vào người, trông rất khó coi, nàng xấu hổ quá, gục đầu xuống lan can đình vừa khóc vừa kêu gào:

– Anh cứ bắt nạt tôi! Anh cứ bắt nạt tôi! Thừa Chí nghĩ: “Lạ thật! Mình có bắt nạt nàng hồi nào đâu?” Tuy vậy, chàng vẫn chịu đựng không cãi lại, cởi áo dài ra, phủ lên trên người nàng. Nhờ chiếc dù, áo chàng không bị ướt. Nghĩ đến cái chết bi đát của mẹ nàng, nàng lại càng khóc lớn hơn trước. Thừa Chí cuống quýt cả lên, không biết làm thế nào cho phải. Một lát sau, mưa tạnh dần, Thanh Thanh vẫn khóc không dứt. Nàng đưa mắt nhìn trộm thì Thừa Chí đang nhìn mình, vội quay đầu tiếp tục khóc như trước. Thừa Chí đành liều không nói gì nữa, và nghĩ thầm: “Thử xem cô có bao nhiêu nước mắt nào?” Hai người đang cầm cự không ai chịu đấu dịu trước, bỗng có tiếng chân ở phía Bắc đi tới. Một thanh niên nhà nông đỡ một thiếu phụ đi vào trong đình. Thiếu phụ đó đang đau ốm, rên rỉ luôn mồm.

Nông dân nọ hình như là chồng nàng, ra vẻ rất thương vợ, cứ an ủi luôn mồm. Thấy có người lạ vào, Thanh Thanh vội nín ngay.

Thừa Chí sực nghĩ ra một kế: “Ta thử cách này xem.” Một lát sau, đôi vợ chồng nhà nông đỡ nhau đi ra khỏi đình. Thanh Thanh thấy mưa đã tạnh hẳn, đang định sửa soạn đi, Thừa Chí bỗng kêu:

– Ối chà! ối chà! Thanh Thanh giật mình sợ hãi, quay đầu lại, trông thấy chàng đang ôm bụng ngồi xụm xuống, vộ chạy lại xem. Nhờ nội công tinh xảo, Thừa Chí chỉ vận hơi một cái là đầu trán mồ hôi chảy ra như tắm. Thanh Thanh sợ quá, vội hỏi:

– Làm sao thế? Anh đau bụng đấy à?

Thừa Chí nghĩ thầm: “Đã giả bộ thì phải giả bộ tới cùng.” Nghĩ đoạn, chàng vận lại hơi làm bế tắc các yếu huyệt lại, Thanh Thanh sờ tay chàng thấy lạnh như sắt đá càng hoảng sợ thêm.

Thấy Thừa Chí bỗng đau nặng, Thanh Thanh sợ hãi quá, vội hỏi:

– Anh làm sao thế? Đau ở đâu?

Thừa Chí chỉ rên ầm ĩ chứ không chịu trả lời nàng. Lo sợ quá, Thanh Thanh lại khóc.

Thừa Chí nói:

– Chú Thanh ơi! Bệnh của tôi không khỏi được đâu. Chú để mặc tôi. Chú cứ lên đường một mình đi!

– Sao bỗng tự dưng anh lại đau thế này! Thừa Chí làm ra bộ yếu hơi yếu sức trả lời:

– Từ thuở nhỏ, tôi có chứng bệnh là… không thể nào chịu nổi sự tức tối được… nếu ai làm tôi bực mình, lo nghĩ một cái, là đau tim đau bụng liền… Ối trời ơi! Đau quá! chết mất thôi! Lúc này, không còn để ý tới “nam nữ thọ thọ bất thân” nữa, Thanh Thanh ôm choàng lấy chàng, xoa ngực xoa bụng luôn tay. Bị nàng ôm như vậy, Thừa Chí ngượng quá, đành phải để yên, chứ không dám kháng cự, Thanh Thanh vừa khóc vừa nói:

– Thừa Chí đại ca ơi! Do em mà nên cả. Xin anh đừng giận em nữa! Thừa Chí nghĩ: “Nếu ta không tiếp tục giả bộ, nàng sẽ cho ta là người không đứng đắn, mượn thế cầu lợi.” Đã cưỡi trên lưng hổ, chàng đàng phải cúi đầu rên rỉ:

– Có lẽ tôi chết mất! Chú chôn cất tôi xong, làm ơn báo tin cho đại sư huynh tôi hay! Càng giả dạng, càng làm như thật, chàng cứ phải cố nhịn cho khỏi phì cười.

Thanh Thanh vẫn khóc:

– Anh không thể chết được! Anh có biết đâu, em giả bộ hờn giận để chọc tức anh đấy chứ! Sự thật, lòng em… lòng em vẫn yêu anh. Nếu anh chết, em cũng không thể nào sống được nữa! Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: “Thế ra, nàng đã yêu ta!” Đây là lần đầu tiên mà chàng được hiểu thế nào là hương vị của ái tình, nên trong lòng chàng có một cảm giác lạ lùng là vui mừng và cũng là xấu hổ. Vì vậy, chàng cứ ngây người ra, không nói nửa lời. Tưởng chàng sắp chết đến nơi thật, nàng càng ôm chặt lấy chàng, miệng thì kêu gọi:

– Đại ca! Đại ca đừng chết! Ngửi thấy hơi thở của nàng thơm của hoa lan, chàng buông nhũn người tựa vào lòng nàng, ngây ngất như kẻ mất hết hồn vía. Nhưng chàng giật mình tỉnh ngộ ngay, tự bảo thầm: “Thù cha chưa trả, không thể nào nghĩ tới tình yêu được. Vả lại, ta là đại trượng phu quanh minh chính đại, không nên lừa gạt một thiếu nữa yếu đuối như thế!” Lúc ấy, Thanh Thanh lại gọi:

– Em tức giận giả dối đấy, anh đừng có cho là thật.

Thừa Chí cả cười rồi nói:

– Tôi cũng ốm đau giả dối đấy, em đừng có cho là thật! Thanh Thanh ngẩn người giây lát bỗng đứng dậy, tát luôn một cái. Bị đánh mạnh quá, mắt Thừa Chí hoa lên, chỉ trông thấy những tia lửa. Thanh Thanh ôm mặt, cúi đầu đi liền. Thừa Chí ngơ ngác không hiểu tại sao, nghĩ thầm: “Vừa rồi, nàng nói yêu ta lắm, nếu ta chết nàng cũng không thể sống! Sao bỗng dưng nàng giở mặt đánh ta như vậy?” Chàng không hiểu thấu tâm sự của nàng, cứ đi theo sau. Tát chàng một cái, cơn giận đã dịu bớt hẳn, nàng cảm thấy khoái vô cùng. Trông thấy má bên trái của chàng đỏ gay và hiện rõ vết năm ngón tay của mình, Thanh Thanh rất ân hận nhưng cũng khoái chí nữa. Nghĩ tới đã vô ý thổ lộ hết tâm sự với chàng, nàng cảm thấy vừa xấu hổ vừa khó chịu. Chiều tối hôm đó, đi tới Nghĩa Ô, nàng vào trọ một khách điếm, rồi ra ăn cơm. Thừa Chí cũng ngồi vào bàn ăn đó, Thanh Thanh mỉm cười:

– Cứ mặc đây đi, theo sát người ta thế này thật đáng ghét quá! Thừa Chí sờ má rồi nói:

– Bụng tôi đau là đau giả hiệu, còn cái má này mới đau thật sự.

Thanh Thanh khoái chí cười ồ, thế là hai người lại hòa hảo như trước. Cơm xong, trò chuyện phiếm một lúc, rồi ai về phòng người nấy ngủ. Thấy chàng đối xử với mình hòa nhã và có lễ độ như vậy, Thanh Thanh mừng thầm.

Sáng ngày hôm sau, vừa ngủ dậy, Thừa Chí nói:

– Chú Thanh, việc thứ nhất chúng ta phải làm là đưa hài cốt bác gái lên núi Hoa Sơn an táng.

– Vâng, nhưng tại sao anh tìm ra được di cốt của ba em thế?

– Chuyện này để khi đi đường, tôi nói cho mà nghe.

Hai người đi về phía Bắc, Thừa Chí đem chuyện con đười ươi (khỉ đột) làm thế nào tìm thấy hang núi, rồi chàng vào trong hang, trông thấy xương cốt, đào thấy hộp sắt và họa đồ, vân vân, kể cả cho nàng nghe.

Thừa Chí vừa kể tiếp tới chuyện Trương Xuân Cửu và tên hòa thượng, Thanh Thanh liền rùng mình sợ hãi nói:

– Tên Trương Xuân Cửu là đồ đệ của ông Tư em, tính rất gian ác. Còn tên Hòa thượng đó có phải giữa mặt có cái thẹo không?

– Phải chính y đấy.

– Tên y là Ngộ Ân, đồ đệ của ông Hai em. Từ khi ba em mất tích, các ông em phái mười mấy đệ tử đắc lực đi tìm kiếm khắp mọi nơi. Cứ cách ba năm, chúng phải về báo cáo một lần. Hai tên ấy độc ác, gian xảo khôn tả. Chúng chết như vậy thật là đáng lắm!… Ba em mất rồi mà còn dùng kế giết được kẻ địch, thật là tài ba quá!

– Sau khi họ biết tôi có chút liên quan với bác trai, thế nào chúng cũng sẽ lùng kiếm tôi thật ráo riết.

– Nhưng họ có đủ tài hạ nổi anh đâu mà anh phải lo ngại? Nếu ba em còn sống, trông thấy anh đánh họ tơi bời như vậy, thế nào cũng mừng lắm… Ừ, phải đấy, má em đã trông thấy, thế nào cũng kể lại cho ba em hay… Anh đưa cho em xem bút tích của ba em! Thừa Chí đưa bức họa đồ cho nàng xem, rồi nói:

– Đây là vật của ba chú để lại, tôi trao trả cho chú mới phải.

Trông thấy bút tích của Kim Xà Lang Quân, Thanh Thanh vừa đau lòng, vừa vui mừng. Từ đó, hễ đến nơi nào nghỉ chân là nàng lấy bức họa đồ ra xem và vuốt ve. Một hôm, đi tới Tùng Giang, Thanh Thanh bỗng hỏi:

– Đến Nam Kinh, chúng ta hãy đi đào bảo vật trước nhé?

Thừa Chí ngạc nhiên:

– Bảo vật nào?

Thanh Thanh nói:

– Bức họa đồ của ba em chẳng nói rõ: “Trọng bảo chi đồ” là gì? Ba em còn dặn, người nào tìm kiếm được vật báu phải tặng lại cho má em mười vạn lạng vàng. Như vậy, những bảo vật chôn giấu kia tất phải quý giá lắm?

Ngẫm nghĩ giây lát, Thừa Chí đáp:

– Tuy vậy nhưng chúng ta hãy nên làm việc chính đáng của ta trước đã! Lúc này, trong lòng chàng chỉ muốn gặp sư phụ xong là đi báo thù cho cha ngay.

Thanh Thanh nói:

– Bây giờ đã có sẵn họa đồ, chúng ta đi kiếm ngay số châu báu kia, em thiết tưởng chả mất bao nhiêu thời giờ của chúng ta đâu!

– Chúng ta lấy được châu báu, vàng bạc bây giờ để làm gì? Chú Thanh, tôi khuyên chú nên thay đổi hẳn tâm tính, đừng nên tham vọng vào những của báu ấy! Tiếp theo đó, chàng còn khuyên Thanh Thanh một hồi nữa. Nàng bực mình, bĩu môi, phồng mồm, hờn giận và không ăn cơm chiều.

Thanh Thanh nói:

– Đại ca! Em mới lấy có hai nghìn lạng vàng của Sấm Vương mà họ đã lo sợ đến nỗi phải nhờ đại sư huynh của anh thân chinh đi lấy lại! Tại sao Sấm Vương lại keo kiệt đến thế?

– Sấm Vương có phải là người keo kiệt như chú tưởng đâu! Anh đã được gặp ông ta rồi. Là người rất khinh tài trọng nghĩa, ông ta chỉ lo giải trừ đau khổ cho dân chúng.

Còn riêng ông ta thì rất tiết kiệm. Đó mới thật là đại anh hùng, đại hào kiệt. Số vàng hai nghìn lạng đó, ông ta đang cần dùng tới, tất nhiên không khi nào chịu để cho mất đi một cách dễ dãi như thế! Thanh Thanh nói:

– Anh nói rất phải. Nếu chúng ta dưng cho ông ta hai vạn lạng vàng, hoặc là hai trăm vạn lạng vàng, hai nghìn vạn lạng vàng. Anh bảo như thế có nên không?

Một lời cảnh tỉnh Thừa Chí, chàng mừng quá, quên cả phép tắc, nắm chặt lấy hai tay Thanh Thanh:

– Chú Thanh, tôi thật u mê quá. May là có chú nhắc nhở cho, thật cám ơn chú quá! Thanh Thanh rút tay lại, trả lời:

– Em không dám! Sau này chỉ mong anh ít chửi bới là em được mãn nguyện lắm rồi! Thừa Chí vội cười nịnh:

– Nếu chúng ta đào được số vàng bạc châu báu đó, đem đến cho Sấm Vương thì không khác gì chúng ta đã ban ân huệ cho dân chúng.

Hai người ngồi bên bờ đường, giở họa đồ ra xem cho kĩ, thấy trong họa đồ có vẻ một khuyên đỏ, bên cạnh có chú thích: “Ngụy Quốc Công Phủ” bốn chữ. Thừa Chí nói:

– Bảo tàng ở dưới đất một căn phòng hoang trong phủ Ngụy Quốc Công, đào xuống khá sâu, mở tấm phản bằng sắt lên, thấy mười chiếc hòm bằng sắt rất lớn. Đó là những hòm vàng bạc châu báu đấy…

– Bây giờ, chúng ta tới Nam Kinh, kiếm được Ngụy Quốc Đồng phủ là lấy được kho tàng đó ngay.

– Ngụy Quốc Công là phong hiệu của Đại tướng quân Từ sử. Ông ta là vị đại thần có công nhất với bổn triều. Vậy thì phủ của ông ta phải to lớn lắm. Dù vào được trong phủ, chúng ta đào lấy kho tàng kếch sù ấy, cũng không phải là chuyện dễ.

– Bây giờ chúng ta cứ đoán suông, tính hão mãi cũng vô cùng. Chi bằng hãy tới Nam Kinh trước, rồi tùy cơ ứng biến sau.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.