Bích Huyết Kiếm

Hồi 7: (tiếp)



Nghe tới đây, Ôn Thanh Thanh bỗng reo một tiếng:

– Hay! Nam Dương nhổ luôn đống nước miếng xuống đất. Thanh Thanh rất ưa vệ sinh, thấy Nam Dương nhổ bậy làm dơ bẩn như vậy, vẻ không vui hiện ngay lên trên nét mặt. Biết ý nàng, Thừa Chí dùng chân chùi ngay đống đàm ấy đi, Thanh Thanh khẽ gật đầu tỏ vẻ khen ngợi và bằng lòng. Ôn Nam Dương tiếp tục nói:

– Y tỏ sức khỏe tôi xem, tôi không biết có dụng ý gì. Chỉ thấy y ném cái neo gãy vào trong khoang thuyền, rồi y nói: “Nếu anh không làm theo lời dặn của tôi, thì anh sẽ bị như cái neo này đấy!” Y lại móc túi lấy ra một nén bạc, vứt xuống ván thuyền và nói rằng: “Đây là tiền lộ phí của anh.” Nói xong, y nhổ hai cái sào bên tay trái vừa cắm xuống nước người y đã nhảy cao lên, rồi lại cắm chiếc sào bên tay phải xuống đáy sông, đồng thời y rút chiếc sào bên tay trái lên và lại cắm luôn về phía trước. Chỉ có mấy động tác như thế, y tựa như đi trên không, chống bằng hai cái sào mà sang tới bên kia sông. Lúc tới bờ, y gọi: “Đỡ lấy!” Vừa dứt lời, y đã lao hai chiếc sào tới chỗ trước mặt tôi. Tự lượng sức mình kém quá, tôi không dám bắt hai chiếc sào đó. Chỉ nghe thấy “bộp, bộp” hai tiếng, hai chiếc sào đã lần lượt cắm vào mũi thuyền. Sợ quá tôi đành nín lặng. Nghe thấy tiếng cười dài như tràng pháo nổ, tôi nhìn lên bờ thì hình bóng y đã khuất trong bóng tối rồi.

Thừa Chí nghĩ thầm: “Kim Xà Lang Quân xử sự cũng khí khái hào hiệp thật!” Còn Thanh Thanh thì lên tiếng khen ngay:

– Người đó thật là một vị anh hùng hào kiệt! Ôn Nam Dương đáp:

– Hừ! Anh hùng cái quái gì? Lúc ấy tôi vẫn coi y là người ân nhân đã cứu tôi khỏi chết nhưng mỗi khi nhìn thấy đôi mắt lộ hung quang của y thì tôi có cảm tưởng là y rất ghét tôi. Tôi lại nghĩ đó chỉ là một tính nết kì lạ của y thôi, cho nên tôi không để ý tới. Từ đó về tới nhà, tôi phải sang một lần đò nữa. Dọc đường, các phu khiêng gánh chiếc hòm ấy đều kêu nặng lắm. Tôi đoán chắc trong hòm phải chứa đựng nhiều trân châu báu vật mà chú Sáu đã cướp bóc được của người ta nên mới nặng nề như thế. Ta vất vả vận tải về, thế nào các bác, các chú chả chia thêm cho một phần. Càng nghĩ tôi càng khoái chí. Về tới nhà, các bác các chú đều khen tôi tài giỏi và bảo lần đầu tiên đi kiếm ăn mà tôi đã làm được một việc lớn như thế thật khá lắm.

Thanh Thanh nói xen vào:

– Phải khá lắm! Cho một thiếu nữ đem về những một hòm lớn châu báu cơ mà! Ôn Nghi mắng liền:

– Thanh Thanh, im mồm, để nghe bác kể chuyện! Nam Dương lại kể:

– Tối hôm đó, trong khách sảnh đèn đuốc sáng choang, bốn tên gia đinh khiêng cái hòm ra. Cha tôi và bốn vị chú bác ngồi ở giữa, tôi ra tay cở dây thừng và nhổ từng chiếc đinh ra. Lúc ấy, tôi nhớ lắm, bác cả vừa cười vừa nói: “Chắc chú Sáu mê con nhỏ nào chưa chịu bỏ nên mới sai cháu Dương áp tải hòm đồ này về đấy! Nào, tất cả lại đây xem trong hòm đựng những châu báu gì?” Tôi mở nắ hòm ra, thấy trên có phủ một tờ giấy, mặt tờ giấy có một lá thư đề rằng: “Năm anh em họ Ôn hãy cùng bóc ra xem.” Mấy chữ đó đẹp lắm nhưng không phải bút tích của chú Sáu. Tôi đưa ngay phong thư cho bác cả nhưng bác không bóc xem, chỉ nói: “Xem bên dưới là cái gì đã?” Tôi bóc lượt giấy trên ra, thấy bên dưới có một gói vuông vắn, khâu kĩ lưỡng lắm.

Bác cả nói: “Thím Sáu, thím cầm kéo lại đây cắt gói đồ ra xem. Sao lần này chú Sáu lại khâu kĩ lưỡng và cẩn thận đến thế?” Thím Sáu cắt đứt các đường chỉ xong vừa mở gói đồ ra bỗng có bảy, tám mũi tên độc bắn ra.

Thanh Thanh sợ hãi rú lên một tiếng.

Thừa Chí nghĩ: “Đó là thói quen của Kim Xà Lang Quân.” Ôn Nam Dương nói:

– Bây giờ nghĩ ra, thật là cám ơn ông trời có mắt. Nếu tôi nóng nảy mà tranh mở gói đồ ra thì tính mạng của tôi có còn nữa không? Mấy mũi tên độc đó đều xuyên cả vào mình mẩy thím Sáu. Thứ thuốc bôi trên mũi tên độc lắm, thấy máu là phong hầu tức thì. Người của thím Sáu cứ tím dần đi. Và không thấy thím ấy rên rỉ nửa lời. Thím ấy ngã lăn ra chết liền.

Nói tới đây, y quay lại đay nghiến Thanh Thanh:

– Đó là thành tích tốt mà cha mày tạo ra đấy. Thấy thím Sáu chết một cách bất ngờ như vậy, mọi người hoảng sợ. Chú Năm nghi tôi lập mưu nên bắt buộc tôi phải mở gói đồ, tôi sợ quá nhưng không biết làm sao đành phải đứng thật xa, cầm cái cây thật dài để mở gói đồ. Nhưng lần này không có gì bắn ra nữa. Trong đó đựng những bửu bối gì? Tôi đố các người đoán được đấy?

Thanh Thanh nói:

– Ai mà đoán được! Có những gì thế?

Ôn Nam Dương cất giọng thảm não nói:

– Là xác của ông Sáu đó! Thanh Thanh sợ hãi đến nỗi mặt tái mét. Thấy thế, Ôn Nghi vội ôm chặt lấy nàng.

Bốn người yên lặng trong giây lát, rồi Nam Dương lại nói:

– Các người bảo như thế y có độc địa không? Đã giết chết chú Sáu thì thôi, y lại còn cho đưa xác về tới nhà.

Ôn Nghi đỡ lời:

– Có tử tế thì người ta mới làm như thế như thế?

– Hừ! Tất nhiên cô cho hành động của y là phải chứ gì?

Ngẩng đầu nhìn sao trên trời, Ôn Nghi từ từ nói:

– Thanh Thanh, lúc ấy tuổi má lớn hơn con bây giờ một năm nhưng lại ngây thơ hơn con nhiều, chả biết gì cả. Các chú bác hay làm việc ác nên má ghét các chú bác lắm. Thấy chú Sáu bị giết chết, má không thương xót chút nào. Má chỉ lấy làm lạ là vì chú ấy võ nghệ cao cường lắm, tại sao lại bị người ta giết được? Má núp sau lưng và không dám nói nửa lời. Sau đó, bác Cả mới lớn tiếng đọc lá thư cho mọi người nghe: “Cùng bảy anh em họ Ôn phái Thạch Lương, nay gửi về một cái thi thể, xin vui lòng nhận cho. Người này đã phạm lỗi làm ô nhục chị tôi rồi đang tâm giết chết liền, chẳng những thế lại còn hạ sát nốt cha mẹ và các anh em tôi tất cả năm người, số ta không chết mới là lạ. Nghĩa là ta phải giết chết 50 mạng người nhà các ngươi và làm nhơ bẩn mười phụ nữ. Không đủ con số đó, ta thề chẳng làm người. Kim Xà Lang Quân Hạ Tuyết Nghi kính bạch.” Vừa đọc xong bức thư, mặt bác Cả bỗng nhợt nhạt dần, hai tay run lẩy bảy, và lời nói không còn mạch lạc như lúc đầu.

Ôn Nghi liền hỏi Nam Dương rằng:

– Anh Nam Dương, có thật chú Sáu đã giết chết toàn gia người ta không?

Nam Dương trả lời một cách hãnh diện:

– Chúng ta “nam nhi đại trượng phu” đã bước chân vào hắc đạo (con đường tối, nghĩa là làm giặc) thì những việc hiếp dâm, cướp của, giết người, phóng hỏa, đều coi rất nhẹ nhàng và tầm thường. Thấy chị y còn nhan sắc, chú Sáu cưỡng ép không được mới rút dao ra giết luôn. Chuyện đó chắc là có.

Ôn Nghi thở dài:

– Các người đàn ông khi ra ngoài chỉ tạo nên những việc tiền oan nghiệp chướng, những việc tày trời như thế?

Nam Dương lại kể tiếp:

– Bác Cả đọc xong thư, giây lát sau, bỗng cười ha hả và nói rằng: “Nếu nó đến tận cửa nhà ta thì càng tốt. Bằng không chúng ta biết nó ở đâu mà đi kiếm chứ?” Tuy nói cứng như thế, nhưng bác ấy vẫn phải cẩn thận đề phòng. Đêm hôm đó, sau khi ra lệnh giới nghiêm, bác Cả còn cho người đi Kim Hoa và Nghiêm Châu mời đón chú Bảy và chú Tám về.

Thừa Chí nghĩ thầm: “Sao họ nhiều anh em thế nhỉ?” Thanh Thanh hỏi mẹ:

– Nhà ta còn ông Bảy và ông Tám, sao con lại không được biết?

Ôn Nghi trả lời:

– Hai ông ấy là em họ các ông nhà. Xưa nay, hai ông vẫn ở riêng nơi khác.

Ôn Nam Dương đỡ lời luôn:

– Xưa nay chú Bảy vẫn ở Kim Hoa, và chú Tám ở Nghiêm Châu. Tuy là anh em trong họ nhưng ít ai biết tới hai chú ấy. Không hiểu tại sao gian tặc Kim Xà lại được tin chóng thế? Hai chú vừa về tới nửa đường đã bị y đón giết liền. Tên gian tặc ấy như là thần xuất quỷ mật vậy. Không biết y lấy trộm được từ hồi nào 50 chiếc thẻ tre mà nhà ta vẫn thường dùng để lúc thu thuế gạo tính cho khỏi quên? Hễ cứ giết một người nhà ta là y cắm luôn một chiếc thẻ tre trên tử thi. Xem ra, không cắm đủ 50 chiếc thẻ y không chịu buông tha.

Thanh Thanh hỏi:

– Nhà ta, trên dưới có hơn trăm người, sao địch không nổi người ta? Bên phía người đó có bao nhiêu người hở bác?

– Y chỉ có việc một thân một mình nhưng y không dám công nhiên lộ diện. Lúc thường, không biết y ẩn núp ở đâu. Hễ thấy người nhà ta đi lẻ loi một mình là y hiện ra giết luôn. Tức giận quá, cha tôi phải mời rất nhiều cao thủ hắc đạo tới Thạch Lương để trợ giúp. Suốt ngày, các người tụ họp ở đại sảnh và cùng chuyện trò để chờ đợi y tới. Ngoài cửa dán một tờ báo cáo lớn, hẹn y phải chính đại quang minh tới đây quyết đấu. Y cứ làm thinh.

Thấy chúng ta đông người, y tuyệt tích không tới. Nửa năm sau, các giang hồ hảo thủ giải tán dần. Anh Ba tôi và em Chín con chú Năm, bỗng thấy chết đuối ở cái ao trong vườn và trên ngực hai người đều có cắm thẻ tre. Chẳng ai ngờ tên gian tặc lại nhẫn nại đến thế! Chịu khó đợi chờ nửa năm trời, nhắm đúng khi trong nhà không có cao thủ thì ra tay sát hại liền, từ đó tháng nào trong nhà ta cũng có người chết. Các tiệm bán quan tài ở làng Thạch này làm không kịp hòm sẵn để bán cho nhà ta. Bác Cả phải cho người ra tận Từ Châu mua để chôn cất người nhà. Với người ngoài, nhà ta không dám cho hay sự thật, chỉ bảo là bị bệnh dịch tả, nên mới chết nhiều người đến thế. Cô Nghi, chắc cô còn nhớ những ngày giờ sợ hãi đó chứ gì?

Ôn Nghi nói:

– Vâng lúc ấy, tất cả thị trấn này ai nấy đều bàng hoàng sợ hãi. Nhà chúng ta suốt ngày đêm đều có gia đinh đi tuần tiễu. Cha em và các bác, các chú, thay phiên nhau canh gác. Đàn bà và trẻ con phải ở cả vào căn nhà giữa, không dám bước chân ra khỏi cửa.

Nam Dương nghiến răng nói:

– Canh phòng cẩn thận đến thế, mà hai người con dâu của chú Tư đều bị y bắt cóc đi mất. Ai cũng tưởng hai thím ấy đã bị giết chết rồi. Ngờ đâu hơn tháng sau, lại thấy ở Dương Châu gửi thư về nói rằng: “Bị y bán làm gái điếm, xin cho người đem tiền đến chuộc.” Sau hỏi ra, cả hai đã phải tiếp khách trên một tháng rồi. Tức quá, chú Tư suýt chết ngất.

Nghe tới đây, Thừa Chí sởn tóc gáy nghĩ thầm: “Báo thù cho cha mẹ và anh, y đã giết chết nguyên thủ phạm cũng đủ rồi, hà tất Kim Xà Lang Quân phải tàn sát và hiếp tróc như thế thì quá đáng thật!” Vừa nghĩ, chàng vừa lắc đầu tỏ vẻ bất mãn vì hành động vô nhân đạo đó.

Nam Dương lại nói:

– Có điều này đáng hận nữa, là hễ đến ba ngày Tết: Đoan Ngọ, Trung Thu, và Nguyên Đán, y lại gửi một lá thư tới, trong đó kê khai các người đã bị giết và nhắc lại còn thiếu của y mấy mạng người và mấy người đàn bà. Phái Thạch Lương chúng ta ở Giang Nam tung hoành mấy chục năm mà nay bị tên gian tặc đó làm lụy, đến nỗi chịu cảnh tang thương đến thế! Ai nấy đều suy tính phải báo lại mối thù này. Nhưng thủ đoạn y cao cường quá, cha tôi bàn đi tính lại thật vô kế khả thi. Chúng ta đề phòng cẩn thận hơn trước thì mấy tháng liền không thấy y tới. Nhưng hễ canh phòng chểnh mảng một chút là có sự không lành xảy đến ngay. Trong hai năm người nhà họ Ôn ta, già trẻ lớn bé, tất cả bị giết mất 38 người. Đấy cháu Thanh Thanh thử nghĩ xem, chúng ta có đáng hận y không?

Thanh Thanh hỏi:

– Sau rồi sao nữa?

Nam Dương nói:

– Đoạn sau này xin nhường để má cháu kể nốt.

Đưa mắt nhìn Thừa Chí, Ôn Nghi rầu rĩ nói:

– Có thật chính Viên tướng công đã chôn cất hài cốt của anh ta phải không? Nếu vậy tôi chả cần phải giấu giếm tướng công nữa. Chúng tôi chỉ mong lát nữa tướng công cho mẹ con chúng tôi biết tình hình lúc chết của anh ta như thế nào?… Vậy…

Nói tới đây, giọng nói của nàng nghẹn ngào, nghe không ra tiếng. Một lát sau, nàng mới nói tiếp được:

– Lúc đó, tôi không hiểu tại sao anh ta lại nhẫn tâm đến thế? Sự thật, tôi cũng không muốn biết. Cha tôi cấm tôi không được bước ra tới ngưỡng cửa lớn. Buồn bực quá, mỗi ngày tôi có thể ra vườn chơi cũng phải có các anh, các chị đi theo, tôi mới được ra, dù là ban ngày cũng vậy. Hồi đó, đang lúc tiếc tháng ba, mùi hương của hoa thơm cỏ lạ theo gió thổi vào, ngào ngạt khắp nhà, tôi muốn lên sườn núi xem hoa nở và hóng gió mát. Nhưng chỉ vì Kim Xà Lang Quân giết người và lệnh cấm nghiêm ngặt của cha tôi mà tôi phải bị nhốt trong nhà, bỏ uổng mất cảnh đẹp, không người thưởng thức.

Chiều hôm đó, tôi, chị Ba con bác Hai, con dâu chú Năm, anh Nam Dương, và anh Niệm Từ, tất cả năm anh em ra chơi ngoài vườn. Tôi đánh đu, mỗi khi nhún lên thật cao, trông thấy cây cảnh bên ngoài, hớn hở biết bao. Bỗng anh Niệm Từ thét lên một tiếng, rồi ngã người ra phía sau, tôi sợ hãi quá. Sau mới biết anh ta bị người nọ phóng Kim Xà Chùy trúng giữa ngực, chết ngay tại chỗ. Tôi còn nhớ, lúc ấy anh Nam Dương sợ chạy trốn vào trong nhà, bỏ mặc ba người đàn bà chúng tôi ở ngoài vườn.

Mặt đỏ bừng, Nam Dương cãi rằng:

– Một mình tôi địch sao nổi? Ở lại đó phải mất mạng tôi không? Tôi phải đi gọi người cứu viện chứ?

Ôn Nghi nói tiếp:

– Tôi đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì đã xảy ra, bỗng đâu một cái bóng đen ở trên tường nhảy xuống đúng ngay tấm ván của chiếc đu mà tôi đang đứng trên đó.

Người đó nhún mạnh một cái, chiếc đu bay bổng lên trời. Y ôm chặt lấy lưng tôi, rồi y ôm lấy tôi nhún mạnh người tôi chỉ thấy vù vù như đằng vân giá vũ, cả hai đều bay ra khỏi chiếc đu. Những tưởng phen này tôi và y sẽ bị rơi xuống không chết thì cũng tan xương, ngờ đâu tay trái y ôm lấy tôi, tay phải y víu ngay được cành cây cổ thụ. Lại bật mạnh một cái, y và tôi đã bắn ra xa mười mấy trượng, rồi nhẹ nhàng đứng xuống mặt đất. Sợ hãi đến nỗi mơ mơ hồ hồ, tôi cứ đấm bừa vào mặt hắn. Y dùng ngón tay điểm bả vai tôi. Thế là người tôi mềm nhũn như bún, chân tay không cựa quậy được, tai tôi chỉ nghe thấy tiếng hò hét đuổi theo của rất nhiều người, nhưng tiếng hò hét đó càng ngày càng xa dần. Y cắp tôi vào nách, một mạch chạy thẳng lên một cái hang ở trên sườn núi cao chót vót. Giải huyệt cho tôi xong, y ngồi nhìn tôi miệng tủm tỉm cười. Nghĩ đến hai người chị dâu đã bị y hãm hiếp hồi nọ, tôi định chết trong sạch còn hơn sống nhục. Tôi đập đầu vào vách đá. Y sợ quá vột túm lấy cổ áo tôi, nhưng trán của tôi đã bị thương một tí rồi, nên mới có cái sẹo này đây.

Thấy cái sẹo đó khá lớn, Thừa Chí đoán chắc vết thương không nhỏ. Ôn Nghi thở dài một tiếng đoạn nói tiếp:

– Nếu lúc bấy giờ y không kéo tôi lại để cho tôi chết lại đỡ khổ cho y. Khi tôi tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên một cái thảm lông chiên ở trong hang núi. Sợ hãi quá, tôi suýt chết lần nữa, sau nhìn thấy quần áo vẫn còn nguyên vẹn trong lòng mới được yên đôi chút. Có lẽ thấy tôi định tự tử, tà tâm của cường đạo bỗng đổi ra lòng thiện, nên y mới không đang tâm hãm hại tôi chăng?


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.