Biến Mất

CHƯƠNG 28



Mila, cô là ai? Cô đang ở đâu? Ở một nơi nào đó chắc sẽ có dấu vết của cô ấy, Jane vừa nghĩ vừa rót một tách cà phê. Cô ngồi ghế, xem xét tất cả các tài liệu mà cô đã có được từ lúc rời bệnh viện. Đó là những bản báo cáo khám nghiệm và báo cáo của cảnh sát Boston về vụ án, những tài liệu của cảnh sát Leesburgh về vụ thảm sát ở Ashburn, tài liệu của Moore về Olena và Joseph Roke.
Cô đã xem những tài liệu này mấy lần rồi, cố tìm kiếm dấu vết của Mila – cô gái mà chưa ai biết mặt. Chỉ có duy nhất một bằng chứng chứng tỏ sự tồn tại của Mila nằm trong xe của Roke: vài sợi tóc trên băng ghế sau, những sợi tóc không khớp với Roke và Olena. Jane nhấp một ngụm cà phê và xem lại tập tài liệu về chiếc xe bị bỏ lại của Roke.
Cô phải tranh thủ làm việc giữa các giấc ngủ của Regina. Giờ thì cô con gái nhỏ đang ngủ say rồi, cô không bỏ lỡ một giây nào để tìm hiểu thêm tin về Mila. Cô rà soát một loạt những thứ tìm thấy trong chiếc xe, xem xét xem anh ta có gì. Có một chiếc túi vải dùng đựng đầy quần áo bẩn, vài cái khăn mặt lấy cắp được từ một nhà nghỉ.
Có một túi bánh mỳ và mứt, ít bơ và mấy hộp nước xốt Viên. Đây là thực đơn của một người không bao giờ có cơ hội nấu nướng. Một người đang trên đường chạy trốn. Cô chuyển sang những bằng chứng dấu vết và tập trung vào mấy sợi tóc cùng phân tích mô. Đây là một chiếc xe siêu bẩn, cả ghế trước và ghế sau đều cáu bẩn.
Tất cả đều là do con người tạo ra, còn có rất nhiều sợi tóc nữa. Những sợi tóc trên ghế sau làm cô chú ý, cô đọc lại bản báo cáo. Con người, A02/B00/C02 (7cm)/D42 Tóc trên đầu. Hơi quăn, đường kính 7cm, chất màu đỏ trung bình. Đây là tất cả những điều mà chúng tôi biết về cô đấy Mila, Jane nghĩ, cô có một mái tóc ngắn, màu đỏ.
Cô quay nhìn tấm ảnh chụp chiếc xe. Cô đã nhìn thấy những tấm này nhưng mới có một lần. Cô dò xét thấy một thùng Red Bull trống, những giấy gói thức ăn, một chiếc chăn vo thành đống và một chiếc gối bẩn thỉu. Mắt cô dừng lại ở hình ảnh tờ báo lá cải ở băng ghế sau. Tờ Weekly Confidential.
Một lần nữa cô lại thấy có điều gì đó không hợp lý – một tờ báo kiểu này trong xe một người đàn ông ư? Joe có thực sự quan tâm đến những rắc rối của Melanie Griffith hay việc chồng cô ta bỏ ra ngoài khiêu vũ vài vòng? Tờ Confidential là tờ báo dành cho phụ nữ – những người quan tâm đến những nỗi phiền muộn của các ngôi sao điện ảnh.
Cô rời bếp vào phòng con gái. Regina vẫn đang ngủ – một trong những khoảnh khắc hiếm hoi rồi sẽ trôi qua nhanh chóng. Nhẹ nhàng, cô đóng cửa phòng lại, ra khỏi căn hộ của mình tới căn hộ của hàng xóm. Phải mất vài phút thì bà O’Brien mới ra mở cửa, nhưng có vẻ bà ta khá vui mừng vì mình có khách.
Bất cứ vị khách nào. – Tôi xin lỗi đã làm phiền bà – Jane nói. – Mời vào, mời vào! – Tôi không thể ở lại. Tôi để Regina trong nôi và… – Con bé thế nào? Đêm qua tôi lại nghe thấy nó khóc. – Tôi rất lấy làm tiếc vì điều đó. Nó không phải đứa trẻ dễ ngủ. Bà O’Brien dựa vào cửa rồi thì thầm: – Brandy.
– Sao cơ ạ? – À, cái núm vú giả. Tôi đã làm như thế với mấy thằng con nhà tôi và chúng đã ngủ như những thiên thần. Jane biết hai cậu con trai nhà bà ta. Thiên thần không phải là từ thích hợp cho bọn chúng. – Bà O’Brien – cô nói trước khi phải nghe thêm vài cái mẹo cho một bà mẹ tồi – Bà đặt báo Weekly Confidential đúng không? – Tôi cũng vừa có số báo tuần này “Chăm sóc vật nuôi Hollywood”! Cô có biết là vài khách sạn có cả phòng đặc biệt dành cho chó không? – Bà có còn giữ những số của tháng trước không? Tôi đang tìm một số có hình Melanie Griffith trên ảnh bìa.
– Tôi biết tờ đó rồi – bà O’Brien vẫy Jane vào căn hộ của mình. Jane theo bà vào trong phòng khách, cô kinh ngạc nhìn những chồng báo chất đầy các góc. Chắc báo đã chất hàng thập kỉ nay, đủ các loại báo, tạp chí. Bà O’Briel đi đến một ngăn chỗ cất những tờ Confidential rồi rút ra một số có hình Melanie Griffith.
– Đây rồi, tôi nhớ rõ mà. Đây là một số hay đấy – “Những thảm kịch phẫu thuật thẩm mỹ!”. Nếu cô có ý định thẩm mỹ lại mặt mình thì nên đọc tờ này. Nó sẽ làm cô quên hết tất cả. – Bà không phiền nếu tôi mượn nó chứ? – Cô sẽ trả lại chứ? – Vâng, tất nhiên rồi.
Tôi chỉ mượn một hoặc hai ngày thôi. – Bởi vì tôi rất muốn nó được trả lại. Tôi thích đọc lại chúng mà. Bà ta chắc thuộc lòng đến từng chi tiết rồi ấy chứ. Ngồi trong phòng bếp của mình Jane nhìn vào ngày phát hành báo: ngày 20 tháng Bảy. Tờ này được bán trước ngày Olena được kéo ra khỏi vịnh Hingham một tuần.
Cô mở tờ báo ra và bắt đầu đọc. Tự dưng cô lại thấy thích thú dù cô nghĩ rằng: Trời ạ, đây đúng là thứ rác rưởi, nhưng là một thứ rác vui vẻ. Cô không có ý gì về việc anh chàng kia bị gay và cô gái này đã bốn năm chưa quan hệ. Cô dừng lại một chút ở phần phẫu thuật thẩm mĩ rồi mở tiếp qua mục thời trang rồi đến phần bài “Tôi đã trông thấy thiên thần”; “Một chú mèo dũng cảm đã cứu cả gia đình”.
Liệu Roke có thích thú với những tin đồn kiểu này không hay đam mê với thời trang? Liệu anh ta có xem phần phẫu thuật thẩm mĩ rồi tự nhủ: Không dành cho mình. Mình sẽ già nhanh thôi? Không, tất nhiên là không rồi. Joseph Roke không phải là người sẽ đọc tờ báo này. Vậy sao nó lại có trong xe của anh ta? Cô chuyển đến mục quảng cáo, rao vặt ở hai trang cuối cùng.
Ở đó có hai cột quảng cáo về những dịch vụ bói toán, chữa bệnh và những cơ hội kinh doanh ngay tại nhà. Liệu có ai đáp lại không nhỉ? Liệu có ai nghĩ rằng mình có thể kiếm được hai trăm năm mươi đô la mỗi ngày mà chỉ việc ngồi nhà mà viết thư không nhỉ? Lướt đến giữa trang cô thấy có mục rao vặt cá nhân, mắt cô chợt dừng lại trên dòng quảng cáo – những chữ rất quen thuộc.
Cái chết đã ấn định. Bên dưới là ngày giờ và một số điện thoại với mã vùng 617 – Mã vùng của Boston. Cụm từ ấy có thể chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, cô nghĩ thầm. Có thể đó là một cặp tình nhân nào đó lén lút hẹn nhau, hay hẹn lấy thuốc phiện. Nó có vẻ như chẳng liên quan gì đến Olena, Joe và Mila cả.
Tim đập mạnh, cô nhấc điện thoại trong bếp lên, quay số ghi trong mục quảng cáo. Có tiếng chuông reo. Ba lần. Bốn lần. Năm lần. Không có ai nhấc máy, không có tiếng nói nào trên đường dây. Nó cứ tiếp tục đổ chuông đến lúc cô không nhớ đến bao nhiêu nữa. Có thể nó là số điện thoại của một người phụ nữ đã chết.
– Alô – giọng một người đàn ông. Jane lạnh người, cô đang định dập máy. Cô áp sát ống nghe vào tai. – Có ai ở đó không? – người đàn ông hỏi, giọng có vẻ mất kiên nhẫn. – Xin chào – Jane nói – Ai ở đầu dây đấy ạ? – Hừm, ai à? Cô là người gọi điện cơ mà? – Tôi xin lỗi.
Tôi… ừm, tôi được đưa cho số điện thoại này nhưng tôi không biết tên. – Thế hả, không có cái tên nào trên đường dây này cả. Đây là điện thoại công cộng. – Anh ở đâu? – Faneuil Hall. Tôi đang đi ngang qua đây thì nghe thấy tiếng chuông điện thoại. Nếu cô đang tìm kiếm một ai đó thì xin lỗi tôi không thể giúp gì được.
Chào. Anh ta nói rồi treo máy. Cô lại nhìn xuống mục quảng cáo lần nữa vào năm chữ: Cái chết đã ấn định. Cô lại với tay nhấc điện thại và quay số. – Tờ Weekly Confidential đây – giọng một phụ nữ trả lời. – Xin chào – Jane bảo – Tôi muốn viết một thông báo. – Em phải bàn với anh trước đã chứ – Gabriel nói – Anh không thể tin được là em đã tự ý làm chuyện đó.
– Em đâu có thời gian để gọi cho anh – Jane trả lời – Hạn cuối để đăng quảng cáo là 5 giờ chiều nay. Em phải quyết định luôn. – Em đâu có biết ai sẽ trả lời nó, mà số di động của em lại được in trên mặt báo. – Điều tệ nhất có thể xảy ra là em sẽ nhận được vài cú gọi kỳ quặc.
Thế thôi. – Hoặc là em sẽ dấn thân vào những thứ nguy hiểm hơn nhiều so với chúng ta có thể nhận thấy – Gabriel tức giận ném tờ báo kia xuống sàn bếp – Chúng ta phải chuyển cái này cho Moore. Cảnh sát Boston có thể kiểm tra được các cuộc gọi. Em phải nghĩ đến điều này chứ? Hủy nó đi Jane – anh nhìn cô khẩn khoản.
– Em không thể. Em đã nói với anh rồi, quá muộn rồi. – Chúa ơi. Tôi phải chạy đôn chạy đáo ở văn phòng suốt hai tiếng đồng hồ để rồi trở về nhà thấy vợ mình đang chơi trò gọi điện nguy hiểm trong bếp của mình. – Gabriel, nó chỉ là hai dòng quảng cáo thôi mà. Có thể sẽ có ai đó gọi cho em, nhưng cũng có thể sẽ chẳng ai thèm ngó ngàng đến nó cả.
– Nếu có người gọi thì sao? – Thì em sẽ để Moore giải quyết nó. – Em sẽ để cho anh ấy ư – Gabriel cười – Đây là việc của anh ấy, không phải của em. Em vẫn đang trong thời gian nghỉ đẻ, nhớ không? Như để làm tình huống thêm gay cấn, một tiếng la khóc ầm ĩ cất lên trong phòng đứa trẻ.
Jane chạy đến bên nôi con gái. Vẫn như thường lệ nó đã đá tung hết chăn ra và đang vung vẩy nắm tay như khó chịu vì những yêu cầu của nó không được đáp ứng. Hôm nay không ai chịu vui vẻ với mình cả, Jane nghĩ khi bế đứa nhỏ ra khỏi nôi. Cô cho cái miệng đang đói ngấu kia vào ngực mình và nhăn mặt.
Mình đang cố gắng làm một bà mẹ tốt, cô nghĩ, thực sự mình rất muốn. Nhưng mình thấy mệt mỏi vì mùi sữa chua và mùi phấn trẻ con. Mình mệt mỏi vì những chuyện thế này. Mẹ đã từng truy đuổi những gã khốn kiếp, con biết đấy. Cô bế Regina vào bếp, đổi chân liên tục để cố giữ cho con bé thấy thoải mái trong khi cô đang muốn nổi cáu.
– Thậm chí nếu em còn có thể thì em cũng không hủy mục quảng cáo ấy – cô nói. Thấy Gabriel đến bên điện thoại, cô hỏi: – Anh định gọi cho ai đấy? – Moore. Anh ấy sẽ tiếp quản vụ này từ bây giờ. – Nhưng đó là di động của em cơ mà? Là ý của em. – Nhưng không phải vụ điều tra của em.
– Em không nói là em muốn theo đuổi cả vụ này. Em đã đưa cho họ ngày giờ chắc chắn. Chúng ta sẽ cùng ngồi với nhau vào tối đó và đợi xem ai sẽ gọi điện, được chứ? Anh, em và cả Moore nữa. Em chỉ muốn ở đó khi điện thoại rung thôi. – Em cần ra khỏi vụ này Jane ạ. – Nhưng em đã là một phần của nó rồi.
– Em đã có Regina. Giờ em đã là mẹ. – Nhưng em chưa chết. Anh có nghe em nói không? Em – Chưa – Chết. Những từ cô nói như treo lơ lửng trong không khí. Sự tức giận của cô làm tiếng nói như được đánh ra bởi một chiếc chiêng, cứ vang vọng mãi. Regina ngừng bú, mở to mắt nhìn mẹ như ngạc nhiên.
– Anh chưa bao giờ nói em đã… – Gabriel nói nhỏ. – Nhưng trong giọng của anh thì có nghĩa là em đã có thể như thế. Em đã có Regina. Bây giờ em có một công việc quan trọng hơn nhiều. Em cần ở nhà mà vắt sữa, để cho não em mục nát đi. Em là một cảnh sát và em cần được quay lại làm việc.
Em nhớ công việc của mình. Cô hít một hơi rồi ngồi xuống cạnh bàn, giọng cô giờ lại thành một tiếng thổn thức. – Em là một cảnh sát. Gabriel cũng ngồi xuống rồi bảo: – Anh biết, anh biết em là cảnh sát. – Em lại không nghĩ là anh biết điều ấy – cô lấy tay lau nước mắt – Anh chẳng biết em là ai cả.
Anh nghĩ rằng anh đã lấy một người khác. Một bà mẹ hoàn hảo. – Anh biết chính xác người anh lấy là ai mà. – Là một kẻ đáng ghét chứ gì? Vậy đấy, em là thế đấy. – Ừm – anh gật đầu – cũng thỉnh thoảng. – Không phải em chưa báo trước cho anh đâu đấy – cô đứng dậy. Regina vẫn im lặng một cách lạ lùng và vẫn nhìn Jane.
Có vẻ như bà mẹ bỗng nhiên trở thành một cái gì đó rất thú vị để quan sát – Anh đã quá biết em là ai và luôn được quyền lấy hay không – cô nói rồi đi ra cửa. – Jane. – Regina cần được thay tã. – Mặc kệ nó, em đang lảng tránh cuộc tranh luận. Cô quay lại. – Em không lảng tránh.
– Vậy thì ngồi xuống đây với anh. Vì anh sẽ không chạy khỏi em đâu. Anh không có ý định đó. Cô nhìn anh và nghĩ: Thật căng thẳng. Hôn nhân thật căng thẳng và đáng sợ. Anh ấy đã đúng về ý muốn trốn tránh của mình. Tất cả những gì mình muốn là tìm đến một nơi không ai có thể làm tổn thương mình.
Cô kéo một chiếc ghế rồi ngồi xuống. – Em biết đấy, mọi thứ đã thay đổi. Nó không còn giống hồi chúng ta chưa có Regina nữa. Cô không nói gì, vẫn còn bực mình vì anh đã nói mình là đáng ghét. Cho dù điều đó có đúng. – Giờ nếu có chuyện gì xảy đến cho em thì không phải chỉ một mình em đau mà em còn có con gái nữa.
Em còn phải nghĩ đến nhiều người khác nữa. – Em đang trong thời gian sinh đẻ chứ không phải trong tù. – Có phải em đang cho rằng em thấy tiếc là chúng ta đã có con bé? Cô cúi nhìn Regina. Con bé vẫn đang tròn mắt nhìn như thể nó có thể hiểu mọi từ ngữ. – Không, tất nhiên là không rồi.
Em chỉ… – cô lắc đầu – Em còn hơn là một người mẹ. Em còn là em nữa. Nhưng Gabriel, em đang đánh mất chính bản thân mình. Cứ mỗi ngày em lại cảm thấy mình biến mất một chút. Giống như con mèo Cheshire ở vùng đất thần tiên. Nó dường như ngày càng khó nhớ ra mình là ai. Rồi anh về nhà và chỉ trích em về việc đăng mẩu quảng cáo ấy.
Anh cũng phải thừa nhận đó là một ý kiến sáng suốt. Và giờ thì em nghĩ: Được rồi, Jane. Mày đã thực sự biến mất. Thậm chí chồng mày cũng đã quên mất mày là ai. Anh ngả người lại gần, ánh mắt như đốt cháy cô. – Em có biết anh đã như thế nào khi em bị giữ trong bệnh viện không? Em có nghĩ gì về điều ấy không? Em nghĩ em rất mạnh mẽ.
Em khoác một khẩu súng lên người và đột nhiên em trở thành một phụ nữ tuyệt vời. Nhưng nếu em bị thương thì không phải chỉ mình em chảy máu Jane ạ. Anh cũng sẽ chảy máu. Em có bao giờ nghĩ đến anh chưa? Cô không nói gì. Anh cười nhưng tiếng cười lại thành âm thanh của một con vật bị thương.
– Anh cứ như một thằng ngốc ấy, lúc nào cũng cố gắng bảo vệ em từ chính bản thân em. Ai đó phải làm điều này vì em là kẻ thù tồi tệ nhất của chính em. Em là Frankie Rizzoli coi thường đứa em gái nhỏ. Một đứa con gái. Em vẫn không phải là người thích hợp để chơi với những cậu con trai.
Và em sẽ không bao giờ có thể. Cô nhìn anh, bực bội vì anh đã hiểu rõ cô, bực bội vì những mũi tên chính xác nhưng độc ác anh vừa bắn. – Jane – anh với tay ngang qua bàn giữ chặt tay cô trước khi cô kịp giật ra – Em không bao giờ cần phải chứng tỏ bản thân mình cho anh hay Frankie hay bất cứ ai khác cả.
Anh biết lúc này rất khó cho em nhưng em sẽ quay lại với công việc trước khi nhận ra điều đó. Vậy hãy nghỉ ngơi một lát đi em. Cho cả anh nữa. Hãy để anh được tận hưởng những giây phút khi thấy vợ và con gái mình được ở nhà an toàn. Anh vẫn giữ chặt tay cô trên bàn. Cô nhìn xuống tay của mình, của anh và nghĩ: Người đàn ông này sẽ không bao giờ buông tay ra bất kể ta có đẩy anh ấy như thế nào.
Anh ấy sẽ luôn bên cạnh ta, bảo vệ ta. Bất kể ta có đối tốt với anh ấy hay không thì anh ấy vẫn luôn ở bên ta. Chầm chậm, những ngón tay của họ đan vào nhau – cuộc chiến tạm ngừng. Chuông điện thoại kêu. Regina cất tiếng khóc. – Rồi – Gabriel thở dài – Giây phút yên bình không kéo dài – Lắc đầu, anh đứng dậy nghe điện thoại.
Jane đang đưa Regina ra khỏi bếp thì nghe anh nói – Cô nói đúng. Dừng nói chuyện này trên điện thoại. Cô thấy lo lắng, quay lại để xem phản ứng trên gương mặt anh, để xem sao giọng của anh lại như vậy. Nhưng anh vẫn quay mặt vào tường. Thế là cô đành tập trung vào những cử động của vai anh.
– Chúng tôi sẽ đợi cô – anh nói rồi gác máy. – Ai thế anh? – Maura. Cô ấy đang đến đây. BA MƯƠI MỐT Maura không xuất hiện trước căn hộ của họ một mình mà còn có một người đàn ông khá hấp dẫn với tóc đen và râu được tỉa gọn gàng. – Đây là anh Peter Lukas – cô giới thiệu.
Jane nhìn Maura ngờ vực. – Cậu mang phóng viên đến à? – Chúng ta cần anh ta Jane ạ. – Chúng ta cần nhà báo từ khi nào vậy? Lukas tỏ một cử chỉ chào vui vẻ: – Rất vui được gặp các vị, thám tử Rizzoli, mật vụ Dean. Chúng tôi vào nhà được chứ ạ? – Không, không nói chuyện ở đây – Gabriel nói khi Jane bế đứa nhỏ ra khỏi phòng ra hành lang.
– Chúng ta sẽ đi đâu? – Lukas hỏi. – Theo tôi. Gabriel dẫn đường lên trên gác, họ lên đến căn hộ ở tầng trên cùng. Tại đây những người thuê nhà đã thiết kế một khu vườn để nghỉ ngơi với những chậu cây xanh mát, trên có ngói che. Nhiệt độ mùa hè trong thành phố vào mùa hè cũng làm nó trở nên khá nóng nực.
Những cây cà chua oải người vì nóng, mấy dây nho lá cũng đổi sang màu nâu vì nắng quá. Jane đặt Regina trong ghế cho trẻ con dưới bóng của chiếc bàn. Má con bé ửng hồng. Từ chỗ này họ có thể nhìn sang những vườn treo trên mái nhà khác, chào đón những mảng màu xanh trong những tòa nhà bê tông.
Lukas đặt một tập tài liệu cạnh đứa trẻ đang ngủ. – Bác sĩ Isles nghĩ rằng các vị sẽ quan tâm đến tài liệu này. Gabriel mở tập tài liệu. Bên trong có một mảnh báo với hình ảnh một gương mặt đàn ông đang cười và dòng tiêu đề: Một người đàn ông chết trên thuyền. Một thương nhân mất tích từ ngày mùng 2 tháng Hai.
– Charles Desmond là ai – Gabriel hỏi. – Một người đàn ông mà ít người biết rõ – Lukas trả lời – chính điều này thu hút tôi. Đấy là lý do tại sao tôi tập trung vào câu chuyện này. Cho dù bên pháp y đã nhận định đó là một vụ tự sát. – Anh nghi ngờ quyết định đó? – Không có bằng chứng nào để chứng tỏ rằng đó không phải là một vụ tự sát cả.
Desmond được tìm thấy đã chết ở phòng tắm trong chiếc thuyền máy của ông ta. Chiếc thuyền mà ông ta đã thả neo trên một bến thuyền ở trên sông Potomac. Ông ta chết trong bồn tắm với hai cổ tay bị cứa đứt, một bức thư tuyệt mệnh để trong phòng ngủ. Lúc người ta phát hiện ra thì ông ta đã chết được mười ngày.
Bên pháp y đã không công bố bất cứ bức ảnh nào nhưng chắc các vị cũng hiểu nó sẽ như thế nào cho bên giải phẫu. – Tôi có lẽ không nên tưởng tượng ra nó – Jane nhăn nhó. – Bức thư ông ta để lại không tiết lộ điều gì đặc biệt. Tôi tuyệt vọng, cuộc sống thật kinh khủng.
Tôi không thể chịu đựng thêm bất cứ ngày nào nữa. Desmond được biết đến là một người nghiện rượu nặng và đã ly dị được năm năm. Nó cũng dễ giải thích cho tâm trạng chán nản của ông ta. Tất cả nghe có vẻ rất hợp lý để giải thích cho một vụ tự sát đúng không? – Vậy tại sao anh lại không thấy hợp lý? – Tôi có cảm giác như thế.
Giác quan thứ sáu của nhà báo cho tôi biết có một điều gì đó đang diễn ra, một điều gì đó có thể dẫn đến một chuyện to tát hơn. Đây là một người đàn ông giàu có với một du thuyền, bị mất tích mười ngày trước khi có ai đó nghĩ ra việc đi tìm ông ta. Lý do duy nhất họ chỉ ra được ngày ông ta mất tích là dựa vào chiếc xe đã được tìm thấy ở bãi đậu xe của bến thuyền có vé ghi ngày mùng 2 tháng Hai.
Hàng xóm nói ông ta thường xuyên đi ra nước ngoài nên họ không thấy có gì lạ khi một tuần không trông thấy ông ta. – Đi ra nước ngoài ư? Sao lại thế – Jane hỏi. – Không ai có thể nói cho tôi biết tại sao. – Hoặc là họ không muốn nói cho anh biết. Lukas cười. – Cô có đầu óc hay nghi ngờ người khác thám tử ạ.
Tôi cũng vậy. Nó càng làm tôi thấy tò mò về Desmond, băn khoăn liệu còn gì khác trong chuyện này. Các vị cũng biết vụ Watergate bắt đầu thế nào rồi. Một vụ trộm có thể dẫn tới những chuyện lớn hơn rất nhiều. – Thế trong chuyện này thì điều hơn đó là gì? – Người đàn ông này là ai? Charles Desmond.
Jane nhìn bức ảnh gương mặt Desmond. Ông ta có nụ cười dễ chịu, cà vạt gọn gàng. Đó là kiểu ảnh có thể xuất hiện ở bất cứ một bài báo nào viết về công ty quản trị doanh nghiệp… – Càng có nhiều nghi vấn về ông ta thì càng có nhiều điều lộ ra. Charles Desmond chưa từng vào đại học.
Ông ta phục vụ trong quân đội hai mươi năm và chủ yếu là làm công việc tình báo quân đội. Năm năm sau khi ông xuất ngũ ông ta có một du thuyền đẹp và một ngôi nhà lớn ở Reston. Giờ thì các vị hoàn toàn có thể nghi ngờ: Làm thế nào mà ông ta lại có một tài khoản ngân hàng khổng lồ như thế? – Bài báo ở đây có cho biết ông ta đã làm việc cho một công ty có tên là Pyramid Services – Jane nói – Đó là gì? – Đó cũng là điều làm tôi băn khoăn.
Tôi đã tốn vài ngày để tìm hiểu nó. Sau đó tôi tìm ra công ty Pyramid Services là công ty con của một công ty, các vị đoán thử xem nó là công ty gì? – Đừng bảo tôi nó là Ballentree nhé – Jane nói. – Đúng rồi đấy thám tử ạ. Jane nhìn Gabriel. – Cái tên đó lại xuất hiện đúng không? – Nhìn vào thời gian ông ta mất tích – Maura nói – ngày đó đã làm tôi chú ý – Ngày mùng 2 tháng Hai.
– Ngày trước khi xảy ra vụ thảm sát ở Ashburn. – Một sự trùng hợp thú vị đúng không? – Nói cho chúng tôi biết thêm về công ty Pyramid – Gabriel bảo. – Đó là một công ty chuyên vận chuyển và an ninh thuộc tập đoàn Ballentree. Đây chỉ là một trong rất nhiều dịch vụ mà họ cung cấp trong những vùng xảy ra chiến tranh.
Bất kể nhu cầu của anh là gì: Hộ tống, bảo vệ, vận chuyển hay thậm chí sử dụng vũ lực của cảnh sát Ballentree đều có thể đáp ứng cho anh. Bọn họ làm việc ở những nơi không có chính quyền thực thụ. – Những kẻ làm lợi nhuận từ chiến tranh – Jane bảo. – Đúng vậy, tại sao lại không? Có rất nhiều tiền được tạo ra trong chiến tranh.
Trong cuộc xung đột Kosovo, những người lính tư của Ballentree đã bảo vệ một thủy thủ đoàn. Giờ họ cũng đang sử dụng lực lượng cảnh sát tư ở Kabul, Baghdad và những thành phố quanh biển Caspian. Tất cả tiền đều được trả bởi các khoản thuế của Mỹ. Đây cũng là cách mà Charles Desmond có thể chi trả cho du thuyền của ông ta.
– Tôi đang làm việc cho một lực lượng cảnh sát khốn kiếp – Jane bảo – Có lẽ tôi nên đăng ký tới Kabul và tôi cũng có thể kiếm được một chiếc du thuyền. – Cô không muốn làm việc cho những người này đâu – Maura bảo – Cho đến khi nào cô biết có gì tham gia vào đó nữa. – Ý cô vấn đề là họ làm việc ở những vùng trận mạc à? – Không – Lukas nói – Vấn đề ở đây là họ bị bó buộc với một số bạn hữu rất kinh tởm.
Bất cứ khi nào cô đến một vùng chiến tranh cô cũng sẽ phải đối mặt với các nhóm mafia trong vùng. Vì vậy nên cần thiết lập tình bạn để các tên sát nhân không kết thúc các công ty như Ballentree. Có chợ đen để buôn bán, trao đổi ma túy, vũ khí, rượu và đàn bà. Mỗi cuộc chiến tranh lại là một cơ hội, một thị trường mới và tất cả mọi người đều muốn giành được chiến lợi phẩm.
Đấy là lý do tại sao lại có các cuộc tranh chấp cho các hợp đồng bảo vệ. Không phải vì bản thân các hợp đồng mà là vì cơ hội kinh doanh ở các chợ đen đi cùng với chúng. Năm ngoái Ballentree đã kiếm được nhiều hợp đồng hơn bất cứ một công ty bảo vệ nào khác – Lukas dừng lại – Một phần là nhờ Charles Desmond đã làm rất tốt công việc của mình.
– Đó là gì? – Hắn là kẻ đi làm hợp đồng. Một gã mà có bạn bè ở Lầu Năm Góc và có thể có nhiều bạn ở những chỗ khác nữa. – Vì tất cả những điều mà ông ta đã làm thì ông ta đã được nhận thế này – Jane nói, nhìn xuống tấm ảnh của Desmond. Một người nằm chết mà không ai phát hiện ra trong suốt mười ngày.
Một người đàn ông bí hiểm với hàng xóm đến mức không ai nghĩ tới việc trình báo ông mất tích. – Câu hỏi ở đây là – Lukas tiếp – Tại sao ông ta phải chết? Có phải là do những người bạn Lầu Năm Góc của ông ta? Hay một người nào khác? Không ai nói gì. Hơi nóng càng ngột ngạt hơn.
Cây cối phía dưới cũng như tỏa ra hơi hướng kiệt quệ, tiếng xe cộ ầm ĩ. Đột nhiên Jane nhận ra Regina đã tỉnh giấc và đang chăm chú nhìn mình. Thật tuyệt vời. Mắt con tôi mới thông minh làm sao. Jane có thể thấy một phụ nữ đang tắm nắng trên một tầng mái khác, bộ bikini để mở, tấm lưng trần lấp lánh ánh dầu.
Cô nhìn thấy một người đàn ông đang đứng ở một ban công nghe điện thoại và một cô bé đang chơi đàn violông cạnh cửa sổ. Trên trời, làn mây điểm những vệt trắng của máy bay bay qua. Có bao nhiêu người có thể thấy chúng ta? Cô băn khoăn. Có bao nhiêu máy quay hay vệ tinh vào thời điểm này đang theo dõi chúng ta từ phía trên mái nhà? Boston đã trở thành điểm tập trung của mọi ánh mắt.
– Tôi chắc điều này đã xuất hiện trong đầu mọi người – Maura nói – Charles Desmond đã từng làm tình báo viên quân đội. Người đàn ông Olena bắn trong bệnh viện cũng từng là lính trong quân đội nhưng dấu vân tay của anh ta đã bị xóa khỏi hồ sơ. Văn phòng tôi cũng bị nhòm ngó, đột nhập.
Vậy thì thứ ma quỷ gì ở đây? Có thể là một công ty lắm chứ? – Ballentree và FBI luôn có mối quan hệ mật thiết – Lukas nói – Điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Họ cùng làm việc trong cùng đất nước, thuê cùng những gã như nhau. Kinh doanh dựa cùng vào nguồn thông tin – anh ta nhìn Gabriel – Và giờ thì họ cùng xuất hiện ở đây, trên chính nước nhà.
Tuyên bố là có đe dọa khủng bố và chính phủ Mỹ phải xem xét bất cứ hành động nào, bất cứ sự tiêu dùng nào. Những quỹ không được nhắc đến thì ra khỏi chương trình hoạt động. Đấy là cách những người như Desmond phải kết thúc với những chiếc du thuyền. – Hay kết thúc với cái chết – Jane bảo.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.