Bóng Hình Của Gió

CHƯƠNG 21



BÓNG TỐI LÉN LÚT ĐỔ XUỐNG, kèm theo luồng gió lạnh cùng tấm màn ánh tím len lỏi giữa những khoảng không trên phố. Tôi nhanh chân bước, và hai mươi phút sau, cổng trường đại học đã xuất hiện như con tàu màu son thả neo trong đêm. Trong phòng thường trực, ông gác cổng của khoa Văn đang nghiềm ngẫm từng con chữ trên trang thể thao của ấn bản buổi chiều của tờ báo uy tín nhất nước. Dường như không còn sinh viên nào ở trường. Tiếng vọng bước chân theo tôi dọc hành lang và các gian phòng đi vào khoảng sân trong, nơi ánh sáng hai ngọn đèn vàng chừng như không ngăn nổi bóng đêm. Bỗng tôi chợt nghĩ, có lẽ Bea đã chơi khăm tôi, rằng nàng dàn xếp gặp tôi ở đây vào giờ chót để trả đũa tính tự phụ của tôi. Những chiếc lá trên cây cam trong sân như những giọt nước mắt bạc, và tiếng vòi phun nước vẳng lại qua những mái vòm. Tôi thận trọng nhìn quanh khoảng sân, dự trù trước sự thất vọng hay có thể là cảm giác nhẹ nhõm hèn nhát. Nàng đây rồi, đang ngồi trên chiếc ghế dài, hình dáng nàng nổi lên trên nền đài phun nước, đôi mắt ngước trông lên khung vòm trước khoảng sân. Tôi dừng ngay ở lối vào để ngắm nàng, và trong thoáng chốc tôi nhớ đến Nuria Monfort đang mơ màng trên ghế dài trong quảng trường. Tôi nhận thấy nàng không mang theo cặp sách, và tôi ngờ ngợ nàng không có lớp chiều nay. Có lẽ nàng đến đây chỉ để gặp tôi. Tôi nuốt ực lấy can đảm và bước vào khoảng sân. Tiếng bước chân tôi khiến tôi bị lộ và Bea ngước lên, với nụ cười bỡ ngỡ, như thể sự xuất hiện của tôi chỉ là tình cờ. “Em đã nghĩ anh không đến,” Bea nói.
“Anh cũng nghĩ em như vậy,” tôi đáp. Nàng vẫn ngồi ngay ngắn, hai gối khép chặt, tay đặt trong lòng. Tôi tự hỏi làm sao mình có thể xa cách với nàng mà đồng thời lại đang ngắm nhìn đường nét trên đôi môi nàng như vậy.
“Em đến vì em muốn chứng minh cho anh thấy rằng những điều anh nói hôm nọ là không đúng, Daniel ạ. Em sẽ kết hôn với Pablo, và em không quan tâm điều anh sẽ cho em thấy tối nay là gì. Em sẽ đi El Ferrol ngay khi anh ấy hết nghĩa vụ quân sự. “ Tôi nhìn nàng như thể đất đang sụt xuống dưới chân mình. Tôi nhận ra hai ngày qua mình đã đi lơ lửng trên mây, và giờ thế giới của tôi dường như sụp đổ.
“Thế mà anh cứ nghĩ em đến chỉ vì em muốn gặp anh.” Tôi cố nở một nụ cười yếu ớt. Nàng ửng má thẹn thùng.
“Anh đùa đấy thôi,” tôi nói dối. “Anh đến đây chỉ vì lời hứa cho em thấy một khuôn mặt khác của thành phố này mà em chưa biết. Ít nhất nó sẽ cho em một lý do để nhớ anh, hoặc nhớ về Barcelona, dù em có đi đâu.” Nàng cười đượm buồn, tránh ánh mắt tôi. “Suýt nữa thì em đã đi xem phim để khỏi gặp anh hôm này,” nàng nói.
“Tại sao?” Bea nhìn tôi mà không nói gì. Nàng nhún vai và ngước mắt, như đang cố chộp lấy những lời vừa thoát ra.
“Bởi vì em sợ có lẽ anh đã đúng,” cuối cùng nàng nói. Tôi thở dài. Bóng đêm bao lấy chúng tôi, sự im lặng yếu ớt mang những kẻ xa lạ xích lại gần nhau, và tôi cảm thấy đủ can đảm để dám nói bất cứ điều gì nghĩ được trong đầu, thậm chí dù đây có thể là một lần cuối cùng.
“Em có yêu anh ta không?” Một nụ cười hiện ra rồi biến mất. “Đấy đâu phải việc của anh.”
“Đúng vậy,” tôi nói. “Là chuyện riêng của em.” Nàng nhìn tôi lạnh lùng. “Chuyện đó thì liên hệ gì đến anh?”
“Đấy không phải việc của em.” Nàng không cười. Đôi môi run rẩy. “Những người quen biết em đều biết em rất quý mến Pablo. Gia đình em và…”
“Nhưng anh hầu như là một người lạ,” tôi cất lời. “Và anh muốn nghe em nói.” “Nghe gì?”
“Rằng em thực sự yêu anh ta. Rằng không phải em kết hôn với anh ta để chạy trốn khỏi gia đình, để tạo khoảng cách giữa em với Barcelona và với gia đình em, để đến một nơi nào đó không còn ai làm em tổn thương. Để em ra đi chứ không phải chạy trốn.” Mắt nàng ánh lên những giọt lệ giận dữ. “Anh không có quyền nói như vậy với em, Daniel. Anh có hiểu gì về em đâu.”
“Hãy nói rằng anh nhầm, rồi anh sẽ đi. Em có yêu anh ta không?” Chúng tôi lặng nhìn nhau hồi lâu.
“Em không biết,” cuối cùng nàng nói. “Em không biết.”. “Ai đó từng bào rằng ngay khi ta dừng lại để nghĩ xem liệu ta có yêu một người nào đó hay không thì tức là ta đã vĩnh viễn thôi không còn yêu người đó nữa,” tôi nói.
Bea tìm kiếm sự giễu cợt trên vẻ mặt tôi. “Ai nói như vậy?” “Một người tên Julián Carax.”
“Bạn của anh à?” Tôi gật đầu. “Kiểu như vậy.”
“Anh định giới thiệu người đó với em.” “Đêm này, nếu em muốn.”
Chúng tôi rời trường đại học dưới bầu trời tím ngắt và lang thang vô định, không đến một nơi nào cụ thể, chỉ để quen với việc đi bên nhau. Chúng tôi vin và chủ để chung duy nhất mà cả hai có được, anh trai Tomás của nàng. Bea nói về cậu ấy như thể đó là một người hoàn toàn xa lạ, một người nàng yêu mến nhưng hầu như chẳng hiểu gì. Nàng tránh ánh mắt tôi và mỉm cười lo âu. Dường như nàng hối tiếc điều đã nói với tôi trong sân trường, những điều ấy còn dày vò và làm nàng tổn thương. “Những điều em vừa kể,” bỗng nàng nói, “anh đừng cho Tomás biết nhé, có được không?”
“Tất nhiên là không rồi. Anh sẽ không nói với bất kỳ ai cả.” Nàng cười lo âu. “Em không biết mình bị sao nữa. Anh đừng phật lòng nhé, nhưng đôi khi ta cảm thấy thoải mái khi nói chuyện với người lạ hơn là với người mà ta quen biết. Tại sao thế nhỉ?”
Tôi nhún vai. “Có lẽ vì người lạ nhìn chúng ta như chúng ta vốn có, chứ không phải như theo cách họ muốn.” “Câu ấy cũng của người bạn Carax kia à?”
“Không, anh nghĩ ra để gây ấn tượng với em thôi.” “Anh nghĩ em là người thế nào?”
“Như một bí ẩn.” “Đó là lời khen kỳ lạ nhất em được nghe”
“Đó không phải khen ngợi. Mà là một lời đe dọa.” “Ý anh là sao?”
“Bí ấn phải được khám phá, người ta phải tìm ra điều bị che giấu.” “Hẳn anh sẽ thất vọng khi thấy điều che giấu bên trong.”
“Có lẽ anh sẽ ngạc nhiên. Và em nữa.” “Tomás chưa bao giờ nói anh cả gan đến vậy.”
“Là bởi vì một chút xíu anh có, anh đã dành hết cho em mất rồi.” “Tại sao?”
Vì anh sợ em, tôi nghĩ. Chúng tôi tìm vào một quán cà phê nhỏ cạnh nhà hát Poliorama. Ngồi vào bàn cạnh cửa sổ, chúng tôi gọi bánh kẹp thịt cay và hai cà phê để lót dạ. Một lúc sau viên quản lý, một gã gầy còm có bộ mặt như một con quỷ nhỏ, bước đến với vẻ rất ân cần.
“Có phải hai vị gọi bánh kẹp thịt không?” Chúng tôi gật đầu.
“Thay mặt quản lý ở đây, tôi xin lỗi phải thông báo bánh kẹp đã hết. Tôi xin đề xuất món xúc xích butifarra đen, trắng hoặc lẫn, thịt viên, hoặc món xúc xích chistorra. Loại hảo hạng, mới ra lò. Tôi cũng có các món làm từ cá sardine, nếu vì lý do tôn giáo mà hai vị không ăn thịt. Hôm nay thứ Sáu….” “Tôi dùng cà phê được rồi,” Bea nói.
Tôi đang đói. “Vậy phiền anh cho thêm hai suất khoai tây tẩm gia vị và một ít bánh mì được không?” “Có ngay, thưa anh. Và xin thứ lỗi vì thiếu sót này. Thường chúng tôi phục vụ đầy đủ các món, thậm chí có cả trứng cá muối Bolsevik. Song chiều nay có trận bán kết cúp châu u, chúng tôi có nhiều khách quá. Một trận đấu tuyệt vời.”
Viên quản lý bước đi trịnh trọng, Bea thích thú nhìn anh ta. “Giọng vùng nào nhỉ? Jaén chăng?”
“Gần hơn nhiều: Santa Coloma de Gramanet,” tôi đính chính. “Chắc em ít đi tàu điện ngầm. đúng không?” “Bố em bảo tàu điện ngầm đầy những kẻ bần tiện, và nếu đi một mình có thể bị bọn Digan sờ soạng.”
Tôi định nói gì đó, nhưng quyết định giữ mồm miệng. Bea bật cười. Ngay khi cà phê và đồ ăn mang tới, tôi cắm cúi ăn chẳng hề ý tứ. Bea không ăn gì. Tay nàng ôm lấy chiếc tách bốc hơi, nàng chúm chím cười ngắm nhìn tôi, với vẻ vừa tò mò và ngạc nhiên. “Vậy cái anh định cho em thấy hôm nay là đây à?”
“Nhiều thứ lắm. Thật ra, điều anh định cho em biết chỉ là một phần của một câu chuyện thôi. Không phải hôm trước em nói với anh là em thích đọc sách sao?” Bea gật đầu, mày nhíu lại.
“Đây là câu chuyện về những cuốn sách.” “Về những cuốn sách ư?”
“Về những cuốn sách bị lời nguyền, về người đã viết ra chúng, về một nhân vật đã thoát ra khỏi những trang sách của một cuốn tiểu thuyết để đốt nó, về sự phản bội và về một tình bạn bị đánh mất. Một câu chuyện về tình yêu, về thù hận, và về những giấc mơ sống trong Bóng hình của gió.” “Anh nói giống như lời quảng cáo trên bìa một cuốn tiểu thuyết thời Victoria ấy, Daniel.”
“Có lẽ là vì anh làm việc trong một hiệu sách và anh đọc quá nhiều. Nhưng đây là một câu chuyện có thực. Thực như món bánh mì mà họ phục vụ chúng ta ở đây đã được làm từ ba hôm trước vậy. Và, giống như những câu chuyện có thực, nó bắt đầu và kết thúc ở một nghĩa trang, mặc dù không giống như kiểu nghĩa trang mà em tưởng tượng.” Nàng cười như đứa trẻ khi chúng được người ta cho một câu đố hoặc trò ảo thuật. “Em sẵn sàng nghe rồi đây.”
Tôi hớp nốt ngụm cà phê cuối cùng trong tách và lặng nhìn nàng giây lát. Tôi nghĩ mình những muốn lạc vào trong đôi mắt lảng tránh ấy biết bao. Tôi nghĩ về nỗi cô đơn rồi sẽ chiếm lĩnh mình đêm ấy khi tôi nói lời tạm biệt nàng, một khi tôi đã hết trò hoặc không còn câu chuyện nào để giữ nàng lại bên mình nữa. Tôi nghĩ về chuyện những gì mình có để cho nàng chẳng đáng là bao mà lại muốn nhận ở nàng nhiều biết dường nào. “Em có thể nghe thấy não anh kêu tanh tách đấy, Daniel. Anh định mưu tính gì đây?”
Bắt đầu câu chuyện, tôi kể về buổi bình minh xa xưa khi tôi tỉnh giấc và không thể nhớ nổi khuôn mặt mẹ nữa, và tôi kể mãi cho đến khi dừng lại để hồi tưởng lại thế giới bóng đen tôi đã cảm nhận vào đúng ngày hôm ấy trong ngôi nhà của Nuria Monfort. Bea yên lặng lắng nghe, không phát xét, không kết luận. Tôi kể nàng nghe lần đầu tiên tôi đến Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên và cái đêm tôi thức đọc cuốn Bóng hình của gió. Tôi kể nàng nghe về cuộc gặp của tôi với người không mặt và về bức thư của Penélope Aldaya tôi luôn mang theo mình mà không biết tại sao. Tôi kể nàng nghe tôi chưa bao giờ hôn Clara Barceló, hay bất kỳ ai, và bàn tay tôi run rẩy thế nào khi tôi cảm thấy đôi môi của Nuria Monfort chạm vào da tôi chỉ mới cách đây vài tiếng. Tôi kể nàng nghe tại sao cho đến lúc ấy tôi mới hiểu rằng đó là một câu chuyện về những người cô đơn, về sự vắng mặt và mất mát, và đây là lý do tại sao tôi luôn trú ngụ trong đó cho đến khi nó bắt đầu xen lẫn cuộc sống riêng tôi, như một người chạy trốn vào những trang của một cuốn tiểu thuyết bởi vì những người anh ta yêu quý dường như không khác gì những bóng ma cư trú trong tâm hồn một người xa lạ. “Đừng nói gì nữa,” Bea thầm thì. “Hãy dẫn em đến nơi đó.”
Trời đã tối đen khi chúng tôi dừng trước cổng Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên, dưới vẻ u ám của con phố Arco del Teatro. Tôi nhấc cái nắm đấm hình mặt quỷ lên gõ ba lần. Trong khi chúng tôi trú dưới mái vòm cổng chính mà chờ đợi, cơn gió lạnh mang theo mùi khói. Tôi bắt gặp ánh mắt Bea, quá gần với mắt tôi. Nàng đang cười. Rồi chúng tôi theo tiếng bước chân nhẹ tiến về phía cửa, rồi giọng mệt mỏi của người bảo vệ. “Ai đấy,” Isaac hỏi.
“Cháu là Daniel Sempere đây, ông Isaac.” Tôi nghĩ có thể nghe thấy ông ấy chửi thầm trong bụng. Rồi tiếp theo là hàng ngàn tiếng cót két cọt kẹt của hệ thống khóa phức tạp. Cuối cùng cánh cửa mở ra chừng dăm ba xăng ti mét, khuôn mặt diều hâu của Isaac Monfort lộ ra dưới ánh đèn dầu. Nhìn thấy tôi, ông bảo vệ thở dài và trợn tròn mắt.
“Tôi thật ngu ngốc. Tôi không biết sao mình lại hỏi,” ông ta nói. “Còn ai khác nữa vào giờ này?” Isaac đang khoác trên mình thứ trang phục kỳ lạ kết hợp giữa áo ngủ, áo tắm và áo khoác quân đôi Nga. Đôi dép độn bông thật chẳng phù hợp mấy với chiếc mũ len sọc ca rô giống như mũ của một giáo sư, lại thêm những quả tua rua.
“Cháu hy vọng ông chưa đi ngủ giờ này,” tôi nói. “Chưa đâu. Ta mới chỉ bắt đầu cầu nguyện…”
Ông nhìn Bea như thể vừa nhìn thấy một lô thuốc nổ đang châm ngòi dưới chân. “Vì lợi ích của cháu, ta hy vọng chuyện này nhìn vậy mà không phải vậy,” ông ta đe dọa. “Ông Isaac, đây là Beatriz, bạn cháu, cháu mong ông cho phép cháu dẫn cô ấy đi xem nơi này. Ông đừng lo, cô ấy rất đáng tin.”
“Cậu Sempere, ta biết nhiều đứa oắt con lẫm chẫm tập đi nhưng mà khôn ngoan hơn cậu đấy.” “Sẽ không mất nhiều thời gian đâu ạ.”
Isaac khịt mũi bỏ cuộc, đoạn thận trọng nhìn Bea, giống như một cảnh sát đa nghi. “Cô có biết mình đang đi cùng một thằng ngốc không hả?” ông hỏi.
Bea cười lịch sự. “Cháu cũng bắt đầu nghĩ vậy đấy.” “Ngây thơ tột bậc! Cháu biết quy tắc chứ?”
Bea gật đầu. Isaac lẩm bẩm trong họng rồi để chúng tôi vào, đoạn lướt nhìn bóng đêm trên phố, như mọi lần. “Cháu đã đến thăm Nuria, con gái ông,” tôi nói với vẻ tự nhiên. “Chị ấy khỏe. Làm việc vất vả. nhưng vẫn khỏe. Chị ấy gửi lời hỏi thăm ông.”
“Ừ, và cả mủi tên tẩm độc nữa. Cậu bịa chuyện chẳng giỏi giang gì, Sempere ạ. Nhưng tôi đánh giá cao nỗ lực đó. Thôi vào đi.” Khi đã vào trong, Isaac đưa tôi cây nến và khóa cửa lại.
“Khi xong việc, cậu biết phải tìm tôi ở đâu.” Dưới màn đêm che phủ, chúng tôi chỉ nhìn thấy hình dạng ma quái của cái mê cung sách. Ngọn nến hắt bóng lập lòe dưới chân chúng tôi. Bea dừng lại, kinh ngạc trước lối vào mê cung. Tôi mỉm cười, nhận ra khuôn mặt nàng cũng biểu lộ cái vẻ y hệt mặt như cha tôi đã nhìn thấy ở tôi nhiều năm trước đây. Chúng tôi đi vào những đường dẫn và gian phòng của mê cung; chúng cọt kẹt dưới chân chúng tôi. Những dấu vết tôi đã tạo ra ở lần xâm nhập trước vẫn còn đây.
“Đi nào, anh muốn cho em xem cái này,” tôi nói. Không dưới một lần chúng tôi mất dấu và phải quay lại một đoạn để tìm dấu gần nhất. Bea nhìn tôi với vẻ cảnh giác xen lẫn thích thú. Chiếc la bàn sinh học của tôi mách rằng chúng tôi đang mắc kẹt trong một điểm nút của những vòng xoáy ốc từ từ tiến vào tâm mê cung. Cuối cùng tôi cũng tìm lại được dấu vết bước chân mình trong cái mớ hỗn độn những lối đi và ngách chui cho đến khi tôi vào một lối nhỏ trông có vẻ như là một khoảng hẹp giữa hai giá sách, vươn dài vào chốn thâm u. Tôi quỳ xuống cạnh giá sách cuối cùng và tìm người bạn cũ ẩn giấu đằng sau một dãy sách bụi phủ – dưới ánh nến, lớp bụi sáng lên như sương giá. Tôi lấy cuốn sách ra đưa cho Bea.
“Cho phép anh giới thiệu em với Julián Carax.” “Bóng hình của gió,” Bea đọc, mân mê những chữ cái nhạt nhòa trên bìa
“Em có thể lấy nó không?” nàng hỏi. “Em có thế lấy bất cứ cuốn nào trừ cuốn này.”
“Như thế không công bằng. Sau tất cả những gì anh kể, đây chính là cuốn em muốn.” “Có lẽ một ngày nào đấy. Nhưng không phải hôm nay.”
Tôi lấy lại cuốn sách từ tay nàng và để vào chỗ giấu. “Em sẽ quay lại lấy một mình mà anh chẳng biết đâu.”
“Cả ngàn năm nữa em cũng không tìm được.” “Đó là anh nghĩ thôi. Em đã thấy những dấu khắc của anh, và em cũng biết câu chuyện Minotaur.”
“Isaac sẽ không cho em vào.” “Anh nhầm rồi. Ông ấy quý em hơn quý anh đấy.”
“Sao em biết được?” “Em có thể đọc mắt người khác.”
Mặc dù không muốn, nhưng tôi tin lời nàng, nên tôi quay mặt đi. “Em chọn một cuốn khác nhé. Đây này, cuốn này có vẻ hứa hẹn. Lợn thiến Castile, Loài thú lạ: Đi tìm nguồn gốc thịt lợn Iberan, của tác giả Anselmo Torquemada. Anh dám chắc nó được bán nhiều hơn bất cứ cuốn sách nào của Julián Carax. Mỗi phần của con lợn đều có thể hữu ích.”
“Em thích cuốn này hơn.” “Nàng Tess nhà Urbervilles[1]. Đó là bản gốc đấy. Em cả gan đọc tác phẩm của Hardy bằng tiếng Anh cơ à?”
[1. Tess of the d’Urbervilles. Tác phẩm này của Thomas Hardy có hai bản dịch bằng tiếng Việt. Bản Trinh nữ, Nguyễn Quỳnh dịch và bản Người tình đầu tiên, người yêu cuối cùng, Nguyễn Đan Tâm dịch (theo sachxua.net).] Nàng lườm tôi.
“Vậy thì tất cả là của em đấy.” “Anh không thấy sao? Cảm giác như nó đang đợi em. Như thể nó đã ẩn nấp ở đây chờ em ngay cả trước khi em sinh ra.”
Tôi nhìn nàng kinh ngạc. Đôi môi Bea nở một nụ cười. “Em vừa nói gì nhỉ?” Và, không hề suy nghĩ, tôi vuốt khẽ đôi môi ấy, rồi hôn nàng.
 KHI CHÚNG TÔI về tới cửa nhà Bea thì đã qua nửa đêm. Chúng tôi đi hầu hết quãng đường mà không nói gì, không dám biến ý nghĩ của chúng tôi thành lời nói. Chúng tôi bước cách xa, lẩn tránh nhau. Bea đi trước với cuốn Tess kẹp trong tay, và tôi theo sau một bước, vẫn nhấm nháp vị đôi môi nàng. Cách Isaac nhìn tôi khi chúng tôi rời Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên vẫn còn trong tâm trí tôi. Đấy là cái nhìn tôi biết rõ và đã bắt gặp hàng ngàn lần ở cha tôi, một ánh nhìn như muốn hỏi tôi có hiểu chút xíu gì điều tôi đang làm hay không. Những giờ qua, tôi đã lạc trong một thế giới khác, một vũ trụ những đụng chạm vào ánh nhìn mà tôi không hiểu nổi, những đụng chạm và ánh nhìn đã xóa sạch cả lý trí lẫn ngượng ngùng. Bây giờ, quay trở lại chốn thực tại luôn rình rập chờ đợi trong bóng đen của khu phố Ensanche, cơn đam mê đã vơi đi, trong tôi chỉ còn lại một khao khát đau nhói và bồn chồn khó tả. Nhưng chỉ cần nhìn Bea là đủ để tôi nhận ra những ngờ vực của tôi chỉ như cơn gió thoảng so với bão tố đang vần vũ trong lòng nàng. Chúng tôi dừng trước cửa nhà nàng và nhìn nhau không cố làm điệu bộ. Một người gác đêm có giọng ngọt lừ đủng đỉnh bước về phía chúng tôi, vừa đi vừa âm ư một điệu bolero theo nhịp leng keng của chùm chìa khóa.
“Có lẽ em muốn chúng ta không tiếp tục gặp nhau nữa,” tôi ướm lời, không mấy tin tưởng. “Em không biết, Daniel ạ. Em không biết gì cả. Anh muốn vậy sao?”
“Không. Tất nhiên là anh muốn gặp em chứ. Còn em?” Nàng lắc đôi vai và mỉm cười yếu đuối. “Anh nghĩ sao?” nàng hỏi. “Lúc chiều ở sân trường, em đã nói dối anh.”
“Về điều gì?” “Về việc không muốn gặp anh hôm nay.”
Người gác đêm đứng đợi, mỉm cười với chúng tôi, rõ ràng chẳng mấy quan tâm đến lời thì thầm của chúng tôi trước cửa. Với ông ta, vốn đầy kinh nghiệm trước những chuyện như vậy, hẳn mấy lời đó chỉ là một mớ sáo rỗng tầm thường. “Đừng lo cho tôi, không có gì phải vội đâu,” ông ta nói. “Tôi sẽ lại đằng kia hút điếu thuốc, lúc nào xong thì cho tôi biết.”
Tôi chờ người bảo vệ đi khỏi. “Bao giờ anh được gặp lại em đây?”
“Em không biết, Daniel.” “Ngày mai nhé?”
“Thôi mà, Daniel. Em không biết.” Tôi gật đầu. Nàng vuốt mặt tôi. “Anh nên về đi.”
“Dù sao thì em cũng biết phải tìm anh ở đâu.” Nàng gật đầu.
“Anh sẽ đợi đấy.” “Em cũng vậy.”
Trong khi quay bước, tôi không thể rời mắt khỏi nàng. Người gác đêm, một chuyên gia trong những tình huống như thế này, đã sẵn sàng bước tới mở cửa cho nàng. “Đồ khôn lỏi,” ông ta rỉ tai khi bước qua, không phải là không thán phục. “Cô bé mới xinh đẹp làm sao chứ!”
Tôi đợi cho đến khi Bea vào trong tòa nhà rồi mới bước đi vội vã, mỗi bước một ngoái nhìn. Dần dần, tôi trở nên bị ám ảnh bởi niềm tin ngớ ngẩn rằng mọi thứ đều có thể, và dường như với tôi những con phố hoang vắng kia và cơn gió khắc nghiệt kia cũng dấy lên mùi hy vọng. Khi đến Quảng Trường Cataluna, tôi nhận ra một đàn bồ câu đã tụ tập ở trung tâm quảng trường. Chúng che phủ khoảng trung tâm bằng một tấm chăn lông vũ màu trắng hơi chút rung rinh. Tôi nghĩ sẽ tránh đường chúng nhưng lúc ấy tôi nhận ra đàn bồ câu rẽ đường để tôi đi qua chứ không bay lên. Tôi bước đi, trong khi những con bồ câu tẽ ra hai bên trước mặt tôi rồi khép vòng lại đằng sau. Khi vào giữa quảng trường, tôi nghe một hồi chuông nhà thờ vang lên trong đêm. Tôi dừng lại một lúc, bị mắc cạn giữa một đại dương những con chim óng ánh bạc, và nghĩ đây là ngày lạ lùng và kỳ diệu nhất trong đời mình..

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.