Búa Thiên Lôi

CHƯƠNG 1



Bốn Tuần
Priest kéo mũ cao bồi của hắn xuống trán rồi đảo mắt nhìn quanh bãi sa mạc bằng phẳng, lầy bụi của miền nam Texas. Những bụi cây lùn mầu xanh trải ra bạt ngàn tứ phía. Trước mặt hắn hai dấu bánh xe in sâu xuống bụi đất, cách nhau ba mét, làm thành một con đường chạy xuyên qua các đám cây. Trên một bên của con đường, cách quãng mỗi năm chục mét, một ngọn cờ nhỏ xíu bằng giấy nhựa đỏ chói phất phơ trên đầu một khúc dây kẽm. Một chiếc xe tải đang di chuyển chậm chậm trên con đường này.
Priest phải đánh cắp cho được chiếc xe này. Hắn đã một lần ăn cắp xe lúc hắn mới mười một tuổi, một chiếc Lincoln Continental mới, đời 1961, đậu bên ngoài rạp hát Roxy, ở Los Angeles, chìa khóa còn cắm trong ổ. Priest, hồi đó được người ta gọi là Ricky, khó lòng mà nhìn qua được vành trên của bánh tay lái, nhưng hắn cũng đã lái được chiếc xe ấy qua mười ngã tư đường phố, và hãnh diện trao chìa khóa cho thằng Mặt Heo Jimmy Riley. Từ đó Ricky trở thành một thành viên của băng Mặt Heo.
Nhưng chiếc xe này không hẳn là một xe tải. Trong lúc hắn dõi mắt quan sát, máy ở sau buồng lái hạ một tấm thép nặng, vuông mỗi chiều một mét tám, xuống đất. Sau một phút im lặng, hắn nghe thấy một thứ tiếng rền vang như tiếng sấm. Một đám mây bụi nổi lên chung quanh xe trong khi tấm bảng bắt đầu đập một loạt xuống đất theo một nhịp đều đặn. Priest thấy mặt đất rung chuyển dưới chân hắn. Đó là một địa chấn động cơ, một thứ máy làm ra những rung động mạnh, những chấn động. Những chấn động này sẽ lan truyền như những đợt sóng qua vỏ quả đất. Khi gặp đá hay chất lỏng trong lòng đất thì những làn sóng này dội ngược lại lên mặt đất, nơi đây chúng được ghi nhận bởi những máy nghe gọi là máy địa âm.
Priest là một công nhân trong toán địa âm. Họ đã đặt một ngàn máy địa âm thật đúng khoảng cách trong một mạng lưới rộng hai cây số vuông. Mỗi lần máy rung làm việc, các làn sóng phản hồi được tiếp nhận bởi tất cả các máy địa âm, và được ghi trên giấy bởi một viên giám thị ngồi trong toa xe phụ mà mọi người trong toán gọi là chuồng chó. Những dữ kiện này sẽ được đưa vào một máy siêu vi tính tại Houston để làm ra một bản đồ ba chiều về những gì đã được thấy ở dưới mặt đất. Bản đồ này sẽ được bán cho một công ty dầu hỏa.
Máy rung chợt rú cao rồi im bặt. Priest chạy đến chỗ xe tải, mở cửa xe và leo vào phòng lái. Một gã tóc đen, phục phịch, khoảng ba mươi tuổi, ngồi sau tay lái.
Priest vừa trượt người ngồi vào chỗ bên cạnh vừa nói:
– Chào anh Mario.
– Chào anh Ricky.
Richard Granger là tên của Priest ghi trên bằng lái xe thương mại (hạng B) của hắn. Bằng lái xe là giả, nhưng tên là thật.
Hắn cầm một tút Marlboros, loại thuốc mà Mario ưa hút, liệng lên trên bàn máy và nói:
– Cái này cho anh.
– Ê, bạn đâu cần phải mua thuốc lá cho tôi.
– Tôi chỉ thích hút ké thuốc của người ta thôi.
Priest cầm lấy tút thuốc đã được mở sẵn trên bàn máy, lấy ra một điếu để vào miệng.
Mario cười:
– Sao cậu không mua lấy thuốc mà hút?
– Tôi không có tiền mua.
Mario cười lớn:
– Cậu thật là một thằng khùng.
Priest đốt điếu thuốc của hắn. Hắn có biệt tài làm cho người ta ưa thích hắn. Hắn sinh sống và lớn lên nơi đầu đường xó chợ. Ở nơi đó người nào không được ưa thích thường hay bị ăn đòn, nên hắn tự tạo ra một bản tánh bén nhậy đối với những gì người ta đòi hỏi nơi hắn, sự nể vì, mến mộ, hay tính hài hước. Trong đám người làm công tác kiếm mỏ dầu này thì hắn thấy những câu nói hài hước là dễ gây cảm tình nhất.
Mặc dù hắn mới ở đây có hai tuần, Priest đã chiếm được lòng tín nhiệm của các người đồng sự, nhưng hắn chưa nghĩ ra được phương sách nào để lấy được chiếc địa-chấn-xa. Hắn cần phải hoàn tất việc này trong vòng vài giờ tới đây, bởi vì ngày mai là chiếc xe ấy phải được điều đi nơi khác cách đây cả ngàn cây số, gần Clovis, New Mexico. Một kế hoạch lờ mờ hiện ra trong đầu hắn là phải gạ Mario cho đi cùng một chuyến. Tới một nơi nào đó hắn phải chuốc rượu cho Mario say mềm, hay làm một cách gì khác, rồi cướp chiếc xe đi.
Priest nói:
– Xe của tôi bị trục trặc. Ngày mai anh có thể cho tôi quá giang đến San Antonio được không?
Mario ngạc nhiên:
– Cậu không tới Clovis à?
– Không. Texas đẹp quá. Tôi không muốn đi đâu nữa.
Theo nội quy của công ty thì tài xế không được phép chở thêm một hành khách nào. Nhưng có tài xế nào theo đúng nội quy đâu.
Mario nhún vai:
– Được. Tôi cho cậu quá giang. Cậu chờ tôi ở chỗ bãi rác, lúc sáu giờ.
Priest gật đầu. Bãi rác là một vũng đất hoang vắng ở ngoại ô Shiloh, thành phố gần đó.
Priest rất cần chiếc xe này. Hắn muốn tóm lấy cổ Mario ngay bây giờ, liệng nó ra ngoài và lái xe đi ngay, nhưng như thế không ổn. Vụ trộm xe này cần phải được giữ kín trong vài ngày nữa. Priest sẽ phải lái xe ấy tới California và cất giấu nó trước khi cảnh sát quốc gia được báo động để sục tìm chiếc địa-chấn-xa.
Radio kêu một tiếng bíp, cho biết rằng viên giám thị trong chuồng chó đã rà xét các dữ kiện của vụ rung chuyển vừa qua và đã không thấy có vấn đề gì. Mario nâng tấm bửng lên, gài số xe và cho xe chạy tới lá cờ đỏ kế tiếp. Rồi hắn lại hạ tấm bửng xuống và làm dấu hiệu đã sẵn sàng. Priest theo dõi kỹ từng động tác của Mario để ghi nhớ trong đầu tuần tự tiến triển của việc kéo các cần điều khiển máy và bấm các nút điện. Nếu sau này hắn quên chi tiết nào thì không có ai để cho hắn hỏi được.
Chúng đợi chuồng chó ra hiệu bắt đầu cho máy rung. Tài xế trong xe tải có thể tự làm việc này, nhưng thường thì các viên giám thị đích thân ra lệnh cho máy làm việc bằng máy viễn khiển.
Mario hất đầu về phía xe hơi của Priest đậu cách đó chừng ba trăm mét, trên đường nhựa:
– Người đàn bà của cậu đấy hả?
Priest nhìn theo. Star đã ra khỏi chiếc Honda Civic bụi đất bám nham nhở, mầu xanh dương nhạt, và đứng tựa vào đầu xe.
– Phải.
– Để tôi cho cậu xem cái này.
Mario lấy từ trong ví ra một tấm hình và đưa cho Priest.
– Đây là Isabella.
Priest thấy một cô gái người Mễ, khoảng 24, 25 tuổi, bồng một em bé trên hông, và một bé trai tóc đen đứng cạnh.
– Các con của anh hả?
Mario gật đầu.
– Mấy đứa nhỏ kháu khỉnh quá. Chúng hiện ở đâu?
– El Paso.
Một ý kiến lóe trong đầu Priest.
– Anh có đi thăm chúng thường không?
Mario lắc đầu:
– Tôi phải làm việc tối ngày để dành tiền mua cho chúng một căn nhà tươm tất.
Radio lại bíp một tiếng nữa, và xe bắt đầu rung chuyển. Tiếng ồn nghe như tiếng sấm rền. Nó bắt đầu bằng một âm thanh thật trầm, rồi lên cao dần. Sau đúng 14 giây nó tắt. Trong lúc vắng lặng sau đó Priest nói:
– Này, tôi có một ý kiến.
– Ý kiến gì?
– Tôi nghĩ thế này: vợ anh thật là đẹp, và các con anh thật là xinh. Thật là một sự đáng tiếc nếu anh không đi thăm họ. Tôi có thể lái xe này đi New Mexico trong khi anh đi thăm vợ con anh.
– Không thể được.
– Thế này nhá. Ngày mai, nếu chúng mình đi thật sớm, và cùng lái xe đi Antonio, tôi có thể thả anh xuống phi trường ở đấy. Tới buổi trưa là anh đã có thể ở El Paso rồi. Anh sẽ chơi với hai đứa nhỏ, ăn cơm tối với vợ anh, ngủ một đêm ở nhà, rồi lên máy bay ngày hôm sau. Tôi sẽ đón anh ở phi trường Lubbock. Từ Lubbock đến Clovis bao xa?
– Chừng 150 cây số.
– Chúng ta có thể đến Clovis đêm hôm đó, hay trễ nhất là sáng hôm sau. Không ai có thể biết là anh đã không lái xe suốt con đường.
– Nhưng cậu muốn đi San Antonio mà.
– Tôi chưa bao giờ đến Lubbock. Tôi muốn đến đấy để được biết thêm một thành phố.
– Thế cậu lái xe suốt con đường ấy chỉ là để giúp tôi à?
– Chắc chắn là như vậy, chừng nào anh còn để tôi hút thuốc Marlboros của anh.
Mario lắc đầu:
– Cậu là một thằng bạn tốt. Nhưng tôi chưa dám quyết định. Tôi không muốn mất chỗ làm.
– Anh cứ nghĩ kỹ đi. Tối nay anh có đến quán rượu không?
– Đó là cái chắc.
– Vậy thì lúc đó anh sẽ cho tôi biết quyết định của anh.
– Được.
– Bây giờ tôi phải về chỗ làm việc.
Priest trả tấm hình lại cho Mario và nói:
– Tôi nói thật cho anh biết, nếu tôi có người vợ đẹp như thế này thì không bao giờ tôi bỏ nhà đi đâu hết.
Priest cười, rồi nhẩy xuống đất và đóng sập cửa xe. Hắn đi về phía Star đang đứng.
Star đã có một thời kỳ nổi tiếng, ngắn ngủi thôi. Trong thời Híp-pi nàng sống ở xóm Haight Ashbury, San Francisco. Lúc đó Priest chưa quen nàng, nhưng hắn đã biết rõ về nàng. Hồi đó Star là một kiều nữ, cao, tóc đen, với một thân hình tròn trịa, thắt đáy lưng ong. Nàng đã đọc thơ thâu vào đĩa trên một nền nhạc kích động của một ban nhạc tên là Raining Fresh Daisies. Đĩa thơ nhạc của nàng đã được tiếp đón khá nồng nhiệt, và Star đã được nổi danh ít lâu.
Thời oanh liệt ấy đã qua lâu rồi. Bây giờ Star sắp ăn sinh nhật thứ 50 của nàng, và tóc nàng đã điểm hoa râm rồi. Thân hình của nàng không còn thắt đáy lưng ong nữa. Trọng lượng của nàng là 67 ký, nhưng nàng vẫn còn sức hấp dẫn mạnh. Ngay lúc này, tuy nàng đang lo lắng và nóng nực, khi nàng đi tới đi lui cạnh chiếc xe hơi cũ, dáng đi của nàng vẫn còn uyển chuyển khêu gợi lắm.
– Thế nào, có tin gì mới? Nàng hỏi trước khi Priest tới gần.
– Tình hình lạc quan.
Priest kể cho nàng những gì hắn đã đề nghị với Mario. Và hắn nói tiếp:
– Cái hay là Mario sẽ bị khiển trách.
– Tại sao?
– Em thử nghĩ xem. Nó đến Lubbock. Nó kiếm không thấy anh, nó không thấy cả xe tải của nó nữa. Liệu nó có đến Clovis thưa với chủ là nó đã để mất xe của công ty không? May lắm thì nó sẽ bị đuổi. Rủi thì nó sẽ bị tố là chính nó đã ăn cắp xe. Anh dám chắc là nó sẽ không tới Clovis. Nó sẽ bay trở về El Paso và lặn luôn. Rồi thì cảnh sát sẽ tin chắc là nó đã ăn cắp xe, và Richard Granger sẽ không bị nghi ngờ gì hết.
– Đó là một kế thật hay, nhưng nó có cắn câu không?
– Anh nghĩ là nó sẽ cắn.
Star ngả người tựa lại vào xe:
– Em cầu mong là em đã nghĩ đúng.
Priest vỗ má nàng:
– Có muốn đi một cuốc xe không, thưa bà?
– Dạ, muốn. Xin ông đưa tôi về phòng khách sạn có máy lạnh của tôi.
– Vậy là bà phải trả giá đấy.
Star tròn mắt làm bộ ngây thơ:
– Tôi có phải làm cái gì ác ôn không, thưa ông?
Priest luồn tay vào bên trong ngực áo của nàng:
– Hẳn là phải có chứ.
– Á, đồ quỷ!
 
Mối lo sợ của họ đã tới chỗ tuyệt vọng từ ba tuần trước. Họ đang ngồi quanh bàn ăn trong nhà bếp, ăn bữa ăn trưa, thì Paul Beale bước vào, tay cầm một phong bì. Paul là người phụ trách đóng rượu nho vào chai, sản phẩm của nhóm Priest, và cũng là sợi dây liên lạc của nhóm với bên ngoài. Hắn là bạn của Priest từ khi hai người còn là hai đứa bụi đời mười bốn tuổi.
Priest đã đoán được trong thư nói gì rồi, nhưng hắn đợi Paul giải thích.
– Đây là của Phòng Quản Lý Điền Địa. Gởi cho Stella Higgins.
Nói xong Paul trao bì thư cho Star. Stella Higgins là tên thật của Star. Nàng đã dùng tên này khi thuê miếng đất này lần đầu với Bộ Nội Vụ, năm 1969.
Chung quanh bàn ăn, mọi người đều im lặng. Ngay cả những đứa trẻ nhỏ cũng im bặt.
Star xé mở phong bì và lấy ra một tờ giấy. Nàng lướt mắt nhanh trên tờ giấy và nói:
– Ngày bẩy tháng sáu.
Priest nói:
– Năm tuần và hai ngày, tính từ hôm nay.
Nhiều người rên rỉ vì thất vọng. Một người đàn bà tên Song khóc thút thít.
Priest bắt gặp ánh mắt của Melanie, người mới gia nhập nhóm. Nàng có thân hình cao, 28 tuổi, tóc đỏ, dài, khổ người của một người mẫu. Đứa con trai năm tuổi của nàng, Dusty, ngồi cạnh nàng. Melanie hỏi:
– Chuyện gì thế?
Mọi người đều biết là chuyện gì rồi, trừ Melanie.
Priest nói:
– Tụi mình phải rời khỏi chỗ này. Tôi xin lỗi Melanie.
Star đọc thư:
– Lô đất nói trên sẽ trở nên nguy hiểm cho các người cư ngụ trên đó sau ngày bẩy tháng sáu. Bởi vậy nên sự thuê mướn của bà sẽ được chấm dứt vào ngày đó.
Melanie đứng bật dậy, gương mặt xinh đẹp của nàng trở nên dữ tợn vì tức giận. Nàng hét lên:
– Không, không, họ không thể đối xử như thế với tôi được. Tôi chỉ mới được gặp các người thôi mà. Tôi không tin đó là sự thật.
Đứa con của nàng bật khóc. Mọi người la ó. Priest bước nhanh hai bước dài đến bên Melanie, quàng một tay quanh lưng nàng và êm giọng nói:
– Em đang làm cho Dusty sợ kìa.
Melanie nói:
– Anh hãy nói đó không phải là sự thật đi.
Priest dịu dàng đẩy nàng ngồi xuống ghế:
– Đó là sự thật, không phải chuyện đùa đâu.
Khi mọi người đã nguôi cơn giận, Priest nói:
– Nào, bà con, chúng mình hãy đi rửa chén đĩa, rồi trở lại làm việc.
Dale, người phụ trách làm rượu nho, nói:
– Tại sao? Lúc hái được nho, mình còn ở đây nữa đâu. Mình phải rời khỏi nơi đây trong vòng năm tuần. Tại sao còn phải làm việc?
Sau Priest và Star, Dale là một nhân vật quan trong nhất trong nhóm. Priest trừng mắt nhìn hắn. Ánh mắt của Priest có một mãnh lực làm cho người ta phải nể. Hắn chờ cho mọi người lắng yên rồi mới nói:
– Bởi vì sẽ có phép lạ xảy ra.
 
Priest đi một mình đến tiệm rượu Doodlebug. Ở đấy có bia hơi rẻ tiền, một ban nhạc đồng quê viễn tây, và những cô hầu bàn mặc quần jeans xanh chật căng, đi ủng cao-bồi. Hắn không cho Star đến đấy, sợ người ta sẽ nhớ được mặt nàng sau này. Hắn cũng không muốn để Star đi Texas, nhưng hắn cần có người giúp để lái chiếc địa-chấn-xa về nhà. Hắn đã thay đổi bề ngoài của hắn trước khi đến Shiloh. Hắn đã để một chòm râu rậm dưới cằm, tóc dài kết đuôi sam quấn trong mũ.
Khi hắn đến Doodlebug, Mario đã ở đấy rồi, ngồi ở một bàn cùng với năm hay sáu người nữa trong toán địa âm, và ông trưởng toán, Lenny Petersen. Ông này là xếp của toàn thể nhân viên dò thám địa chấn. Priest lấy một chai bia và nhập bọn Mario.
Lenny hói đầu, có một cái mũi đỏ. Ông đã nhận Priest vào làm việc hai tuần trước. Sau khi Priest ngồi vào bàn, ông chậm rãi nói:
– Ricky, vậy là anh không thích đi Clovis với chúng tôi?
– Dạ, không đi. Tôi thích khí hậu ở đây lắm.
– Tôi phải nói thật với anh rằng tôi rất lấy làm hãnh diện và sung sướng được biết anh, dù là chỉ trong một thời gian ngắn ngủi.
Mọi người đều cười vì câu nói đùa của ông chủ. Priest cũng làm mặt nghiêm chỉnh nói:
– Thưa xếp, ông là một người dễ mến. Tôi muốn được ở kế cận ông suốt đời.
Mọi người cười đùa vui vẻ. Câu chuyện xoay quanh những trận baseball. Priest không hứng thú về thể thao nên hắn nán đợi, thỉnh thoảng chêm vào vài câu phê bình chung chung.
Sau một tiếng đồng hồ, Mario đi vào phòng vê sinh. Priest theo sau. Hắn đến gần Mario và nói:
– Này, tôi phải đi bây giờ. Nàng đang chờ tôi ở phòng trọ.
Mario cười:
– Tôi có trông thấy cậu và cô ấy chiều nay.
Priest lắc đầu ra vẻ ân hận:
– Nàng là yếu điểm của tôi. Thật tình, tôi không thể nói không với một người đẹp.
Mario nói:
– Bây giờ nói chuyện ngày mai… – Priest nín thở nghe – nếu cậu muốn thì chúng ta cứ làm như thế. Cậu còn muốn không?
– Chắc chắn là còn muốn chứ. Có bạn để làm gì?
Priest quàng tay qua vai Mario và cùng Mario rời phòng vệ sinh.
Mario nói:
– Cảm ơn cậu. Thật là ít có người như cậu, Ricky à.
 
Trời hãy còn tối khi Priest và Star thức dậy buổi sáng Thứ Bảy tại Shiloh. Priest mua cà phê ở tiệm bên cạnh và đem về phòng ngủ. Lúc hắn trở về, Star đang chăm chú nhìn vào một bản đồ chỉ dẫn đường đi. Star nói:
– Anh sẽ cho Mario xuống phi trường San Antonio vào khoảng 9g30 sáng nay. Rồi anh sẽ lấy đường liên bang số 10.
Priest không thèm nhìn bản đồ, vì hắn không biết coi bản đồ. Hắn có thể theo những bảng chỉ dẫn ở dọc đường để vào I-10. Priest nói:
– Chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu?
Star tính toán:
– Em sẽ đi trước anh chừng một tiếng đồng hồ. Có một nơi gọi là Leon Springs trên I-10, cách phi trường khoảng 20 cây số. Em sẽ đậu xe ở một chỗ nào đó, nơi mà anh dễ trông thấy.
– Tốt.
– Chúng mình sẽ làm gì với cái Honda?
Priest đã mua chiếc Honda này ba tuần trước với giá một ngàn Đôla, trả tiền mặt. Hắn nói:
– Mình sẽ kiếm một chỗ nào có nhiều cây cối gần xa-lộ rồi vứt xe ở đó.
– Mình có thể phí phạm thế sao?
– Tiền làm cho người ta nghèo.
Priest nhắc lại một trong năm câu nghịch lý của một ông thầy Ấn Độ sống gần nơi bọn Priest ở.
Priest biết rõ bọn hắn có bao nhiêu tiền, rõ đến từng xu, nhưng hắn giấu không cho ai biết. Hầu hết các nguời trong nhóm không biết ngay cả đến cái trương mục ngân hàng mà họ đã có. Và không một ai biết được số tiền sinh tử của Priest, mười ngàn đôla, toàn giấy 20 đồng, giấu trong một chiếc ghi-ta cũ để trong phòng của hắn.
Star nhún vai:
– Em đã không còn lo đến tiền trong 25 năm nay, nên bây giờ em đâu có lo.
Nàng gỡ cặp kính đeo mắt xuống và nhìn xéo Priest:
– Anh có tính đi gặp Melanie không?
Priest và Melanie đã là một cặp tình nhân. Hắn cầm tay của Star và nói:
– Có. Em không buồn vì Melanie chứ?
Star nhắc lại một câu nghịch lý khác:
– Hôn nhân là một sự phản bội tệ hại nhất.
Priest gật đầu. Cả hai không ai đòi hỏi đối phương phải thủy chung, nhưng trong vòng mấy năm nay, tuy họ vẫn thỏa thuận chính sách tự do luyến ái, chưa ai phản bội ai. Vậy nên Melanie đã như một đòn đánh vào tim Star, nhưng nàng ráng chịu.
Nàng nói:
– Em không biết rồi con Flower sẽ nghĩ sao về vụ này.
Flower là con gái của hai người, 13 tuổi, đứa trẻ lớn nhất trong đám trẻ con của nhóm.
Priest nói:
– Nó đã không lớn lên trong một gia đình thuần túy chỉ có cha mẹ và con cái. Nó là cái đinh của cả nhóm.
Star gật đầu:
– Phải rồi. Nhưng em không muốn con nó mất anh.
Priest đập đập vào tay Star:
– Không có chuyện đó đâu.
Star nắm mấy ngón tay của Priest nói:
– Cám ơn.
Priest nói:
– Ta đi thôi. Mấy vật dụng cần thiết của hai người đã để trong ba cái bao giấy nhựa trước đây đã dùng để đựng thực phẩm mua ở chợ. Priest đem các bao ấy ra để vào trong xe Honda. Star theo sau. Họ đã trả tiền phòng đêm hôm trước. Giờ này văn phòng còn đóng cửa, và không có ai trông thấy hai người. Star lái xe. Priest ngồi cạnh.
Họ đến chỗ đổ rác vài phút trước sáu giờ. Không thấy có Mario hay chiếc địa-chấn-xa ở đấy.
Priest hôn Star và nói:
– Mario sẽ tới đây trong vài giây nữa. Em sẽ ở xa ba bốn cây số khi hắn tới đây.
Priest xuống xe. Star vòng xe quay lại và vọt đi thật lẹ. Priest nhìn quanh. Hắn ngạc nhiên thấy rằng sao một thành phố nhỏ thế này lại có nhiều rác đến thế. Thôi thì ngổn ngang đủ thứ: xe đạp cong queo, xe đẩy trẻ nhỏ, tủ lạnh, thùng giấy cứng, giấy nhôm, bao giấy nhựa. Tại Silver River Valley không bao giờ có nhiều rác như vậy. Dân ở đó không có xe đẩy trẻ con hay tủ lạnh, và ít khi họ mua cái gì phải đựng bằng thùng hay bao. Một vật bằng kim khí lấp lánh dưới chân hắn. Hắn lượm vật ấy lên. Đó là một cái lắc-lê lớn, thật nặng.
Priest nghe tiếng xe tới. Hắn buông cái lắc-lê xuống. Một chiếc Pickup mầu nâu nhạt đang chạy tới, mũi xe nhẩy lên chồm chồm vì đường xóc. Xe của Mario. Thế là thế nào? Đáng lẽ Mario phải đến với chiếc địa-chấn-xa cơ mà.
Xe chạy tới, dừng lại, và Mario xuống xe. Hắn buồn rầu lắc đầu nói:
– Ricky à, tôi không thể làm như vậy. Tôi phải nói không.
Priest nghiến răng, nhưng cố làm cho giọng nói được bình thường:
– Cái gì đã xẩy ra khiến anh phải thay đổi ý kiến hả, anh bạn?
– Sau khi rời khỏi quán rượu tối qua, xếp Lenny đã nói rất nhiều với tôi. Ông nói rằng chiếc xe tải đó mắc tiền lắm, rằng tôi không được chở ai, không được cho ai quá giang, rằng ông hết lòng tin tưởng nơi tôi và tài năng của tôi. Việc làm này tốt quá, tôi không muốn mất nó.
Priest cố giữ vẻ bình thản nói:
– Vậy thì cũng được. Tôi còn đi với anh được tới San Antonio mà.
– Không được đâu, cậu ơi. Tôi không thể làm trái lời ông chủ. Bởi vậy nên tôi mới phải đem chiếc xe riêng của tôi tới đây để đưa cậu về thành phố. Vậy cậu có muốn đi không?
Priest đã qua hai tuần ở nơi sa-mạc nóng nực, bụi bậm này, làm một việc tồi tàn, không xứng đáng gì, và đã tiêu phí mất mấy trăm đôla vào tiền máy bay và thuê phòng trọ. Hắn không thể làm như thế được nữa. Hắn chỉ còn có hai tuần và một ngày nữa để lo cho xong việc của nhóm thôi.
Mario nhăn mặt:
– Cậu có nghe tôi nói không? Nào, lại đây, chúng ta đi thôi. Cậu không muốn đi xe trở về thành à?
Priest nói:
– Có, có, có. Phải đi xe trở về chứ.
Mario quay đi, và cặp mắt của Priest lại bắt gặp cái lắc-lê hắn đã bỏ xuống đất mấy phút trước. Một ý nghĩ mới lóe trong đầu hắn.
Trong lúc Mario đi về phía xe, Priest cúi xuống lượm cái lắc-lê lên. Hắn nhìn qua Mario dọc theo con đường đất dẫn ra đường cái. Không một bóng người.
Priest bước về phía trước một bước trong khi Mario thò tay mở cửa xe. Trong một thoáng trong đầu Priest hiện ra hình một người đàn bà trẻ đẹp với một em bé trên tay và một đứa nhỏ nữa bên cạnh, và lòng hắn chùng xuống. Nhưng một quang cảnh khác đồng thời cũng hiện ra trong đầu hắn: một hồ nước đen ngòm từ từ dâng lên tràn ngập ruộng nho, và làm chết đuối đám người đàn ông, đàn bà, và trẻ con đang chăm sóc những luống nho. Priest chạy về phía Mario, tay giơ cao cái lắc-lê. Hình như Mario đã nhìn thấy cái gì qua khóe mắt của hắn, vì bất chợt hắn thốt lên một tiếng sợ hãi, và bung mở cửa xe ra. Priest đâm xầm vào cửa xe, và cánh cửa xe lại bật trở lại vào người Mario, đánh vào sườn hắn. Cả hai cùng bị hụt chân. Mario khụyu chân xuống. Mũ hắn bay xuống đất. Priest ngã bật trở lại, lắc-lê rời khỏi tay, rơi vào một vỏ chai Coca bằng nhựa hai lít, và nẩy ra xa chừng một mét.
Mario thở hồng hộc:
– Mày điên rồi…
Hắn chống một đầu gối lên và vươn tay kiếm một chỗ nắm để tự kéo mình lên. Bàn tay hắn nắm được một cạnh của khuôn cửa xe. Priest lúc đó đang ngồi bệt trên mặt đất, co một chân đạp mạnh vào cánh cửa. Cửa xe đập mạnh vào các ngón tay của Mario rồi bật ngược trở ra. Mario gào lên một tiếng đau đớn, và ngã gục xuống cạnh chiếc pickup.
Priest đứng bật lên, lượm cái lắc-lê, bước tới gần Mario và giơ cao lắc-lê.
Mario quay nửa người về phía Priest. Vẻ mặt của hắn bộc lộ một sự sợ hãi tột độ. Trong lúc Priest đánh lắc-lê xuống, Mario kêu:
– Ricky? Đầu lắc-lê đánh một tiếng phụp vào đầu Mario. Priest cứ thế đánh mãi. Da đầu Mario rách nát, xương sọ vỡ tung. Thân Mario từ từ sụm nghiêng xuống cho đến khi đầu hắn chạm đất.
Priest qùy hai gối và nhắm mắt nói:
– Lậy Chúa tối cao, xin Ngài tha tội cho con.
Rồi hắn cứ qùy như thế, người run lập cập. Để cho tâm hồn được lắng yên, hắn lẩm bẩm cầu kinh. Sau một lúc hắn lấy lại được bình tĩnh và đứng lên. Hắn không còn thấy ân hận gì nữa. Hắn lượm mũ cao bồi của hắn lên, phủi sạch bụi và đội lên đầu.
Hắn lấy một cái vặn đinh vít từ thùng đồ nghề của xe pickup, và dùng nó để tháo hai cái bảng số xe. Hắn đi băng qua bãi rác và chôn chúng vào trong một đống rác lớn. Rồi hắn cúi xuống xác chết. Với bàn tay phải, hắn nắm lấy dây lưng của Mario. Với bàn tay trái hắn túm lấy áo sơ mi kẻ ô vuông của Mario, và nghiến răng nhấc cái xác nặng lên khỏi mặt đất. Cửa xe pickup vẫn mở rộng. Priest lấy đà liệng xác Mario vào trong buồng lái, rồi hắn ném cái lắc-lê vào theo. Hắn giật cái ống nhựa dẻo dùng để phun nước vào tấm kính chắn gió. Với ống nhựa ấy, hắn hút xăng từ bầu chứa xăng vào đầy chai nhựa Cola hai lít, rồi tưới xăng vào xác chết. Hắn lại hút một chai xăng nữa và tưới khắp bên trong buồng lái.
Priest trông thấy mũ của Mario nằm trên mặt đất. Hắn lượm nó lên và liệng nó vào trong xe cùng với xác chết. Hắn lấy từ trong túi quần ra một hộp diêm, rút một que, quẹt lửa, rồi dùng ngọn lửa ấy để đốt tất cả các que diêm khác. Hắn ném tất cả que diêm đang cháy vào trong buồng lái của chiếc pickup, rồi chạy vội ra xa. Một đám lửa lớn phừng cháy, và chỉ trong một giây tất cả bên trong buồng lái đã biến thành một lò lửa. Rồi có một tiếng nổ lớn khi lửa bén tới bầu chứa xăng.
Priest quay lưng rảo bước đi về thành phố.
 
Nơi cư ngụ của nhóm Priest gọi là Silver River Valley. Trong mùa đông 1972-73 một trận bão tuyết lớn kéo dài làm cho nhóm Priest bị đứt liên lạc với bên ngoài trong suốt ba tuần lễ. Thực phẩm bị thiếu hụt nên mọi người không còn gì để ăn ngoại trừ một thứ gạo mầu nâu nấu với nước tuyết tan. Nhiều người đã bị chết trong đợt bão tuyết này. Chỉ có bẩy người sống sót còn lại.
Ngày bức thư tới. Bọn Priest thức khuya, ngồi trong nhà ăn.
Song, một cô gái lìa bỏ gia đình năm 1972, đánh đàn ghi-ta. Star hát theo với một giọng trầm nhừa nhựa. Nàng có một giọng ca gợi tình nhất thế giới.
Melanie, người mới nhập bọn, còn khóc thút thít. Nàng nói:
– Tôi mới tới đây mà.
Priest nói:
– Chúng ta chưa chịu đầu hàng đâu. Phải có một cách nào để buộc ông Thống-Đốc tiểu bang California thay đổi ý kiến.
Oaktree, thợ mộc, một gã da đen lực lưỡng, cùng tuổi với Priest, nói:
– Làm một quả bom nguyên tử không khó lắm đâu. Mình sẽ hăm ông Thống-Đốc. Nếu họ không làm theo ý chúng ta, chúng ta dọa sẽ cho nổ Sacramento.
Oaktree trước là một lính hải quân. Hắn đã đào ngũ sau khi giết một sĩ quan trong một buổi tập, và đến nhập bọn Priest từ khi đó.
Aneth, một phụ nữ bốn mươi tuổi ngoài, vẻ người hiền hậu, nói:
– Không, anh không thể cứu nhân loại bằng một quả bom được.
Star ngưng hát, nói:
– Tôi đã không còn nghĩ đến việc cứu nhân loại từ năm 1969. Cái tôi muốn cứu bây giờ là chỗ này, những gì mà chúng ta đang có ở đây, đời sống của chúng ta, để cho con cái chúng ta có thể lớn lên trong sự yên bình và tình thương.
Aneth nói:
– Ta có thể bắt cóc một nhân vật nào đó.
Priest gật đầu. Ý kiến này có thể dùng được, nhưng hắn vẫn thấy có cái gì bất ổn. Hắn nói:
– Thí dụ có một ông to đầu nào bị bắt cóc. Rồi sao? Nếu chúng ta làm cho người ta sợ, chúng ta sẽ không còn được tự nhiên đi tới đi lui.
Melanie nói:
– Các người có biết không? Ở California có tới mươi mười lăm chỗ mà những vết nứt trong vỏ quả đất đang chịu một sức ép rất mạnh, mạnh đến nỗi chỉ khẽ đụng một cái là các địa tầng đã nhúc nhích, và rồi thì “bùm”!
Oaktree nói:
– Này, nhỏ Melanie, cô nói cái gì thế?
Melanie nói:
– Tôi nói về động đất. Bỏ bắt cóc đi. Bỏ bom nguyên tử đi. Tại sao ta không hăm dọa ông Thống-Đốc bằng một vụ động đất?
Priest nói:
– Không ai có thể tạo nên một vụ động đất, Phải có một năng lượng ghê gớm lắm mới có thể làm cho đất chuyển động được.
– Anh lầm rồi. Chỉ cần một chút xíu năng lực thôi, nếu lực ấy được đặt vào đúng chỗ cần thiết.
Oaktree nói:
– Làm sao cô biết được như vậy?
– Tôi đã học về khoa này. Tôi đã có bằng cao học về địa-chấn-học. Đáng lẽ bây giờ tôi phải là giáo sư dậy ở một trường đại học, nhưng vì tôi đã lấy ông giáo sư dậy tôi thành ra sự nghiệp của tôi bị hỏng. Tôi đã không đậu được bằng Tiến-Sĩ.
Giọng nàng trở nên chua chát. Priest đã nói với nàng về vấn đề này. Và hắn biết rằng nàng đang ôm một mối hận sâu xa. Chồng nàng là một thành viên trong ủy ban đã đánh hỏng nàng. Priest đoán là nàng học chưa đủ tốt để lấy được bằng tiến sĩ, nhưng hắn lại nói rằng các ông trong ủy ban đã ghen ghét nàng vì sắc đẹp và khối óc thông minh của nàng nên họ đã rắp tâm đánh hỏng nàng. Melanie tin là Priest nói đúng nên đã yêu hắn.
Melanie nói tiếp:
Ông chồng cũ của tôi đã triển khai lý thuyết “Sự đột phát động đất vì ngoại lực”. Trên suốt chiều dài của vết nứt, áp lực ở hai bên vết nứt cứ tăng dần lên đều đều trong nhiều chục năm rồi. Nay chỉ cần một sự rung động nhẹ trong vỏ quả đất là đủ làm cho các địa tầng phải xê dịch, phát xuất năng lượng, và gây nên động đất.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.