Búa Thiên Lôi

CHƯƠNG 3



Vậy thì chúng là ai?
– Không biết. Bọn này lạ lắm. Chúng dùng phương pháp đe dọa thật mới mẻ, chưa hề xẩy ra từ trước tới nay.
– Vậy là chúng ta chẳng biết gì về chúng sao?
– Cũng biết ít nhiều. Chúng sống ở California.
– Tại sao anh biết?
– Thông điệp viết gởi cho “Ông Thống Đốc tiểu bang”. Nếu chúng ở một tiểu bang khác thì chúng sẽ viết gởi cho “Ông Thống Đốc tiểu bang California”.
– Còn gì nữa?
– Chúng là người Mỹ. Trong ngôn ngữ của chúng không có gì chứng tỏ chúng là một nhóm thuộc dân tộc nào khác.
– Anh đã bỏ sót một điều: chúng là một bọn khùng.
Simon lắc đầu:
– Chúng tỉnh táo, nghiêm chỉnh, và có chủ đích. Như vậy có nghĩa là chúng rất nguy hiểm.
Chàng đứng dậy, nói tiếp:
– Tôi mệt quá rồi. Cô có muốn ra ngoài uống ly bia không?
– Không. Cảm ơn anh về tờ báo cáo. Anh là số dách.
– Chào cô.
Bây giờ Judy đã thấy rõ là Simon muốn thuyết phục nàng bỏ ý định từ chức. Kincaid có thể nghĩ là vụ này nhỏ nhoi, không đáng quan tâm, nhưng Simon đã cho nàng biết rằng Búa Thiên Lôi có thể là một bọn đáng sợ, nàng phải tìm cách chặn chúng lại, không cho chúng hành động. Nếu nàng thành công trong vụ này thì bọn Kincaid hết khinh thường nàng.
Judy nhìn vào màn hình của máy điện toán. Nàng đã viết: “Kính gởi ông Giám Đốc. Tôi viết đơn này để xác nhận lời xin thôi việc của tôi.” Sau khi đã xóa giòng chữ ấy đi, Judy viết lại: “Tôi thành thực xin lỗi ông vì sự lỗ mãng của tôi…..”
 
Mặt trời sáng Thứ Ba đang chiếu xuống xa lộ I-80. Chiếc Plymouth Cuda 1971 của Priest đang chạy về hướng Berkeley.
Hắn đã mua xe này, mới toanh, hồi hắn ở nấc thang cao nhất trong đời làm ăn của hắn. Ngồi lái chiếc xe mầu vàng chói, Priest trông giống như một anh chủ gái điếm, theo như lời Star vẫn thường nói với hắn. Bởi vậy nên họ sơn thêm vào xe những hình vẽ cho có vẻ độc đáo: mấy hành tinh trên nóc xe, mấy đóa hoa ở cốp xe, và đầu một vị nữ thần của dân da đỏ trên mũi xe, với những mầu tím, hồng và xanh lam. Trong hai mươi lăm năm các mầu ấy đã phai lợt, biến ra một mầu nâu loang lổ.
Họ lên đường từ ba giờ sáng. Priest lái xe, Melanie nằm ngủ, đầu gối lên đùi Priest, hai chân co quắp trên nệm da đen. Thằng nhỏ, con của Melanie, ngủ trên ghế sau. Con chó berger của Priest, tên Spirit, nằm cạnh thằng bé.
Trong thâm tâm Priest lo lắm. Hắn đã hứa cho mọi người một trận động đất. Nếu hắn thất bại, hắn sẽ mất hết những gì hắn yêu quý nhất. Và nếu hắn bị bắt, hắn sẽ ở tù cho đến già.
Nhưng Priest là một người khác thường, không giống ai. Hắn không theo luật lệ nào hết. Hắn làm những việc không ai nghĩ tới. Hắn đã đi được một nửa đường tới đích rồi. Hắn đã đánh cắp được chiếc địa chấn xa. Xe ấy nay đã được giấu kỹ trong một thung lũng hẻo lánh, sau mấy cái đồi dưới dẫy núi Sierra Nevada. Hôm nay Priest đi kiếm chỗ đúng để đặt chấn động xa ngõ hầu gây nên động đất. Và chồng của Melanie là người chỉ điểm cho hắn.
Theo như Melanie nói thì Michael Quercus là người biết rõ hơn ai hết về đường nứt San Andreas. Mọi dữ kiện thu thập được ông đều giữ trong máy điện toán của ông. Priest muốn lấy cắp cái đĩa lưu trữ những dữ kiện ấy một cách thật êm thấm, khiến cho Michael không nghi ngờ gì thì mới được.
Muốn vậy Priest phải cần đến Melanie. Tuy nhiên hắn vẫn không yên bụng về nàng. Hắn sợ nàng còn yêu Michael. Hắn còn lo nàng sợ sự nguy hiểm của việc làm bất hợp pháp này, rồi nàng không tiếp tục giúp hắn nữa.
Trên băng sau, đứa con năm tuổi của nàng đã thức dậy. Dusty bị bịnh dị ứng. Nó hắt hơi luôn luôn. Mắt nó sưng húp, và da nó bị mẩn ngứa. Melanie đem theo nhiều thứ thuốc mạnh, nhưng chỉ trị bịnh được phần nào thôi.
Dusty bắt đầu nhõng nhẽo:
– Mẹ ơi, con khát nước.
Melanie tỉnh giấc. Nàng ngồi dậy, quay ra sau, nói:
– Con uống nước đi. Chai nước ở bên con đấy.
– Con không uống nước. Con muốn nước cam cơ.
Melanie gắt:
– Mẹ đâu có nước cam cho con uống bây giờ.
Dusty oà khóc.
Priest nghĩ cách để dỗ thàng bé. Hắn làm ra vẻ sợ hãi nói:
– Trời ơi, cái gì đang đuổi theo chúng ta kìa.
Melanie nhìn phía sau:
– Đó là một xe tải.
– Em tưởng thế thôi. Nó hoá trang thành cái xe tải đấy. Sự thực nó là một phi thuyền không gian của bọn Mã Nhân với nhiều hỏa tiễn quang tử. Khi nào đèn vàng bên trái nó chớp là nó bắn hỏa tiễn đấy. Dusty, cháu phải canh chừng đấy nhá.
Chiếc xe sau tiến gần rất nhanh, và một phút sau đèn bên trái của nó chớp, và nó lách qua để vượt xe của Priest.
Dusty la:
– Nó bắn, nó bắn!
– Được rồi, chú kéo tấm giáp từ trường lên để cháu bắn lại nó.
Dusty kêu:
– Tạch, tạch, tạch, chíu, chíu, chíu…..
Con chó Spirit cũng họa theo, sủa inh ỏi về phía xe tải khi nó vượt qua.
Melanie bật cười khanh khách. Khi xe tải chạy trở lại vào lằn đường phía trước xe Priest, hắn nói:
– Hú vía. Mình gặp may đấy. Chúng nó đã đầu hàng rồi.
Dusty sung sướng hỏi:
– Còn bọn mã nhân nào nữa không?
– Cháu canh chừng phía sau, thấy đứa nào thì gọi chú.
– Ô kê.
Melanie khẽ nói:
– Cảm ơn anh. Anh tốt với nó quá.
Priest thật cùng hung cực ác đối với người nào làm hại hắn. Nhưng đối với bạn bè thì hắn rất hiền, rất tốt: chó, mèo, trẻ con, đàn ông, đàn bà. Vì hắn đẹp trai, biết chiều đàn bà nên Melanie mới bỏ chồng mà đi theo hắn. Đó là sức hấp dẫn trời cho của Priest.
Mấy phút sau họ rời xa lộ vào thành phố. Melanie chỉ đường cho Priest lái xe đến đường Euclid.
Dusty reo lên:
– A, nhà ba đây mà!
Melanie nói:
– Đúng rồi, nhà ba đấy, cưng!
Nàng trỏ tay về phía một tòa nhà thấp. Priest đậu xe ở ngoài.
Priest nói:
– Để thằng cu ở lại trong xe.
Melanie nói:
– Nó có sợ gì không?
Priest quay người nói với Dusty:
– Này, Trung Úy. Ta muốn Trung Úy và thầy Đội Spirit canh chừng phi thuyền của chúng ta. Trung Úy có thể làm tròn nhiệm vụ được không?
– Sẵn sàng!
– Tốt.
Priest xuống xe, Melanie cầm lấy túi xách rồi cũng xuống.
Hai người đi theo con đường dẫn tới cửa tòa nhà. Melanie bấm chuông. Chồng nàng làm việc ban đêm, gần sáng mới đi ngủ. Vì thế nên họ mới tính đến đây vào lúc trước bẩy giờ sáng. Priest nghĩ rằng lúc đó Michael sẽ díp mắt vì buồn ngủ, tinh thần sẽ không đủ sáng suốt để thắc mắc về việc họ đến nhà mình để làm gì.
Melanie nói Michael là người mê làm việc. Ban ngày ông thường lái xe đi khắp California, kiểm tra các máy móc dụng cụ đã được đặt tại chỗ trước để đo mọi nhúc nhích của đường nứt San Andreas, rồi ban đêm ông về nhà ghi mọi dữ kiện đã thu thập được vào máy điện toán. Còn về lý do nàng phải bỏ chồng là vì một biến cố nhỏ xẩy ra với Dusty. Nàng và Dusty đã ăn chay trường ròng rã suốt hai năm. Nàng tin rằng sự ăn kiêng triệt để có thể làm giảm thiểu được những cơn dị ứng của Dusty. Rồi một hôm nàng khám phá ra là Michael đã cho Dusty ăn hamburger. Đối với nàng như vậy có khác gì đầu độc thằng nhỏ. Nàng bỏ đi tức thì đêm hôm đó, đem theo Dusty.
Priest cho rằng Melanie đã suy nghĩ đúng về vấn đề dị ứng. Các người trong làng của Priest đều đã ăn chay từ đầu năm 1970. Sức khỏe của họ đặc biệt tốt. Nhưng hắn không kiêng cữ quá quắt như Melanie. Hắn vẫn còn thích ăn cá, và thỉnh thoảng cũng ăn thịt trong súp hay kẹp với bánh mì.
Một giọng nói gay gắt thoát ra từ máy intercom:
– Ai đó?
– Melanie.
Một tiếng rè-rè, rồi cửa tự động mở. Priest theo Melanie đi vào nhà và lên lầu. Michael Quercus đang đứng giữa cửa. Phong độ của ông làm cho Priest phải ngạc nhiên. Hắn vẫn tưởng sẽ gặp một nhà học giả gầy gò, yếu đuối. Trái lại Quercus khoảng ba mươi lăm tuổi, cao ráo và khỏe mạnh, tóc đen cắt ngắn uốn quăn trên đầu, và mặc một áo choàng dài mầu xanh thẫm.
Khi Melanie lên tới đầu cầu thang, Michael nói:
– Anh đã rất lo lắng về em và con. Em đã đi đâu và ở đâu vậy?
Priest thấy rõ là Michael đang cố ghìm cơn giận. Melanie nói:
– Em về để nói cho anh rõ mọi việc. Đây là Priest, bạn của em. Chúng em có vào được không?
– Mời.
Michael quay lưng đi vào trong. Melanie và Priest theo ông đi vào phòng khách.
Rõ ràng đây là phòng làm việc của Michael. Ngoài cái sofa và cái tivi, còn có một máy điện toán trên một bàn, và một giàn máy điện tử với nhiều chấm sáng nhấp nháy trên một kệ sâu. Một tấm bản đồ lớn che phủ nguyên một bức tường.
Priest nói:
– Cái này là cái gì?
Michael trừng mắt nhìn hắn như muốn hỏi “Mày là cái thá gì mà ở đây hạch hỏi”, nhưng ông làm thinh.
Melanie nói:
– Đó là vết nứt San Andreas. Nó bắt đầu từ 150 cây số cách đây về phía bắc, ở thành phố Mendocino, đi dài xuống phía nam và phía đông, qua Los Angeles và phần nội địa tới San Bernardino. Một vết nứt trong vỏ quả đất dài hơn một ngàn cây số.
Melanie đã cho Priest biết là chuyên môn của Michael là việc tính toán áp lực ở mỗi nơi khác nhau dọc theo chiều dài của vết nứt. Đó là sự tổng kết của việc đo lường mọi nhúc nhích của vỏ quả đất cùng với việc tính toán năng lượng tồn trữ lại, căn cứ theo khoảng thời gian đã qua từ trận động đất trước. Công trình của Michael đã giúp ông lãnh được nhiều giải thưởng khoa học. Nhưng năm trước đây ông đã từ giã trường đại học để ra lập nghiệp riêng, một phòng cố vấn chuyên cung cấp những dữ kiện về địa chấn cho các hãng thầu xây cất và các công ty bảo hiểm.
Melanie rất giỏi về máy điện toán. Nàng đã giúp Michael lập chương trình cho máy để lưu trữ các dữ kiện ông đã thâu thập được mỗi ngày, từ bốn giờ sáng đến sáu giờ sáng, khi ông ngủ. Tất cả các dữ kiện trong máy điện toán của ông đều được sao chép vào đĩa. Khi ông bật máy buổi sáng, ông sẽ lấy cái đĩa ra khỏi máy, và cất nó vào một cái hộp không bắt lửa. Với cách này, nếu máy điện toán của ông bị đập nát hay nhà bị cháy rụi thì các dữ kiện quý giá của ông vẫn còn được giữ nguyên. Bây giờ Melanie và Priest chỉ còn phải làm thế nào cho Michael ra ngoài một lát để Melanie lấy cái đĩa ra khỏi máy là xong.
Michael nói với Melanie:
– Bây giờ em hãy nói cho anh biết tại sao em lại bỏ đi như vậy?
Nàng nói:
– Giản dị lắm, anh. Một người bạn cho em và Dusty xử dụng cái chòi của chị ấy ở trên núi. Em và con chưa được đi chơi xa bao giờ, nên em chộp ngay lấy dịp này.
Đó là lúc Priest gặp Melanie. Nàng và Dusty đi chơi trong rừng và bị lạc. Priest đang ngồi câu cá bên một con suối thì nghe tiếng một đứa trẻ khóc. Lần theo tiếng khóc, hắn gặp Dusty và Melanie. Lúc này nàng cũng sắp khóc. Khi trông thấy Priest, nàng nói:
– Cảm ơn trời đất. Tôi đã tưởng chúng tôi sẽ phải chết ở nơi đây!
Priest nhìn nàng một lúc lâu. Nàng có vẻ ma quái, với làn tóc đỏ xõa dài và cặp mắt xanh. Nhưng trong cái quần jeans cắt ngắn và cái áo nịt chỉ đủ che kín bộ ngực thì nàng trông thật ngon lành. Priest hỏi nàng có phải từ hỏa tinh xuống không. Nàng đáp:
– Không. Từ Oakland.
Priest biết có mấy cái chòi nghỉ mát ở gần đây. Hắn lấy cần câu lên, và dẫn nàng đi trong rừng. Dọc đường hắn hỏi chuyện nàng và biết rõ tất cả về nàng. Nàng là một người đàn bà đang gặp chuyện khó khăn.
Nàng đã bỏ chồng, đi theo một gã đánh đàn ghi-ta trầm trong một ban nhạc rock. Nhưng nó đã bỏ nàng sau vài tuần lễ ở chung. Nàng không còn chỗ nào nương tựa. Nàng làm việc trong một siêu thị, gởi Dusty cho một người láng giềng suốt cả ngày. Nàng ở trong một xóm dơ bẩn nên Dusty lại bị ho và xổ mũi nặng. Nàng cần kiếm một chỗ ở có không khí trong lành, nhưng nàng không xin được việc làm ở ngoài thành phố. Nàng đang lâm vào cảnh tuyệt vọng thì một người bạn gái cho nàng dịp nghỉ hè này.
Priest thích những người bị khó khăn. Bạn chỉ cần cho họ những gì họ đang cần thì họ sẽ trở nên nô lệ của bạn ngay.
Lúc tới cái chòi thì đã đến giờ ăn bữa tối. Melanie nấu mì và trộn sà-lách. Khi ăn xong nàng cho Dusty đi ngủ. Sau khi đứa nhỏ đã ngủ say, Priest dụ Melanie và hai người quấn lấy nhau ngay trên sàn nhà.
Ông chồng giáo sư cao ngạo của Melanie than phiền:
– Đã năm tuần rồi đấy. Em không thể đem con anh đi biệt như thế mà không gọi anh một cú điện thoại nào!
– Anh có thể gọi em chứ. Em có máy cầm tay mà.
– Anh có gọi, nhưng không có trả lời.
– Vậy là tổng đài nó cúp rồi, bởi vì anh đã không thanh toán tiền tháng. Anh là người trả tiền mà. Anh đã thỏa thuận như vậy.
– Có vài ngày trễ thôi mà nó đã cúp. Nhưng em cũng phải gọi anh trước khi em đưa bé Dusty đi xa chứ.
– Có ít điều em chưa nói với anh.
Michael thở dài, ngồi xuống ghế sau bàn giấy, và nói:
– Em ngồi xuống đi.
Melanie ngồi sâu vào trong một góc sofa. Priest ngồi vắt vẻo trên chỗ tay dựa.
Melanie nói:
– Em sắp lên ở trên núi với Priest và nhiều người nữa.
– Ở đâu?
Không muốn cho Michael biết chỗ ở thật sự, Priest trả lời:
– Ở quận Del Norte.
Chỗ này ở đầu chót bắc California. Sự thật ấp của Priest ở quận Sierra, gần biên giới đông của tiểu bang. Cả hai nơi đều xa Berkely.
Michael nổi giận:
– Em không thể đem Dusty đi xa bố nó cả ngàn cây số được!
Melanie năn nỉ:
– Có một lý do. Trong năm tuần vừa qua Dusty không bị một cơn dị ứng nào. Nó hợp với không khí trên núi lắm.
Michael không tin:
– Thường thì không khí sa mạc, chứ không phải không khí trên núi, mới hợp cho người bị dị ứng.
– Anh đừng nói thông thường với em. Em không thể đến chỗ sa mạc được. Em không có tiền. Chỗ này mới là chỗ em ở được mà con nó không bị đau yếu. Đó là một thôn, một ấp.
– Melanie, sao em cứ thích ở với người lạ vậy? Đầu tiên là ở với một thằng đánh ghi-ta nghiền sì-ke, bây giờ lại ở với một bọn híp-pi trong thâm sơn cùng cốc….
Priest xen vào:
– Ông Michael, sao ông không hỏi ngay cháu Dusty xem cháu thấy thế nào. Cháu đang ở trong xe của tôi, ngoài kia.
Michael mặt đỏ gay vì tức giận:
– Ông để con tôi ở trong xe?
– Nó không sao đâu. Nó chơi với con chó của tôi.
Michael trợn mắt nhìn Melanie, quát:
– Em mắc chứng gì vậy?
Rồi ông lao ra ngoài. Melanie trách Priest:
– Tại sao anh lại nói cho hắn biết là Dusty ở ngoài kia?
– Để tống hắn ra khỏi phòng. Bây giờ em lấy cái đĩa đi.
Melanie bước đến hàng máy ở trên kệ. Nàng bấm một nút, và một miếng nhựa vuông, dẹp, bật ra khỏi máy. Nàng mở sắc tay, lấy ra một miếng nhựa khác, và kêu lên:
– Trời!
Priest lo lắng hỏi:
– Cái gì vậy? Không xong hả?
– Hắn đã đổi nhãn. Của em nhãn Sony, của Michael nhãn Philips.
– Hắn có nhận biết được không?
– Có thể lắm. Hắn sẽ bắt đầu làm việc khi chúng ta đi khỏi. Hắn sẽ bật lấy cái đĩa ra, rồi đổi cái khác vào. Lúc đó hắn sẽ thấy sự khác biệt.
Priest sợ toát mồ hôi, hỏi:
– Thế nào hắn cũng nghi bọn mình. Hắn có giữ nhiều đĩa dự phòng không?
Nàng nhìn quanh:
– Chắc là phải có chứ. Em không biết hắn để đâu.
Priest nói:
– Em bỏ cả hai cái đĩa ấy vào sắc tay đi.
Nàng làm theo.
Priest nghe tiếng dập cửa trước. Michael đang đi trở vào.
– Này, Michael có tủ đựng giấy bút không?
– Có. Một ngăn kéo.
Nàng trỏ tay về phía một cái tủ nhỏ, nhiều ngăn, mầu trắng.
Priest mở mạnh ngăn kéo trên cùng. Hắn thấy một xấp giấy nhỏ mầu vàng, một hộp bút bi, và một hộp đĩa đã mở sẵn.
Hắn nghe tiếng Dusty vọng tới từ phòng ngoài. Hắn vội lấy đại một đĩa, đưa cho Melanie.
– Cái này có được không?
– Được. Đây là một cái Philips.
Priest đóng ngăn kéo lại.
Michael bước vào, bồng Dusty trên tay. Melanie đứng như trời trồng với cái đĩa cầm trong tay.
Dusty đang nói:
– Ba biết không? Ở trên núi con không hắt hơi.
Michael đang chú ý tới Dusty. Melanie hoàn hồn. Trong lúc Michael khom người đặt Dusty xuống sofa, nàng lùa cái đĩa vào khe máy.
Michael nói với Dusty:
– Con không hắt hơi một lần nào cả à?
– Không.
Melanie tỉnh người. Michael không trông thấy những gì nàng đã làm. Priest nhắm mắt. Thật sung sướng. Họ đã có các dữ kiện của Michael, và Michael sẽ không bao giờ biết được.
Michael hỏi:
– Con chó không làm con hắt hơi chứ?
– Không. Spirit là con chó sạch lắm. Chú Priest tắm nó ở dưới suối, xong rồi nó chạy lên bờ, rũ người thật mạnh, nước bắn ra như mưa rào vậy, ha ha ha!
– Thật vậy hả?
Melanie nói:
– Em đã nói rồi mà.
Michael thở dài nói:
– Thôi được. Nếu nó tốt cho sức khỏe của Dusty như vậy thì ta phải đi theo chiều ấy vậy.
Melanie hết lo:
– Cảm ơn anh.
Priest tủm tỉm cười. Bây giờ họ chỉ phải cầu trời sao cho máy điện toán của Michael đừng có bị trục trặc. Nếu nó bị trục trặc thì Michael sẽ phải lấy dữ kiện ra từ cái đĩa, và ông sẽ thấy là cái đĩa này vẫn còn trắng nguyên. Nhưng Melanie đã nói rằng máy điện toán ít khi bị trục trặc lắm. Và tối nay các dữ kiện mới sẽ được sao chép vào cái đĩa trắng này.
Michael nói:
– Tốt. Ít ra là em đã trở về nói với anh về chuyện này. Như thế là tốt lắm.
Melanie nói:
– Thỉnh thoảng em sẽ đưa Dusty về thăm anh.
Bây giờ Priest đã hiểu rõ Melanie. Nàng tỏ ra tốt với Michael, nhưng nàng không còn yêu chàng nữa.
 
Judy thức dậy sáng sơm ngày Thứ Ba, lòng băn khoăn không biết nàng có được trở lại làm việc không.
Sau khi tới sở nàng đi thẳng đến phòng giám đốc. Kincaid đang ngồi sau bàn giấy rộng lớn. Ông ngước mắt nhìn nàng. Và lạnh lùng nói:
– Chào cô.
Trong lòng phập phồng, nàng nói:
– Chào ông Giám Đốc. Ông đã xem tờ đơn của tôi chưa?
– Có, tôi đã xem và chấp nhận lời xin lỗi của cô.
Judy thấy như vừa cất đi được một gánh nặng.
– Cảm ơn ông.
– Cô dọn đồ đạc của cô đến phòng Khủng Bố Nội Địa, và bắt tay ngay vào vụ Búa Thiên Lôi. Chúng ta cần có một cái gì để nói với ông Thống Đốc.
Sửng sốt, Judy nói:
– Ông đã gặp ông Thống Đốc?
– Đã gặp ông bí thư của ông Thống Đốc, ông Albert Honeymoon.
Honeymoon là cánh tay phải của ông thống đốc. Judy nghĩ là vụ này đã trở nên quan trọng rồi.
– Tôi đã nghe nói đến ông ấy.
– Tôi muốn có tờ phúc trình vào tối mai.
Nàng lo lắng không biết có làm kịp không. Mai là Thứ Tư rồi.
– Nhưng kỳ hạn là Thứ Sáu.
– Thứ Năm là phải họp với Honeymoon rồi.
– Tôi sẽ trình ông cái gì cụ thể để cho ông ấy biết.
– Cô sẽ trình thẳng với ổng. Honeymoon muốn gặp đích thân người phụ trách vụ này. Chúng ta phải có mặt ở văn phòng ông Thống Đốc tại Sacramento vào lúc 12 giờ trưa.
– Dạ, đã nghe rõ.
Judy đem đồ lề của nàng vào phòng Khủng Bố Nội Địa. Ông xếp mới của nàng, Matt Peters, dẫn nàng đến bàn giấy của nàng. Ông cắt cho nàng một phái viên trẻ để phụ tá nàng trong vụ Búa Thiên Lôi. Raja Khan là một người Ấn, nói nhanh, có bằng Tiến Sĩ Chính Trị Kinh Doanh. Chưa có kinh nghiệm, nhưng hắn thông minh và có tài trí.
Judy bảo hắn đi dò xét tổ chức Môi Trường California. Nàng nói:
– Anh hãy đối xử tử tế với họ. Anh nói với họ rằng chúng ta không tin là họ có dính líu gì tới vụ này, nhưng chúng ta phải tìm hiểu kỹ trước khi đặt họ ra ngoài vụ.
– Tôi sẽ phải tìm cái gì?
– Hai người: một công nhân khoảng 45 tuổi, có thể mù chữ, và một người đàn bà có học vấn khoảng 30 tuổi, có thể là đang bị người đàn ông kia uy hiếp. Thu thập hết tên của các người trong tổ chức, và sàng lọc họ qua máy điện toán để xem có ai trong bọn họ đã có án tích nào về trọng tội hay hoạt động khủng bố.
Raja nói:
– Đã rõ. Còn cô, cô sẽ làm gì?
– Tôi đi tìm hiểu về động đất.
Khi Judy về đến nhà tối hôm đó, Bố đang coi truyền hình. Ông tắt máy và nói:
– Bữa nay bố đã thanh toán một vụ án mạng.
– Vụ nào vậy Bố?
– Vụ hiếp dâm giết người Telegraph Hill.
– Thủ phạm là ai?
– Thằng này đã ở trong tù rồi. Trước đây nó đã bị bắt vì tội quấy nhiễu các cô gái ở trong công viên. Bố nghi thằng này, nên bố xét nhà nó. Nó có một cặp còng của cảnh sát giống cặp còng trên xác chết, nhưng nó chối không nhận tội giết người. Bố đã lấy được bản xét nghiệm DNA của nó từ phòng giảo nghiệm. Nó giống hệt DNA của tinh khí dính trên mình nạn nhân. Bố cho nó xem, và nó phải thú nhận tội.
Nàng hôn lên đầu bố:
– Bố giỏi quá.
– Còn con thì sao?
– Con vẫn giữ chỗ làm cũ, nhưng không chắc chuyến này con có thành công không. Con chưa tấn tới được nhiều trong vụ của con.
– Tối qua con nói là một vụ vớ vẩn mà.
– Bây giờ con không chắc là như vậy. Cuộc phân tích ngôn ngữ cho thấy là bọn này thực sự nguy hiểm.
– Nhưng chúng không thể làm được một trận động đất.
– Con không biết.
Bố nhướng cặp lông mày:
– Con cho là có thể à?
– Con đã gặp ba chuyên viên địa chấn. Một nói là không thể được, một nói sự khả dĩ rất mong manh, và người thứ ba nói có thể làm động đất với một quả bom nguyên tử.
– Có thể nào bọn này có một quả bom không?
– Có thể lắm. Nhưng tại sao chúng không dọa ta bằng quả bom của chúng?
Bố suy tư nói:
– Vụ này có thể là dễ sợ đây,mà lại có thể tin được.Bước tới của con là thế nào?
– Con còn phải gặp một chuyên viên điạ chấn nữa. Y tên là Michael Quercus. Vị này là người tài ba nhất về những nguyên nhân gây nên động đất.
Xẩm tối hôm nay Judy đã đến bấm chuông nhà Quercus. Nhưng hắn nói qua máy điện thoại gắn nơi cửa là nàng phải gọi hắn trước để lấy hẹn.
Giận lắm, nhưng không làm sao được, nàng đành phải lái xe về sở, nhấc điện thoại gọi hắn, và được hắn hẹn gặp ngày hôm sau.
Bố nói:
– Con đã biết tung tích của bọn Búa Thiên Lôi chưa?
Nàng lắc đầu:
– Con đã cho người đi phỏng vấn từng người một trong tổ chức Green California. Không có ai giống như những người chúng con dự đoán. Không ai có tiền án về trọng tội hay khủng bố.
– Đừng nản con ạ. Con mới bắt tay vào vụ này có một ngày thôi mà.
– Đúng vậy. Nhưng con sốt ruột vì chỉ còn hai ngày nữa là đến kỳ hạn của chúng.
– Vậy thì con phải bắt đầu làm việc ngay sớm mai.
Nói rồi ông đứng dậy. Hai bố con cùng đi lên lầu. Judy dừng lại nơi cửa phòng ngủ của nàng:
– Chúc bố ngủ ngon.
– Ngủ ngon, bé.
Trong lúc lái xe qua Bay Bridge sáng Thứ Tư, tiến về hướng Berkeley, Judy thử tưởng tượng xem Michael Quercus là người như thế nào. Cung cách nói qua điện thoại của y làm cho người ta liên tưởng đến một ông giáo sư khó tính, hay một học giả lớn trong bộ y phục đen có sọc.
Judy đậu xe trên đường Euclid. Nàng bấm chuông, và sau khi nàng báo tên, có một tiếng rè-rè, và cửa mở ra. Nàng leo hai dẫy cầu thang lên đến căn nhà của Michael. Cửa đã mở sẵn. Nàng bước ngay vào phòng khách kiêm phòng làm việc của Michael.
Ông đang ngồi tại bàn giấy, mặc quần kaki và áo polo mầu xanh nước biển. Michael Quercus không phải là nhà giáo khó tính, cũng không phải là học giả đạo mạo. Ông là một người to lớn, đẹp trai, tóc quăn đen.
Ông cũng ngạc nhiên. Ông mở to mắt và nói:
– Cô mà là phái viên FBI?
Judy bắt tay ông thật chặt:
– Tôi làm việc với FBI đã mười năm rồi.
Ông cười:
– Thật sao?
Nàng nhập đề ngay:
– Tôi cần biết một bọn khủng bố có thể làm ra một trận động đất không?
– Chúng hăm làm thế à?
– Ông không nghe thấy gì sao? Radio đã nói nhiều về lời đe dọa của chúng. Ông không nghe John Truth à?
Michael lắc đầu:
– Có nghiêm trọng không?
– Tôi đang cần biết xem nó có nghiêm trọng không.
– Vậy thì câu trả lời ngắn gọn là có thể.
Judy đâm hoảng:
– Làm sao mà chúng có thể làm được?
– Lấy một quả bom nguyên tử, bỏ nó xuống đưới đáy của một hầm mỏ, rồi cho nó nổ. Nhưng có lẽ cô cần nhiều chi tiết tỉ mỉ hơn.
– Vâng. Cứ tưởng tượng như ông muốn làm một trận động đất.
– Được, tôi làm được chứ!
Judy cho là ông nói khoác:
– Ông làm ơn nói rõ bằng cách nào.
Michael cúi xuống sau bàn giấy, cầm lên một tấm ván bằng gỗ và một hòn gạch. Rõ ràng ông đã để những vật này ở đấy từ trước để dùng trong câu chuyện này. Ông để tấm ván lên mặt bàn giấy và cục gạch lên trên tấm ván. Rồi ông nâng một đầu tấm ván lên từ từ cho đến khi cục gạch trượt theo chiều dốc xuống mặt bàn. Ông nói:
– Cục gạch trượt xuống khi dẫn lực trở nên mạnh hơn sức trì kéo lại. Cô hiểu tới đây rồi chứ?
– Hiểu.
– Một lằn nứt như lằn San Andreas là một chỗ mà hai tầng vỏ quả đất đang di chuyển khác chiều nhau. Chúng không di chuyển êm xuôi đâu. Chúng có thể bị kẹt. Khi chúng bị kẹt không di chuyển được nữa thì sức ép cứ từ từ dồn chất lên chỗ đó từ năm này qua năm khác, có thể ròng rã suốt mấy chục năm.
– Vậy thì cái gì làm cho động đất xẩy ra?
– Một lúc nào đó chợt nẩy ra cái gì có đủ sức làm cho bật tung cái năng lượng tồn trữ ấy ra.
Ông lại nâng một đầu tấm ván lên. Lần này ông ngưng lại trước khi cục gạch bắt đầu trượt xuống, rồi nói:
– Nhiều khúc của lằn nứt San Andreas đều giống như thế này, lúc nào cũng sẵn sàng trôi truợt trong bao nhiêu năm nay rồi. Cô cầm lấy cái này.
Ông đưa cho Judy một cái thước kẻ:
– Cô lấy đầu thước kẻ gõ xuống tấm ván phía trước cục gạch đi.
Nàng làm theo lời, và cục gạch bắt đầu trượt xuống. Michael nắm lấy cục gạch, nói:
– Khi tấm ván đã nghiêng, chỉ một cái đập nhẹ cũng đủ làm cho cục gạch xê dịch rồi. Khi lằn nứt San Andreas đang bị ép dưới một sức ép thật nặng thì chỉ một va đụng nhẹ cũng đủ làm cho các tầng đất phá tung chỗ kẹt, rồi thì bao nhiêu năng lượng đã bị giam hãm bao nhiêu chục năm được xổng ra và làm thành động đất.
Michael quả là thông minh. Chàng giảng giải thật dễ hiểu. Judy thích thú nói chuyện với chàng, không phải chỉ là vì chàng đẹp trai. Nàng nói:
– Cơn động đất nào cũng xẩy ra như vậy sao?
– Tôi tin là như vậy. Thường có những rung động tự nhiên đi xuyên qua vỏ trái đất. Phần đông các vụ động đất đều bột phát bởi một rung động đúng cường độ, tại một chỗ đúng vị trí, trong một lúc đúng thời gian.
– Vậy thì các tay khủng bố của chúng ta làm thế nào mà lợi dụng được các yếu tố ấy?
– Chúng cần phải có một cái thước kẻ, và chúng cần phải biết gõ vào chỗ nào.
– Trong thực thế thì cái gì tương đương với cái thước kẻ của ông? Một quả bom nguyên tử?
– Chúng không cần phải có một cái gì mạnh như thế. Nếu chúng biết đúng chỗ yếu của đường nứt thì một trái cốt mìn cũng đủ cho chúng rồi.
– Cốt mìn thì ai cũng có thể có được.
– Vụ nổ phải được thực hiện sâu dưới mặt đất. Bọn khủng bố cần phải có máy móc để đào đất, phải biết kỹ thuật, và phải có lý do để xin phép đào.
– Những khó khăn này không phải là khó vượt qua. Cái khó nhất trong vấn đề này là làm sao biết được chỗ đúng để chôn quả mìn. Ai có được sự hiểu biết này?
– Các viện đại học, chuyên viên địa chất của tiểu bang…., tôi. Chúng tôi đều chia sẻ tin tức cho nhau. Không có gì bí mật hết. Tuy nhiên cô cần phải có chút kiến thức khoa học để hiểu được các dữ kiện.
– Vậy thì trong bọn khủng bố nhất định là phải có một địa chấn gia.
– Phải. Có thể là một sinh viên.
Judy nghĩ đến người đàn bà có học thức ba mươi tuổi đã gõ máy điện toán. Người này có thể là một sinh viên đã có bằng cấp.
Michael tiếp tục:
– Và còn thủy triều nữa. Các đại dương di chuyển lúc thì phía này lúc thì phía kia, tùy theo sức hút của mặt trăng, và các phần đất rắn chắc cũng bị ảnh hưởng bởi sức hút ấy. Mỗi ngày hai lần có một thời điểm đường nứt bị căng thẳng thêm do sức giằng co của thủy triều. Lúc đó là lúc dễ xẩy ra động đất nhất. Tính thời điểm này là chuyên môn của tôi. Tôi là người độc nhất chuyên tính toán các thời điểm địa chấn cho đường nứt California.
– Có người nào đã lấy được các dữ kiện này của ông không?
– Nghề của tôi là bán các dữ kiện ấy.
Michael mỉm cuời ngượng nghịu:
– Nhưng tôi chỉ có một hợp đồng thôi, với một hãng bảo hiểm lớn.
– Có khi người ta lấy mà ông không biết. Ông có bao giờ bị mất trộm không?
– Không bao giờ.
– Có người bạn nào hay họ hàng thân thuộc nào của ông đã sao chép những dữ kiện không?
– Không ai ở trong phòng này mà không có tôi.
Judy cầm lên từ trên bàn giấy của Michael một tấm hình của một phụ nữ xinh đẹp tóc đỏ với một đứa nhỏ. Nàng nói:
– Vợ ông hay bạn gái?
Với vẻ buồn phiền, Michael cầm lấy tấm hình từ tay nàng:
– Tôi đã ly thân với vợ tôi, và tôi không có bạn gái.
Judy thấy đã thu thập được đủ các thông tin nàng cần. Nàng nói:
– Tôi xin cảm ơn ông đã dành thì giờ qúy báu của ông cho tôi, thưa giáo sư.
– Cô cứ gọi tôi là Michael. Tôi rất thích nói chuyện với cô.
Chàng tiễn nàng ra tới cửa ngoài, bắt tay nàng và nói:
– Cô còn muốn biết thêm điều gì nữa, tôi xin vui lòng giúp.
Nàng nói đùa:
– Tôi vẫn phải xin hẹn trước chứ?
Chàng nghiêm nét mặt:
– Vâng.
Trên đường về, Judy cảm thấy rõ là mối nguy quả có thật rồi. Bọn khủng bố thật sự có khả năng gây nên một vụ động đất. Chúng cần có sự hiểu biết chính xác về những điểm yếu của đường nứt. Chúng cần một người có khả năng hiểu được các dữ kiện ấy, và chúng cần có một phương tiện khả dĩ làm nên những làn sóng chấn động chạy xuyên qua vỏ quả đất, một việc khó khăn, nhưng không phải là không làm được.
Nàng còn một việc gai góc là phải trình với ông Honeymoon, phụ tá của ông thống đốc, rằng tất cả vụ này đều có thể xẩy ra được.
 
Priest thức dậy tảng sáng ngày Thứ Năm. Còn một ngày nữa. Từ văn phòng thống đốc không có động tĩnh gì. Họ làm như không có sự đe dọa nào hết. Các nơi khác cũng thế. Búa Thiên Lôi ít khi được nói đến trong những buổi phát thanh mà Priest nghe qua máy radio trong xe của hắn.
Chỉ có John Truth là quan tâm đến vụ này. Y nhắc nhở Thống Đốc Mike Robson mỗi ngày trong các giờ phát thanh của y. Cho đến ngày hôm qua, ông thống đốc chỉ nói rằng FBI đang điều tra, ngoài ra không nói gì thêm. Nhưng đêm hôm qua Truth đã loan báo rằng ông thống đốc hứa sẽ có lời tuyên bố trong ngày hôm nay.
Nếu lời tuyên bố có vẻ hoà giải, và tỏ ý là ông thống đốc sẽ tôn trọng những gì được đòi hỏi, thì Priest sẽ hài lòng. Còn nếu tuyên bố không nhượng bộ thì hắn sẽ làm động đất.
Priest lo không biết hắn có làm được không. Melanie có vẻ tin tưởng khi nàng nói đến đường nứt, và cách làm thế nào cho nó chuyển động, nhưng chưa có ai đã thử làm bao giờ.
Hắn lăn mình đổi bên. Melanie đang ngủ, đầu đặt trên cái gối bên cạnh hắn. Hắn ngắm gương mặt bình thản của nàng. Một lọn tóc dài mầu gừng che má nàng. Hắn ngồi dậy. Hắn đang ở trong cái nhà một phòng mà hắn làm chủ trong 25 năm nay. Trong nhà có một giường, một ghế sofa cũ trước lò sưởi, và một bàn trong góc nhà với một cây nến cắm trên cái đế. Không có đèn điện.
Trong buổi ban đầu, hầu hết mọi người đều ở trong các lều như cái này. Bọn trẻ ngủ trong nhà trẻ, trên những cái giường hai tầng. Dần dần theo năm tháng, người ta sống thành từng đôi từng cặp, rồi người ta làm những cái nhà lớn hơn với phòng ngủ riêng cho trẻ nhỏ. Bây giờ đã có sáu căn nhà mới, cùng với mười lăm cái lều cũ. Làng của Priest bây giờ gồm có 25 người lớn và 10 trẻ con, thêm Melanie và Dusty. Một lều để trống.
Priest lấy một khăn lông và đi ra ngoài. Con chó Spirit vẫy đuôi chạy đến hít chân chủ. Mặt trời còn khuất sau dẫy núi. Chung quanh đấy không một bóng người.
Priest đi băng qua làng, đường thoai thoải dốc xuống. Spirit theo sau. Hắn biết là nơi này trông không đẹp đối với những người khác. Đường đi thì bùn lầy, nhà cửa thì thô kệch, nhưng cái gì ở đây cũng làm cho tim hắn ấm áp. Và khi hắn nhìn ra xa, hắn thấy rừng thông bao phủ sườn đồi giăng giăng khắp nơi, từ hai bên bờ con sông lấp lánh ánh mặt trời lên tới đỉnh những ngọn núi Sierra Nevada, phong cảnh mới đẹp biết bao.
Bên sông, trên một tảng đá, có một hộp gỗ đựng xà bông, mấy con dao cạo rẻ tiền, và một cái gương nhỏ.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.