Bụi Ly Chua Máu

CHƯƠNG 15



Cuộc truy tìm…
Lúc trước đó Elínborg đã tìm ra nơi ở của em gái v ợ chưa cưới của Benjamín. Khi cô và Erlendur rời khỏi nhà Höskuldur, cô nói với ông rằng mình mu ốn đến nói chuy ện với bà ta. Erlendur gật đầu và nói rằng ông sẽ đến Th ư viện Qu ốc gia để tìm xem có bài báo nào nói về sao ch ổi Halley h ay khôn g. Giống nh ư tất cả các nhà- biết- tu ốt, té ra Höskuldur cũng ch ẳng biết rõ lắm về chu y ện đã xảy ra. Ông ta nói vòng vo quanh quẩn cho đến khi Erlendur không bu ồn nghe n ữa và ra v ề khá đột ng ột.
“Cô nghĩ sao về những điều Höskuldur vừa mới nói?” Erlendur hỏi cô khi họ đã lên xe.
“Câu chuy ện v ề nhà máy sản xu ất khí đốt ấy thật lố bịch,” Elínb org đáp. “Sẽ rất thú vị n ếu ông tìm được thô ng tin về vụđó đấy. Nh ưng tất nhiên là nh ững điều mà ông ta nói về chuy ện ngồi lê đôi mách thì không sai một tẹo nào. Chúng ta rất thích thú khi kể nh ững câu chuyện xấu xa về người khác. Những lời đồn đại đó ch ẳng thể nói lên được gì v ề chu yện Benjamín có ph ải là một tên sát nhân thực sự hay không, và ông cũng hiểu điều đó m à.”
“Phải, nhưng còn câu thành ngữ ‘Không có lửa làm sao có khói’ thì sao?”
“Những thành ng ữ,” cô lẩm bẩm. “Tôi sẽ hỏi em gái bà ấy. Nói chu y ện khác đi. Eva Lind th ế nào rồi?”
“Con bé vẫn đang nằm trên giường bệnh. Bác sĩ bảo tôi phải nói chuyện với con bé.”
“Nói chuyện với nó ư?”
“Ông ấy cho rằng nó có thể ngh e được qua cơn hôn mê, và điều đó rất tốt cho nó.”
“Vậy ông nói gì v ới nó?”
“Ch ẳng có gì nhiều,” Erlendur nói. “Tôi ch ẳng biết ph ải nói gì cả.”
Em gái vợ ch ưa cưới của Benjamín đã ngh e những lời đàm tiếu nh ưng bà ta phủ nh ận thẳng th ừng nh ững tin đồn đó. Tên bà ta là Bára, vẫn còn khá trẻ so với chị mình. Bà ta sống trong một ngôi nhà riêng ở Grafarvogur cùng ch ồng là một do anh nh ân giàu có. Cuộc sống của họ rất xa xỉ, phon g lưu v ới đủ các đồ nội thất hoa mỹ bày biện trong nhà. Bà ta đeo nh ững đồ trang sức đắt tiền và tỏ ra hợm hĩnh trước m ặt Elínborg – ng ười thám tửđang ngồi trong phòng khách. Elínborg đã nói qu a điện tho ại nh ững điều mà cô mu ốn hỏi và nghĩ rằng ng ười đàn bà này chưa bao giờ phải lo lắng về tiền bạc, bà ta luôn thỏa mãn m ọi nhu cầu của mình và không bao giờ giao du với nh ững người d ưới đẳng cấp. Có lẽ bà ta đã không còn ph ải lo lắng v ề bất cứđiều gì từ lâu lắm rồi. Elínborg có cảm giác rằng đây là cuộc đời đang chờ đợi trước m ắt chị gái Bára trong kho ảng thời gian cô biến m ất.
“Chị tôi th ực s ự yêu Benjamín, nh ưn g tôi khôn g thể hiểu nổi tại sao. Đối với tôi ông ta chỉ là một k ẻ tẻ nh ạt tầm thường. Tất nhiên là không vô giáo dục, nhà Knudsen là dòng họ lâu đời nhất ở Reykjavík. Nh ưng ông ta không ph ải là loại ng ười h ấp dẫn.”
Elínborg mỉm cười. Cô không hiểu ý bà ta là gì.
Bára th ấy điều đó.
“M ột kẻ m ơ m ộng. Ch ẳng m ấy khi thực tế, chỉ biết nghĩ ra nh ững điều to lớn v ề việc buôn bán lẻ, và nh ững điều n ày thì đã trôi vào dĩ vãng quá lâu rồi. Ông ta cũng chẳng sống được để mà hưởng nh ững thứđó. Ông ta lại còn đối tốt với bọn dân thường nữa chứ. Người h ầu k ẻ hạ trong nhà cũng ch ẳng ph ải gọi ông ta là ‘ngài’. Bây giờ thì người ta không gọi th ế nữa rồi. Ch ẳng còn chút lịch sự nào cả. Vàcũng ch ẳng còn ng ười h ầu nào n ữa.”
Bára lau những h ạt bụi vô hình trên chiếc bàn uống n ước.
Elínborg th ấy có m ột số bức tran h lớn ở cuối gian phòng cùng nh ững bức chân dung riêng của Bára và ch ồng. Ông ta trông có vẻ cau có và m ệt m ỏi, suy nghĩ tận đâu đâu. Gương m ặt nghiêm kh ắc của Bára d ường nh ư ngầm cười toe toét khiến Elínborg khô ng thể không nghĩ rằng trong cuộc hôn nhân này bà ta là ng ười thắng cuộc. Cô thấy thương h ại cho người đàn ông trong ảnh.
“Nh ưng nếu các ng ười nghĩ là ông ta giết chị tôi thì lầm to rồi,” Bára nói. “Nh ững mẩu xương mà các ng ười tìm thấy gần ngôi nhà g ỗ kh ông ph ải là của chịấy.”
“T ại sao bà biết?”
“Tôi biết th ế. Vì Benjamín thậm chí còn không bao giờ động đến cả một con ruồi. Th ật là m ột kẻ y ếu đuối d ễ sợ. Một k ẻ viển vôn g, nh ư tôi đã nói rồi đấy. Chuy ện đó càng rõ ràng hơn khi chị tôi biến m ất. Ông ta sụp đổ hoàn toàn, không còn quan tâm gì đến việc kinh doanh nữa, cũng chẳng thèm giao du với ai và từ bỏ m ọi thứ. Benjamín không bao giờ vượt qua nổi cú sốc đó. Mẹ tôi gửi trả lại cho ông ta những bức thư tình mà ông ta gửi cho chị g ái tôi. Bà đã đọc mấy b ức và nói rằng chúng thật tha thiết. “
“Bà và chị gái có th ân thiết v ới nhau không?”
“Không, tôi không cho là thế. Tôi ít tuổi hơn chịấy qu á nhiều. Từ khi tôi còn bé tí, chịấy đã trưởng thành rồi. M ẹ tôi luôn nói rằng chị rất giống bố tôi: giàu trí tưởng tượng và hay buồn phiền nữa. Ông ấy cũng làm nh ư thế.”
Điệu bộ của Bára khiến ng ười ta có cảm giác rằng bà ta đã sơ suất khi nói ra câu cuối.
“Cũng làm nh ư th ếư?”
“Ph ải,” Bára cáu kỉnh nói. “Cũng tự tử nh ư vậy.” Bà ta nói đầy thơơ. “Nh ưng ông ấy khôn g m ất tích nh ư chị tôi. Không. Ông ấy treo cổở phò ng ăn, trên cái móc đèn chùm ấy. T ất cả mọi ng ười đều trôn g th ấy rất rõ. Ông ấy quan tâm đến gia đình thế đấy.”
“Chu yện đó ch ắc khiến gia đình bà khổ tâm lắm,” Elínbo rg nói lấy lệ. Bára nhìn chòng ch ọc v ào Elínbo rg với vẻ cáo buộc khi bà ta ngồi xuống đối diện với cô, như thể chính cô đã khơi mào ra khiến bà ta ph ải nh ắc lại chu yện đó vậy.
“Ch uy ện đó đối với chị tôi là khó khăn nhất. Họ rất thân nhau. Chuy ện đó để lại nỗi đau tron g lòng mọi ng ười. Ng ười phụ nữ tội nghiệp.”
Trong m ột thoáng giọng bà ta có pha chút cảm th ôn g.
“Đó có ph ải…”
“Ch uy ện này xảy ra trước khi chị tôi m ất tích vài n ăm,” Bára nói. Elínborg nh ận thấy bà ta đang cố gắng che giấu điều gì đó. Nh ư thể câu chuy ện của bà ta đã được chu ẩn bị từ trước vậy, nó đã được lọc hết m ọi cảm xú c trong đó. Nh ưng có lẽ bà ta chỉ đơn giản là con ng ười nh ư vậy. Hống hách, nh ẫn tâm và ngu độn.
“Về phần mình, Benjamín đối xử với chịấy rất tốt,” Bára nói tiếp. “Ông ta viết thư tình cho chịấy, đại lo ại là vậy. Ngày đó, ng ười Reykjavík có th ểđi d ạo cùng nhau khá lâu khi họđã đính hôn. Đó là sự tìm hiểu lẫn nhau rất bìn h thường. Họ g ặp nh au ở khách sạn Bo rg, nơi h ẹn hò ch ủ yếu của trai gái thời đó. Họ rủ nh au đi d ạo, đi du lịch, và mọi chu yện cứ th ế tiếp diễn như bao đôi lứa khác. Ông ta cầu hôn chị tôi, và rồi trước đám cưới chỉ kho ảng hai tuần thì chị tôi m ất tích, tôi đoán th ế.”
“Tôi nghe ng ười ta đồn rằng bà ấy đã tự gieo mình xuống biển,” Elínborg nói.
“Ph ải, họđã tốn kh á nhiều côn g để thêu d ệt nên câu chuy ện đó. Ng ười ta bủa đi tìm chịấy khắp Reykjavík. Hàng tá ng ười tham gia vào cu ộc tìm kiếm nh ưng họ không tìm thấy dù chỉ là m ột sợi tóc của chịấy. Mẹ tôi báo tin cho tôi biết rằng sáng hôm đó chịấy đã ra đi. Chịấy đi mua sắm và đến m ột số nơi kh ác nữa, hồi đó khôn g có nhiều cửa hàng lắm, nh ưng chịấy không mua thứ gì. Chị tôi g ặp Benjamín ở của hàng của ôn g ta, sau đó chia tay, rồi từđó không còn ai trông thấy chịấy đâu nữa. Ông ta nói với cảnh sát và chúng tôi rằng họđã cãi nhau. Đó là lý do tại sao ông ấy đổ lỗi ình về việc đã xảy ra và rất đau khổ về ch uy ện đó.”
“T ại sao người ta lại nói đến biển?”
“M ột số ng ười cho là họđã trôn g th ấy một ng ười phụ nữđi ra phía biển – điểm tận cùng của Tryggvagata ngày nay. Cô ấy m ặc áo khoác giống nh ư chị tôi, cũng cao nh ư th ế. T ất cả chỉ có th ế.”
“T h ế họ cãi nhau vì chuyện gì?”
“M ấy ch uy ện linh tinh thôi, liên quan đến việc chu ẩn bị cho đám cưới. Ho ặc chí ít thì Benjamín nói nh ư vậy.”
“Bà không cho rằng có chuy ện gì khác sao?”
“Tôi không biết. “
“Vậy bà không nghĩ rằng có kh ả năng bộ xươn g chún g tôi tìm thấy trên đồi là của chị mình?”
“Ph ải, không thể có khả năng đó. Tôi không có cơ sở gì, tất nhiên rồi, tôi cũng ch ẳng chứng minh được gì, nh ưn g tôi thấy ch uy ện đó thật kh ó tin. Đơn giản là tôi khôn g thể tin nổi điều đó.”
“Bà có biết gì về nh ững ng ười từng thuê ngôi nhà gỗ của Benjamín ở Grafarholt không? Có thể là nh ững người ởđó trong chiến tranh ch ẳng hạn? Có kh ả năng đó là một gia đình có năm ng ười, hai vợ ch ồng với ba đứa con. Chuy ện đó có gợi cho bà nhớ đến điều gì không?”
“Không. Nh ưng tôi biết ng ười ta đến ở ngôi nhà của ông ấy tron g suốt th ời kỳ chiến tranh, vì hồi đó nhà cửa đang lên cơn sốt mà. “
“Bà có kỷ vật nào của chị mình không? M ột mớ tóc chẳng hạn? Để trong một cái hộp nhỏ ấy?”
“Không, nhưng Benjam ín có một lọn tóc của chị ấy đấy. Tôi thấy chịấy cắt nó cho ông ta. Benjamín hỏi xin chịấy một vật lưu niệm vào một mùa hè chị tôi đi xuống miền Nam đến Fljót để thăm họ hàng trong hai tu ần.”
Khi Elínborg đã vào trong xe, cô gọi điện cho Sigurdur Óli. Anh ta đang ra khỏi tầng hầm của Benjamín sau một ngày làm việc dài đằng đẵng và chán ng ắt. Cô bảo Sigu rdu r Óli để ý tìm m ột lọn tóc của vợ chưa cưới của Benjamín. Có thể nó nằm tro ng một cái hộp xinh xắn, cô nói. Elínborg nghe thấy tiếng Sigurd ur Óli rên rỉ. “Nào,” Elínborg nói, “n ếu tìm được lọn tóc đó, chúng ta có thể làm sáng tỏ chu yện người đó có phải là bà ta hay khô ng. Chỉ đơn giản có thế thôi,” rồi cúp máy. Đúng lúc Elínborg đang chuẩn bị lái xe đi thì trong đầu cô ch ợt nảy ra m ột suy nghĩ. Sau một hồi cân nhắc và b ồn chồn cắn môi, cô quy ết định hành động.
Khi Bára ra m ở cửa, bà ta rất ngạc nhiên khi lại g ặp Elínbo rg.
“Cô quên gì à?” bà ta h ỏi.
“Không, tôi chỉ mu ốn hỏi m ột câu này n ữa th ôi,” Elínbo rg ng ượng nghịu nói. “Rồi tôi sẽđi ngay.”
“Được rồi, cô muốn h ỏi gì?” Bára sốt ru ột nói.
“Bà nói rằng chị gái mình có mặc một chiếc áo khoác vào cái hôm bà ấy mất tích ph ải không?”
“Vậy thì sao?”
“Đó là lo ại áo khoác gì?”
“L o ại nào ư? Chỉ là một cái áo khoác bình thường mà m ẹ tôi đã tặng chịấy th ôi.”
“Ý tôi là màu gì ấy. Bàcó biết không?”
“Sao cô lại h ỏi th ế?”
“Tôi tò mò thôi.” Elínborg nói, không mu ốn giải
thích thêm.
“Tôi không nh ớ.”
“Vâng, tất nhiên rồi,” Elínborg nói. “Tôi hiểu. Cảm ơn bà và
xin lỗi vì đã làm phiền.” “Nh ưng mẹ tôi nói là nó màu xanh lục”.
 
Có quá nhiều thứđã th ay đổi trong nh ững n ăm tháng k ỳ lạấy.
Tó m as đã thôi không còn tè dầm ra giường và làm cho bố nó nổi điên lên nữa. Símon thì không hiểu tại sao Grímur lại bắt đầu chú ý đến em nó. Nó cho rằng bố nó đã th ay đổi kể từ lúc quân lính đến. Hoặc cólẽ Tó m as đang th ay đổi cũng nên.
M ẹ của Símon ch ưa bao giờ nói đến nhà máy sản xu ất khí đốt, còn Grímur thì rất lấy làm thích thú khi nh ạo báng cô về ch uy ện đó, nh ưng nói mãi cuối cùng hắn cũng ph ải chán. Hắn gọi cô là “đồ con hoang” hay “đồ đầu g a”, nói kh ông ng ớt v ề cái bình ga lớn và cái đêm truy hoan trác táng trước ngày tận th ế của Trái đất. M ặc dù ch ẳng hiểu gì về nh ững điều bốđan g nói, Símon vẫn thấy điều đó làm mẹ nó buồn lắm. Símon biết rằng m ỗi lời hắn nói ra đều khiến m ẹ nó đau y nh ư bị dần ột trận đòn nhừ tử.
Có một lần Símon đi cùng bố ra thành phố, trên đường đi qua nhà máy sản xu ất khí đốt, Grímur cười phá lên và chỉ vào cái thùng lớn, nói rằng đó là nơi mẹ chúng nó sinh ra. Sau đó hắn cười to hơn. Nhà máy sản xuất khí đốt là một tro ng nh ững tòa nhà lớn nh ất ở Reykjavík và Símon th ấy nó thật phiền ph ức. Th ằn g bé quy ết tâm h ỏi mẹ v ề tòa nhà và cái bình ga lớn gây tò mò đó.
“Đừng nghe ông ta nói v ớ vẩn,” bà nói. “Đến bây giờ con ph ải biết cách m ắng ch ửi của ông ta rồi ch ứ. Con không nên tin bất cứđiều gì ông ta nói. Bất cứđiều gì.”
“Vậy chuy ện gì đã xảy ra ở nhà máy đó h ả m ẹ?”
“Theo như mẹ biết thì ch ẳng có gì cả. Tự ông ta dựng ra mọi ch uy ện đấy. M ẹ khôn g biết ông ta ngh e được câu chuy ện đó từ đâu.”
“Nh ưng ông bà ngo ại đâu h ả m ẹ?”
Cô yên lặng nhìn con trai. Cô đã trăn trở với câu hỏi đó suốt cả cu ộc đời và lúc này đây con trai cô lại vô tình hỏi cô câu đó. Cô không biết ph ải trả lời nó th ế nào. Cô ch ưa bao giờ biết mặt bố m ẹ mình. Khi còn nhỏ, cô đã hỏi ng ười ta về họ nh ưng ch ẳng bao giờ nh ận được câu trả lời.
Nh ững ký ức đầu tiên của cô là ở trong một ngôi nhà có rất nhiều trẻ em ở Reykjavík. Khi lớn lên, cô được k ể lại rằng mình ch ẳng có bố m ẹ hay ng ười thân nào hết, may nh ờ hội từ thiện giú p đỡ cô mới được ởđây. Côcứ ngẫm nghĩ v ề nh ững lời nói đó và cho đến mãi sau này m ới hiểu ra. M ột ngày cô được đưa ra khỏi ngôi nhà đó và v ề làm ng ười ở ột đôi v ợ chồng già. Đến khi trưởng thành, cô đến làm việc cho ng ười lái buôn. Đó là toàn bộ cu ộc đời cô trước kh i g ặp Grímur. Cô không có bố mẹ hay một n ơi nào đó để gọi là nhà, không có một gia đình với h ọ hàng, cô dì chú bác, ông bà, anh em. Trong giai đo ạn từ thiếu nữ trở thành phụ nữ, cô khô ng ng ừng băn kho ăn về việc mình và b ố m ẹ mình là ai. Cô không biết phải tìm câu trả lời ở đâu n ữa.
Cô hình dung ra rằng họ ch ết trong m ột vụ tai nạn. Đây là điều cô tự đặt ra để mà an ủi chính mìn h, vì cô không thể chịu đựng được khi nghĩ rằng họđã bỏ rơi cô – đứa con bé bỏng của họ. Cô tưởng tượng ra rằng họđã cứu mình và ch ết, thậm chí là đã hy sinh cuộc đời mìn h ch o con. Cô luôn luôn nhìn họ bằng thứ ánh sáng ấy- giống như nh ững vị anh hùn g đã chiến đấu để b ảo vệ cho cu ộc sống của mình và con gái. Cô không th ể hình dung ra được là bố m ẹ mình còn sống. Đối với cô, điều đó thật khô ng thể tưởng tượng nổi.
Khi cô gặp một than h niên ngư dân – bố Mik kelína, cô đã nhờ ng ười đó tìm câu trả lời giúp mìn h, và họ đến một loạt các văn phò ng nhưng vẫn kh ông biết một chút thôn g tin gì về cô cả, ngo ại trừ rằng cô là m ột đứa trẻ m ồ côi. Người ta ghi cô là “trẻ m ồ côi”. Giấy khai sinh của cô cũn g khôn g có thông tin gì v ề bố m ẹ. Cô và người đàn ông đó đã đến gia đình mà cô từng ở với nh ững đứa trẻ khác, họ nói chuy ện với ng ười ph ụ n ữ trước đây là m ẹ n uôi của cô nh ưng bà ta cũng ch ẳng nh ớ được gì.
“Họ trả tiền cho cô,” bà ta nói. “Còn chúng tôi thì cần tiền.”
Bà ta ch ưa bao giờ th ắc mắc v ề quá kh ứ của cô.
Trước khi Grímur về nhà và nói rằng mình đã biết bố m ẹ cô là ai và làm thế nào mà cô có m ặt trên thế giới n ày, cô đã thôi không còn băn kho ăn xem họ là ai từ lâu lắm rồi. Nhìn Grímur nói v ề cái đêm thác lo ạn ở nhà máy sản xuất khí đốt, cô có thể thấy sự th ỏa mãn b ệnh ho ạn của h ắn.
Tất cả những suy nghĩ này lướt qua đầu óc của cô khi cô nhìn Símon, và trong một thoáng cô như chực nói ra một điều quan trọng với thằng bé trước khi kịp đột ng ột bảo nó khô ng được đặt nh ững câu hỏi liên miên nh ư th ế n ữa.
Gần nh ư cả th ế giới đang sôi lên tro ng chiến tranh. Nó đã lan đến tất cả các con đường d ẫn đến phía bên kia ngọn đồi – nơi các đơn vị chiếm cứ của Anh b ắt đầu cho xây các công trình trông giống nhưổ bánh mỳ mà họ gọi là doanh trại. Símon không hiểu từđó là gì. Bên trong các doanh trại được cho là chứa một thứ gì đó có tên khó hiểu không kém. M ột cái kho quân sự.
Đôi khi nó cùng Tómas chạy lên đồi để xem binh lính. Họđã vận ch uy ển gỗ, xà nhà, tôn sóng, hàng rào, dây thép gai, xi m ăng, máy trộn xi m ăng và một xe ủi đất để dọn chỗ cho các doanh trại lên đồi. Họ cũng xây một cái boong- ke bao quát toàn bộ Grafarvogur, và một ngày, hai anh em trông thấy ng ười Anh đưa m ột khẩu đại bác lên đồi. Khẩu súng được lắp vào boong- ke, cái nòng kh ổng lồ của nó chĩa thẳng lên trên ph ải đến vài m ét qua m ột khe h ở. Nhìn nó người ta có cảm tưởng kh ẩu sún g đã sẵn sàng bắn kẻ thù tan xác thành trăm mảnh. Họ đến để giúp Iceland chiến đấu ch ống lại qu ân Đức – những kẻ tuyên chiến và giết tất cả nh ững ng ười chúng b ắt được, thậm chí là cả nh ững đứa bé như Símon hay Tómas.
Nh ững ng ười lính dựng m ột hàng rào bao quanh tám doanh trại và xây một cái cổng có đề dòng ch ữ b ằng tiếng Iceland “KHÔNG PHẬN SỰ MIỄN VÀO”. Một lính canh luôn b ồn g súng đứng ở một chòi gác ngay tại cổng. Họ không quan tâm đến hai đứa bé, còn hai đứa nó thì luôn chú ý giữ m ột kho ảng cách an toàn. Khi đẹp trời, Símon và Tómas lại đưa chị chúng lên đồi, đặt chị xuống đám rêu để xem nh ững ng ười lính đang xây gì, chúng còn chỉ cho Mikkelína th ấy cái nòng súng chĩa lên từ boong- ke. Mikkelína nằm xuống và nhìn m ọi thứ xung quanh mìn h, nhưng con bé yên lặng và trầm m ặc khiến Símon có cảm giác nh ư chị nó sợ trước nh ững gì mình trông th ấy: bin h lính và kh ẩu đại bác kh ổng lồ.
Tất cả qu ân lính đều mặc quần áo kaki có thắt lưn g, ch ân đi nh ững đôi ủng đen chuyên dụng cao đến mắt cá, m ột số còn đội m ũ bảo hiểm và đeo súng trường ho ặc súng ng ắn tron g bao. Khi trời ấm áp, họ cởi áo khoác và áo phông ra, cởi trần n ằm phơi nắng. Các thao tác tập luyện quân sự diễn ra rất th ường xuy ên trên đồi, khi đó các binh lính nằm giấu mình, ch ạy lên từ vị trí nấp, lao mình lên m ặt đất và b ắn. Tiếng ồn ào và nh ạc nổi lên ở do anh trại vềđêm. Đôi khi họ bật m ột cái máy phát nh ạc lạo xạo còn tiếng hát thì loảng xo ảng. Có nh ững lúc quân lính hát đến khu ya nh ững bài hát của đất nước họ mà Símon biết là nước Anh, còn Grímur nói rằng đó là m ột đế ch ế.
Chúng kể ẹ nghe tất cả nh ững gì đang diễn ra ở phía bên kia ngọn đồi, nhưng cô không chú tâm lắm. Tuy nhiên, có m ột lần, chúng đưa m ẹ lên đỉnh đồi và cô quan sát doanh trại của quân Anh khá lâu, sau đó khi về nhà, cô nói về tất cả nh ững sự nguy hiểm ởđó và cấm ba đứa khôn g được lảng vảng qu anh khu vực đó nữa, bởi vì chúng không bao giờ có thể biết được chuy ện gì sẽ x ảy ra khi ng ười ta có súng trong tay và cô thì không muốn chúng g ặp bất kỳ một m ối ng uy hiểm nào.
Th ời gian cứ thế trôi đi, bỗng dưng một hôm doanh trại của quân Anh tràn ng ập binh lính Mỹ, gần nh ư tất cả quân Anh đã rời đi. Grímur nói rằng họ bị đưa đi giết còn ng ười Mỹ sẽ rất th ảnh thơi ở Icelan d, ch ẳng cần ph ải lo gì h ết.
Grímur nghỉ làm than, bây giờ hắn chu y ển sang làm việc cho lính Mỹ trên đồi vì ở doanh trại đó có rất nhiều tiền, công việc ph ải làm ởđó cũng nhiều không kém. M ột ngày, hắn đi bộ lên đồi và xin làm việc ở kho quân nhu, và không ph ải mất nhiều công sức, h ắn được nh ận vào làm ởđó và nhà ăn tập thể. Kể từ đó trởđi, b ữa ăn trong gia đình đã được cải thiện hơn m ột ch út. Grímur mang v ề một cái hộp màu đỏ có chìa khóa bên cạnh. Hắn lấy chìa khóa m ở cái nắp hộp ra và dốc ng ược nó xuống, ngay lập tức một tảng thịt màu hồng có ph ủ nước thịt đông tro ng suốt rơi xuống cái đĩa. T ảng thịt rung rinh và có vị m ặn rất n gon.
“T hịt giăm- bông,” Grímur nói. “Chính hiệu Hoa Kỳ đấy.”
Símon ch ưa bao giờ được ăn th ứ gì ngon nh ư th ế trong đời. Lúc đầu nó ch ẳng b ăn kho ăn lắm v ề ch uy ện tại sao món ăn đó lại xu ất hiện ở nhà mình, nh ưng nó thấy vẻ m ặt lo lắng của m ẹ khi Grímur mang về nhà một thùng ch ứa đầy hộp thịt và giấu chúng trong nhà. Đôi khi Grímur đi Reykjavík, mang theo h ẳn m ột bao tải ch ứa đầy nh ững chiếc hộp nh ư th ế và nhiều lo ại hàng hóa khác n ữa mà Símon không biết là gì. Khi trở về, h ắn đổ tiền ra m ặt bàn rồi đếm, nh ững lúc nh ư th ế Símon th ấy h ắn rất hạnh phúc – điều màtừ trước tới nay Símon ch ưa từng ch ứng kiến. Grímur không còn quá h ằn học v ới m ẹ chúng n ữa, không nói v ề nhà máy sản xu ất khí đốt, và h ắn còn xoa đầu Tómas n ữa.
Th ời gian cứ thế trôi đi, lúc này trong ngôi nhà của h ọđã ng ập đầy các món hàng hóa của M ỹ: thuốc lá, th ực ph ẩm đóng hộp, hoa qu ả, và thậm chí là cả bít tất ni- lông mà theo như mẹ chúng nói, đó là niềm m ơ ước của tất cả ph ụ n ữở Reykjavík.
Chẳng có món đồ nào ở nhà họ được lâu. Có một lần Grímur mang về nhà một cái gói nhỏ v ới mùi th ơm điếc mũi nh ất mà Símon từng được ngửi. Grímur mở nó ra cho cả nhà cùng thử và nói rằng đó là thứ mà ng ười Mỹ nhai suốt, nh ư là bò nhai cỏ vậy. “Chúng mày không được nuốt, sau một lúc ph ải nh ổ nó ra rồi lấy m ột miếng mới.” Símon, Tómas, và thậm chí cả Mikk elín a cũng được hắn đưa ột miếng nhỏ màu hồng thơm ph ức. Ch úng nhai lấy nhai để, sau đó nh ổ bã ra và lại được lấy thêm miếng nữa.
“Cái này có tên là k ẹo cao su,” Grímur nói.
Grímur nhanh chóng học được cách nói chuyện bằng tiếng Anh và kết bạn với lính. Thỉnh thoảng khi họ được nghỉ, Grímur lại m ời họ v ề nhà ch ơi, và m ỗi lần như thế, Mikkelína lại phải giam mình trong nhà kho ch ật chội, hai thằng con trai ph ải chải tóc đàng hoàng, còn m ẹ chúng phải m ặc váy tử tế và ra trình diện. Những ng ười lính đến ch ơi cư x ử rất lịch thiệp, họ chào cả nhà b ằng nh ững cái bắt tay siết chặt, tự giới thiệu về mình và cho kẹo m ấy đứa nh ỏ. Sau đó họ ngồi chè chén v ới nhau. Tàn cuộc, họ lên xe Jeep về Reykjavík và sau đó mọi thứ trong ngôi nhà lại chìm vào yên ắng, b ởi vì ngoài họ ra ch ẳng còn ai đến đây chơi nữa.
Tuy nhiên, thông thường, nh ững ng ười lính đi thẳng đến Reykjavík rồi đến đêm lại quay v ề và ca hát. Tiếng họ la hét và gọi nhau í ới làm náo động cả ng ọn đồi, và có một hai lần tiếng súng vang lên nh ưng không ph ải là tiếng đại bác vì, theo như Grímur nói, điều đó có nghĩa là: “Bọn Đức quốc xã khốn kiếp đang ở Reykjavík và chúng sẽ giết tất cả chúng ta trong nháy m ắt.” Hắn th ường đến thành phố với b ọn lính cảđêm và khi trở về, hắn hát nh ững bài hát Mỹ. Símon ch ưa bao giờ nghe Grímur hát trước mùa hè n ăm đó.
Có một lần, Símon ch ứng kiến m ột sự lạ.
Hôm đó, có một người lính Mỹđi lên đồi, tay cầm một cần câu, dừng lại ở bờ hồ Reynisvatn và quăng dây câu cá hồi. Sau đó anh ta xuống đồi, cầm theo cần câu và huýt sáo suốt dọc đường đến hồ Hafravatn, rồi anh ta quan h quẩn ởđó cả ngày. Hô m đó là một ngày mùa hè đẹp trời, anh ta đi quanh hồ và thả câu bất cứ khi nào thấy thích. Thay vì câu được nhiều cá, anh ta lại có vẻ thích được ở bên hồ trong tiết trời đẹp như thế hơn. Anh ta ngồi xuống, hút thuốc và tắm nắng.
Đến kho ảng ba giờ, dường nhưđã nghỉ ngơi đủ, anh ta thu dọn cần câu v à cái túi đựng ba con cá hồi rồi đi bộ lên đồi. Nh ưng thay vì đi qua ngôi nhà, anh ta dừng lại và nói điều gì đó mà Símon không hiểu. T ừ đầu đến giờ thằng bé đã theo dõi sát sao m ọi cử động của anh ta và lúc này nó đan g đứng ở cửa chính.
“Bố m ẹ cháu có ở nhà không?” ng ười lính mỉm cười hỏi Símon bằng tiếng Anh và ngó vào bên trong. Cứ mỗi khi đẹp trời là cửa nhà lại m ở. Tómas đã đưa Mikkelína ra khoảng đất nắng sau nhà và đang nằm ởđó cùng chị. Ng ười mẹđang dọn dẹp ở trong nhà.
Símon không hiểu ng ười lính nói gì.
“Cháu không hiểu à?” Ng ười lính nói. “Tên chú là Dave. Chú là ng ười Mỹ.”
Hiểu rằng tên anh ta là Dave, Símon g ật đầu.
Dave giơ cái túi ra trước mặt thằng bé, để xu ống đất, m ở nó ra và lấy ra ba con cá hồi.
“Chú cho cháu cái này. Cháu có hiểu không? Cho nhà cháu đấy. Chúng rất ng on đấy!”
Símon nhìn Dave chằm ch ằm kh ông hiểu gì. Dave mỉm cười, phô ra hàm răng trắn g bóng. Anh ta thấp và g ầy, khuôn mặt xương, mái tóc dày màu đen chải gọn gàng sang m ột b ên.
“M ẹ cháu có nhà không?” anh ta hỏi. “Hay b ố cháu cũng được?”
Símon ng ơ ngác. Dave cởi cúc túi áo, lấy ra một quy ển sổ màu đen và lật nhanh đến trang cần tìm. Anh ta b ước lại chỗ Símon và chỉ vào m ột câu trong đó.
“Cháu có biết đọc không?”
Sím o n đọc cái câu mà Dave ch ỉ tay vào. Nó hiểu được vì câu này viết b ằng tiếng Iceland, nh ưng bên d ưới là một cái gì đó của nước ngoài mà nó không hiểu được. Dave đọc to câu viết b ằng tiếng Iceland, cẩn th ận h ết sức có th ể.
“My name is Símon,” nó mỉm cười và nói. Dave còn cười to hơn. Anh ta tìm một câu khác và chỉ cho th ằng bé xem.
“Quý cô có khỏe không?” Símon đọc.
“Ph ải, nhưng không ph ải là quý cô, hỏi cháu cơ mà,” Dave cười to, nh ưng Símon không hiểu. Dave tìm một từ khác và đưa cho Símon xem. “M ẹ,” Símon đọc to, và Dave chỉ vào nó kèm theo một cái g ật đầu.
“Ởđâu?” Dave h ỏi bằng tiếng Iceland, và Símon hiểu là anh ta đang hỏi về mẹ mình. Símon ra hiệu cho Dave đi theo mình và dẫn anh ta vào bếp, nơi m ẹ nó đang ngồi vá tất ở bàn. Cô mỉm cười khi th ấy Símon bước vào, nh ưn g khi thấy người đàn ông lạ đi sau thằng bé, nụ cười của cô kh ựng lại, cô làm rơi cái tất và nh ảy lên gh ế. Dave, lúc này cũng lùi lại, b ước về phía trước và xua tay rối rít.
“Xin lỗi,” anh ta nói. “Tôi rất xin lỗi. Tôi không mu ốn làm kinh động đến cô.”
Mẹ Símon lao đến ch ỗ bồn rửa bát và nhìn ch ằm ch ằm xuống dưới nh ư th ể không dám nhìn lên.
“Símon, con hãy đưa anh ta ra ngoài đi, Símon,” cô nói.
“Vâng, tôi sẽ đi,” Dave nói. “Không có gì đâu. Tôi xin lỗi.
Tôi đi đây. Xin cô, tôi…”
“Sím on, đưa anh ta đi,” ng ười mẹnh ắc lại.
Lún g túng trước ph ản ứng của mẹ, Símon h ết nhìn ng ười này
lại nhìn ng ười kia, sau đó nó th ấy Dave đi kh ỏi b ếp ra ngoài sân.
“T ại sao con lại làm th ế với m ẹ?” cô nói và quay sang Símon. “Con dám đưa một người đàn ông vào đây. Tại sao con lại làm thế?”
“Con xin lỗi,” Símon nói. “Con tưởng là chuyện đó cũng bình
thường. Tên chú ấy là Dave.”
“Anh ta mu ốn gì?”
“Ch ú ấy muốn cho chúng ta cá,” Símon nói. “Nh ững con cá ch ú ấy câu được ở h ồ. Co n nghĩ chuy ện đó cũng bình th ường thôi. Chú ấy chỉ mu ốn cho chúng ta cá thôi mà.”
“L ạy Chúa, ch ết m ất thôi! Ôi Ch úa ơi, ch ết m ất thôi! Con không bao giờ được làm như th ế nữa. Không bao giờ! Mik kelína và Tómas đâu?”
“Ở sau nhà ạ.”
“Chúng không sao ch ứ?”
“T ất nhiên rồi m ẹ. Mikk elín a mu ốn sưởi nắng.”
“Con không bao giờ được làm như thế nữa,” cô nhắc lại trong
lúc đi ra ch ỗ Mikkelína. “Con nghe rõ ch ưa? Không bao giờ.”
Cô đi ra chỗ góc nhà và thấy ng ười lính đang đứng ch ỗ Tó mas và Mikkelín a, anh ta nhìn chằm ch ằm vào cô bé đầy bối rối. Mik kelína ngh ển cổ lên xem ai đang đứng trước mặt mình. Con bé không thể nhìn thấy khuôn mặt của ng ười lính vì anh ta đứng quay lưng về phía m ặt trời. Ng ười lính nhìn m ẹ cô bé, rồi lại nhìn Mik kelína đang qu ằn quại trên m ặt đất.
“Tôi …” Dave ấp úng. “Tôi không biết ch uy ện này,” anh ta nói. “Tôi xin lỗi. Thực sự xin lỗi. Đây không phải là việc của tôi. Tôi xin lỗi. “
Sau đó anh ta qu ay ng ười và bước đi thật nhanh, họ nhìn theo bóng anh ta cho đến khi nó d ần biến mất trên đồi.
“Các con không sao ch ứ?” ng ười m ẹ hỏi tron g lúc quỳ xuống bên Mikkelína và Tómas. Lúc này cô đã bình tĩnh hơn khi thấy rõ ràng là ng ười lính không làm gì h ại bọn trẻ cả. Cô b ế Mik kelína lên, đưa nó vào nhà và đặt nó trên chiếc đi- văng trong bếp. Símon và Tómas đi theo m ẹ.
“Dave không phải là người xấu,” Símon nói. “Chú ấy khác.”
“Tên anh ta là Dave à?” người m ẹ hỏi trống rỗng.
“Dave,” cô nh ắc lại. “Cái tên đó cũng gần nh ư Davíd tro ng tiếng Iceland phải không?” cô hỏi, gần như là hỏi chính mình chứ khô ng ph ải ai khác. Và lúc ấy chuyện đó xảy ra, một ch uy ện hết sức kỳ lạ đối v ới Símo n.
M ẹ nó mỉm cười.
Tómas lúc nào cũng bí hiểm, lặng lẽ như m ột kẻ cô độc vậy, nó có v ẻ nhút nhát và hay xấu hổ, thuộc típ ng ười trầm. Mùa đông năm trước, dường nh ư Grím ur đã thấy điều gì đó ở thằng bé khiến hắn ta quan tâm đến nó hơn là Símon. Hắn chú ý đến thằng bé và đưa nó vào một phòng khác. Khi Símon hỏi em xem bố vừa nói v ới nó chuy ện gì, Tómas chẳng nói n ửa lời, nh ưng Símon cứ khăng kh ăng hỏi, nên sau một hồi nịnh nọt em, nó biết rằng h ọđã nói chuyện v ề Mik kelín a.
“Ông ta nói gì với em về chị Mikkelína?” Símon hỏi.
“Không có gì đâu,” Tómas đáp.
“Có, ông ấy có nói. Nói gì nào?” Símon h ỏi.
“Không mà,” Tómas nói, khuôn m ặt nó thoáng vẻ bối rối như thểđang cố g ắng giấu anh điều gì đó.
“Nói cho anh biết đi. “
“Em không muốn. Em không mu ốn ông ta nói chu yện với em. Em không muốn ông ta làm th ế.”
“Em không muốn ông ta nói ch uy ện với em à? Vậy ý em là em không muốn ông ta nói ra những điều đó phải không? Ý em là th ế ph ải không?”
“Em chẳng mu ốn gì cả, thế thôi,” Tómas đáp. “Và anh cũng đừng có nói chuy ện v ới em n ữa. “
Nhiều tu ần và tháng trôi qua, Grímur th ể hiện sự quan tâm của mìn h đối với thằng con út bằn g nhiều cách khác nhau. M ặc dù Símon không bao giờ góp m ặt vào cuộc trò chu y ện của họ, vào một buổi tối cuối hè nó đã phát hiện ra điều mà họđang làm. Grím u r đang ch ờ để lấy hàng từ một ng ười lính có tên là Mike. Mike có m ột chiếc xe jeep riêng và họ d ự định sẽ chất hàng lên đó để đem lên thành phố bán. Ng ười m ẹđang nấu nh ững đồ ăn
lấy từ doanh trại. Mikkelína đang n ằm trên giường.
Sím on để ý thấy Grímur đẩy Tómas đến chỗ Mikk elína, hắn thì thào vào tai nó và mỉm cười giống nh ư khi nh ận xét đầy ác ý về hai thằng bé. M ẹ chún g thì kh ông để ý còn Símon thì không thực sự hiểu ch uy ện gì đang x ảy ra cho đến khi Tómas đến chỗ Mikkelína (Grímur thì không ng ừng giục giã nó) và nói:
“Đồ chó cái.”
Sau đó nó ch ạy lại ch ỗ Grímur khiến hắn cười hả hê và vỗ nh ẹ vào đầu th ằng bé.
Símon nhìn ra bồn rửa bát chỗ m ẹ nó đan g đứng. Dù ch ắc ch ắn đã nghe thấy nh ưng lúc đầu cô vẫn không cử động và không có phản ứng gì, như thểđang cố lờđi chuy ện đó. Ngo ại trừ việc thằng bé để ý thấy m ột tay m ẹ nó vẫn đang cầm dao gọt vỏ khoai tây, những khớp ngón tay của cô hằn lên trắng bệch khi cô xiết ch ặt cán dao. Sau đó cô từ từ quay lại, tay vẫn cầm dao và nhìn Grímur ch ằm ch ằm.
“Đó là điều mà anh không bao giờ được làm,” cô nói, giọng run run.
Grímur nhìn cô, điệu cười toe toét khựng lại trên mặt.
“Tao á?” Grímur nói. “Ý mày là sao, không bao giờ được làm ư? Tao chẳng làm gì cả. Thằng bé làm đấy chứ! Tómas con trai tao làm đấy chứ!”
Người mẹ bước một bước đến gần chỗ Grímur, tay vẫn nắm chặt cán dao.
“Để Tómas được yên.”
Grím đứng lên.
“Mày định làm gì với con dao đó?”
“Đừng có làm thế với thằng bé,” cô nói, và Símon cảm thấy mẹ nó đang chùn lại. Nó nghe tiếng xe jeep bên ngoài.
“Ông ta đến rồi,” Símon hét lên. “Mike đến rồi.”
Grímur nhìn qua cửa sổ rồi lại nhìn ng ười v ợ, trong một tho áng kh ông khí căng thẳng chùng xuống. Cô đặt dao xuống. Mike xu ất hiện ở bậc cửa. Grímur mỉm cười.
Đêm hôm đó khi quay về hắn đánh vợ bất tỉnh. Buổi sáng hôm sau, mắt cô tím bầm, còn chân thì đi cà nhắc. Mấy đứa trẻ nghe tiếng bố chửi bới khi đấm mẹ thùm thụp. Tómas bò đến giường Símon và nhìn anh qua màu đen kịt của bóng tối, nó choáng váng, miệng lẩm bẩm liên hồi như th ể làm như thế sẽ xóa bỏ được những chuyện đã diễn ra.
” …xin lỗi, em không cố ý, xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi…”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.