Cái Dũng Của Thánh Nhân

CHƯƠNG IV: ĐỪNG NÓI SAI



Nói thật, và chỉ biết nói thật mà thôi, là tập cho mình có một tinh thần bất uý.

Trong đời, nhất thiết việc gì, phải tập tánh nói cho đúng với sự thật.

Ấy là một tánh, cần phải tập luyện từ nhỏ mới đặng, đừng để bị phải thói quen mà sau nầy không dễ gì sửa đổi cho được.

Washington, lúc còn trẻ, một hôm đẽo cây quí của cha trồng. Lúc cha của ông hầm hầm giận dữ, ông vẫn có đủ can đảm thú tội của mình, không sợ hình phạt gì cả. Cha thấy con như thế, đổi giận làm vui, ôm con và nói: “Tất cả sự sản của cha không quý bằng cái tánh ngay thật của con”. Thật vậy, cái tinh thần ấy làm cho ông sau này trở nên một bực anh hùng cái thế.

Người ta sở dĩ nói láo là vì sợ mà nói. Sợ oai quyền, sợ hình phạt, sợ thất lợi, sợ cười chê Mỗi khi ta thấy bị hoàn cảnh lôi cuốn phải nói dối, hãy bình tâm suy nghĩ, tìm xét căn nguyên, ta sẽ thấy không ngoài những nguyên nhân đã nói trên. Nói dối, là tỏ ra mình bị kẻ khác khu-xử.

Nhiều khi nói dối lại được thiên hạ ban cho cái tên rất tốt đẹp là người nhã nhặn. Kỳ thật, là người nhút nhát, chỉ biết vì mình chớ không phải vì người. Nói sự thật thì mích lòng, thì nói hùa theo có phải lợi được người ta ưa mình không? Đó là dua nịnh, đó là con buôn. Người như thế là người mà ai ai cũng ưa, nhưng ai ai cũng ngờ Còn cầu đến sự thương yêu của người, là còn sợ người chê bai. Người như thế không phải là người điềm đạm được.

Phải tập cái tánh ưa sự thật, ghét sự dối. Đừng có nói: “Một lần, đâu phải thói quen”. Không! “Kẻ trộm một hột gà, sẽ trộm một con bò”. Nói dối một lần lương tâm cắn rứt, nhưng rồi bỏ qua. Nói dối nhiều lần sẽ lần lần thành thói quen, lương tâm không còn cắn rứt nữa, người ta sẽ nói dối như ăn bữa, không chút ái ngại gì cả.

Ta phải thật nghiêm khắc với ta về vấn đề nầy. Ta phải xem lời nói ta như một lời viết ra ngoài mặt giấy, như một danh dự thiêng liêng bất khả xâm phạm. Thà là không nói gì hết. Mà hễ nói ra là lời đúng với sự thật. Không có một quyền thế nào, không có một lợi danh nào bắt buộc ta phải nói sai sự thật được cả.

Không nói dư, mà nhứt là không bao giờ nên nói sai sự thật. Chỉ có được như thế, tinh thần ta mới đứng được vững vàng, không phải bị một lực lượng ngoại giới nào lay chuyển được.

Thôi Tử là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội hợp sĩ phu lại ăn thề. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.

Thôi Tử bảo Án Tử: “Người nghe ta. Ta lấy được nước thì chia cho một nửa. Nhược bằng không nghe ta giết ngay lập tức”.

Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử không biến sắc mặt, ung dung nói rằng: “Lấy lợi mà nhử người ta, bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, mà làm cho người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta không theo việc nhà ngươi làm”.

Thôi Tử nghe nói, không dám làm gì Án Tử. Án Tử đứng dậy, khoan thai bước ra.[15]

Nước Lỗ có một cái đỉnh rất quý.

Nước Tề bắt phải đem dâng. Vua Lỗ tiếc lắm, cho làm một cái đỉnh giả đưa sang.

Vua Tề bảo: “Phải có Nhạc Chính Tử đem sang nói, ta mới tin”.

Vua Lỗ cho gọi Nhạc Chính Tử đến bảo đi.

Nhạc Chính Tử hỏi: “Sao không đưa cái đỉnh thật?”

Vua Lỗ nói: “Ta quí nó lắm”.

Nhạc Chính Tử thưa: “Nhà vua quí cái đỉnh ấy thế nào, tôi quí cái đức “Tín” của tôi cũng như thế”.

Sau Vua Lỗ phải đưa đỉnh thật, Nhạc Chính Tử mới chịu đi.[16]

Như xem hai câu chuyện trên đây, Án Tử nếu không phải là người chí dũng, thì không bao giờ dám nói sự thật giữa đám quân binh kiếm kích.

Có đủ can đảm nói sự thật, phải chăng là biểu hiện của một tấm lòng điềm đạm chí cực. Hay là nói một cách khác, chỉ có kẻ nào có được một tinh thần bất uý mới có thể đủ can đảm nói sự thật mà thôi.

Còn Nhạc Chính Tử nhất sinh không bao giờ chịu nói dối, dẫu vì lợi cho vua nước mình cũng vậy. Người như thế, chẳng những vua nước Tề mà chính vua của ông ta, cũng phải nể mặt. Dầu là lệnh vua cũng không sao khiển nổi Nhạc Chính Tử nghe theo mà nói dối với vua Tề. Thế thì, có phải vì hằng ngày Nhạc Chính Tử không bao giờ chịu nói dối mà tinh thần bất uý của ông được kiên cố, mạnh mẽ thêm lên mãi, đến không còn biết sợ một thế lực nào cả nữa không?

Mỗi một khi ta nói dối, tinh thần ta giảm bớt dũng khí đi một ít. Càng nói dối chừng nào thì cái dũng khí của mình càng suy nhược chừng nấy. Cho nên những kẻ ham nói dối là những người khiếp nhược. Mỗi khi ta nói dối là mỗi khi ta nuôi dưỡng tánh hèn nhát của ta.

Giáo dục ngày nay, quá thiên về vật chất, chỉ mong cho có nhiều của tiền để mua lấy sự sung sướng nhục thân, cùng là khu-xử kẻ khác cho thỏa lòng tự ái của mình. Bởi vậy óc kinh doanh, nghề buôn bán mới thịnh hành.

Người ta tưởng rằng có tiền bạc cho nhiều là nhiều thế lực làm cho kẻ khác phải kinh sợ mình. Cái nghĩ ấy không phải lầm, nhưng họ quên rằng chính họ là người sống trong sự lo sợ hơn ai cả. Họ không dám “nói thật”, vì “nói thật” thì lợi sẽ không được nhiều mà còn có hại cho họ là khác. Huống chi, những kẻ buôn bán mà chỉ nhờ giả dối làm nên sự nghiệp ức vạn cũng được thiên hạ tôn thờ kia mà!

Lối giáo dục xem bọn người có tiền bạc nhiều là tôn quí, mà không cần xét đến nhân cách họ như thế nào, khiến cho lòng người, chỉ biết ham lợi lộc thế quyền, không cần gì đến sự ăn ngay ở thật. Trái lại, xã hội Đông phương cổ thường xem khinh bọn người buôn bán, họ sắp “sĩ, nông, công, thương” cũng không phải là không có duyên cớ. Kể ngay như “ở bên nước Nhật ngày nay, trong những buổi tiệc long trọng của nhà vua, những kẻ cùng được dự yến bên vua là các bực Samourai nghèo. Những anh triệu phú, trái lại ngồi ở nơi những bàn thấp nhất và xa nhất. Nhà thương mãi trong nước là những người giàu nhất, mà cũng là hạng người bị khinh bỉ nhất”.[17]

Muốn tập tánh ăn ngay nói thật, cần phải khởi từ hồi con người đang còn thơ ấu. Tập cho chúng nó biết sùng bái sự ngay thẳng cương trực, và biết khinh bỉ sự dối trá dua bợ. Lâu ngày cái tinh thần chiếu cố ấy ăn sâu vào tinh tuỷ, biết đâu sau nầy trong đám con trẻ ấy không có người như Nhạc Chính Tử. – Trái lại, giáo dục ngày nay, chuộng sự hư trá hơn là ngay thật. Rủi đứa con nó làm một lỗi gì, mình chịu thấy nó sợ mình mà nói dối, hơn là thấy nó can đảm nhận tội. Vì họ cho như thế là đứa trẻ tỏ ra không biết sợ oai họ.

Họ lại còn cho những sự dối láo là những cách khôn khéo ở đời. Đứa nào môi miếng lanh lợi là đứa khôn ngoan sắc sảo, về sau thế nào cũng đắc thắng trên đường đời. Còn những đứa ăn ngay nói thẳng, thật thà ít nói lại cho là đứa ngu si đần độn không ra gì.

Một xã hội như thế, thì làm gì có những bực đại dũng biết quí lời nói thật thà như Nhạc Chính Tử.

Thánh Gandhi là người thứ nhất dám tự hào: “Tôi không bao giờ biết nói dối”. Thật vậy, mặc dù ông là một nhà chính trị, đối với phe nghịch ông, ông cũng không bao giờ nói dối để được việc cho mình. Lời nói ông là một bảo đảm chắc chắn hơn tất cả những hiệp ước. Hễ ông hứa một điều gì, thì việc ấy kể là đã được ông thi hành rồi. Theo luật Võ sĩ đạo (Bushido) của người Nhật cũng vậy. Họ lấy sự giữ lời hứa là một danh dự riêng của người đại dũng. Nói dối, theo họ, là một khiếp nhược.

Truyền rằng Gandhi sở dĩ có được một tinh thần như thế là nhờ sự khéo dạy của bà mẹ. Một hôm Gandhi đi học về. Lúc ấy ông còn nhỏ. Vì sợ bị quở trách ông dối mẹ. Bà mẹ biết, bèn nhứt định không ăn cơm. Ông khóc cầu khẩn mẹ ăn, nhưng bà mẹ cương quyết không chịu thay đổi ý kiến. Gandhi là người con chí hiếu, khóc lóc xin mẹ cho rõ vì đâu mẹ giận. Bà nói: “Mẹ thà thấy con chết hơn là thấy con nói dối. Vì nói dối là tỏ ra mình có một tâm hồn khiếp nhược. Có con như thế là một cái nhục cho mẹ. Mẹ không muốn sống nữa”. Gandhi bèn quả quyết đứng lên, đi thẳng lại chỗ nấu ăn, lấy một cục lửa than để trên bàn tay và nói: “Con thề với mẹ, suốt đời con không bao giờ nói dối”. Bà mẹ mừng quá, ôm con vào lòng, khóc: “Được vậy, thời mẹ mới có đủ can đảm sống nữa với con”. Về sau, Gandhi không bao giờ thất hứa với mẹ. Ông thường bảo với kẻ khác: “Cái vết trên bàn tay tôi đây là hình bóng của mẹ tôi, không bao giờ rời khỏi tôi. Đấy là vị thiên thần phò hộ tôi mãi ở trong vòng thành thực và danh dự”.

Nếu muốn làm đệ tử của Điềm Đạm, phải có đủ can đảm hy sinh cả cái lợi vật chất của cá nhân, cái lợi được người yêu kẻ mến, cái lợi “phì gia vinh thân”, cái lợi “nhất bổn vạn lợi”. Không phải bảo kẻ Điềm Đạm luôn luôn phải nói sự thật. Không. Sự thật không phải luôn luôn nên nói: chấp kinh, âu cũng phải biết tùng quyền. Nhưng, nếu vì hoàn cảnh không nên nói, thì thà đừng nói gì cả. Còn thấy cần phải nói, thì lời nói mình phải cho ngay thật. Nếu vì lợi cho mình mà nói dối, đó là vì khiếp nhược mà nói, nhất định không nên làm. Nhược bằng vì lợi cho người mà nói dối, thì cái dối ấy có khi ta cũng không nên câu chấp thái quá. Vì lợi cho người mà nói dối, chỉ ở trong trường hợp như thầy thuốc với bệnh nhân, hoặc gặp phải những sự nguy hiểm của kẻ khác, mình cần phải giấu để cứu họ thoát khỏi tai hạn, là có thể làm được mà không phải giảm đến cái dũng khí của mình thôi.

Ở bên Ấn Độ, các nhà đạo sĩ tịnh tâm thường hay dùng sự “cấm khẩu” làm diệu pháp. Trong lúc “cấm khẩu” họ không bị một lực lượng gì bắt buộc họ phải nói trái với ý nghĩ họ. Họ tha hồ muốn nghĩ gì theo sự thật. Lâu ngày, họ mất cái thói quen nói dối. Đó là một cách tu luyện tinh thần bất uý rất hay. Ở trong đời, ta không thể cấm khẩu đặng như các đạo sĩ ấy, thì hãy “cấm khẩu” ngay những lúc hoàn cảnh bó buộc ta không thể nói ngay sự thật.

Trong Ngũ giới của nhà Phật thì cấm Vọng ngữ làm đầu. Phải chăng đó là bước đầu tiên để được đi sâu vào cái tinh thần Đại Hùng, Đại Lực của Thích Ca.

Nếu không phải vì sợ oai thế hình phạt, vì muốn ăn mày ăn xin sự yêu thương của kẻ khác, hoặc vì muốn “ngọt mật chết ruồi”, thì chắc chắn là không có cái lợi gì khác buộc ta phải nói dối cả. Cho nên, chỉ khi nào ta diệt được ngay cái nguyên nhân của sự nói dối đi, thì tấm lòng mới vững vàng mà thờ phụng sự ngay thật. Đành rằng chỉ vì có được một tấm lòng bất uý mới có đủ can đảm nói luôn luôn sự thật: nhưng cũng vì nhờ hằng nói mãi sự thật mà dũng khí ta hằng được tăng gia kiên cố.

Chú thích:

[15] Cổ Học Tinh Hoa.

[16] Cổ Học Tinh Hoa.

[17] SAKURAZAWA NYOITI. Le livre des Fieurse Paris, Plon, (trang 165, ch. 1 và 2).


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.