Cái Ghế Trống

CHƯƠNG 11



Họ theo lối mòn đi xuyên qua khu rừng, xung quanh toàn mùi dầu thông và hương thơm ngọt của một trong những thứ cây cỏ mà họ quệt phải. Lucy Kerr nhận ra đó là hương thơm của một loại dây nho.

Mắt chăm chú soi lối mòn trải trước mặt, trông chừng dây bẫy, cô bỗng dưng để ý rằng đã một lúc lâu rồi họ chẳng có nhìn thấy bất cứ dấu chân nào của Garrett và Lydia. Cô đập lên cổ, tưởng đó là một con bọ đang bò, nhưng hóa ra đó là một dòng mồ hôi đang chảy xuống gây cảm giác nhột nhột. Hôm nay, Lucy thấy thật bẩn thỉu. Những lúc khác – buổi tối hoặc ngày nghỉ – cô mê được ở ngoài trời, trong vườn nhà mình. Cứ về đến nhà sau ca làm việc tại Văn phòng Cảnh sát trưởng, cô lại mặc chiếc quần soóc kẻ ca rô đã bạc và áo phông, xỏ đôi giày chạy màu xanh lính thủy, ra chăm bẵm một trong ba mảnh vườn vây xung quanh ngôi nhà kiểu thuộc địa quét vôi màu xanh lá cây nhạt mà Bud hăm hở ký chia cho cô khi làm thủ tục ly dị, với tâm trạng của kẻ có lỗi. Lucy săn sóc các luống hoa tím cựa dài, lan nữ hài màu vàng tươi, địa lan, loa kèn màu da cam. Cô xới đất, bắc cho cây leo lên giàn mắt cáo, tưới nước và thì thầm động viên y như cô đang nói với những đứa con mà cô từng chắc chắn rằng cô và Buddy sẽ có cùng nhau một ngày nào đấy.

Thi thoảng, nhiệm vụ đưa cô vào vùng nội địa của Carolina, thức hiện một lệnh bắt hoặc điều tra xem tại sao chiếc Honda hay Toyota được giấu trong ga ra của một người nào đó tình cờ lại thuộc quyền sở hữu của một người khác, Lucy để ý thấy một cái cây non và khi đã giải quyết xong công việc, cô sẽ đánh nó đưa về nhà như đưa về một đứa trẻ bị bỏ rơi vậy. Theo cách này, cô đã đưa về một khóm ngọc trúc. Cả một khóm phục linh. Và bụi trinh nữ dễ thương dưới bàn tay săn sóc của cô đã cao sáu feet.

Ánh mắt Lucy bây giờ chỉ nhìn lướt những cây cỏ cô đang đi ngang qua trong cuộc truy đuổi căng thẳng: một cây cơm cháy, một cây nhựa ruồi, những khóm lau. Họ đi ngang qua một cây anh thảo thật đẹp, rồi đám cỏ nến và lúa dại – chúng cao hơn bất cứ ai trong đội tìm kiếm, có lá sắc như lưỡi dao. Và đây là một cây thuộc họ huyền sâm, loài thảo dược sống ký sinh, mà Lucy Kerr cũng biết với cái tên khác nữa: cỏ chổi. Cô liếc nhìn nó một cái, rồi lại quan sát lối mòn.

Lối mòn dẫn tới một quả đồi dốc đứng – một quả đồi toàn đá tảng cao chừng hai mươi feet. Lucy leo lên dễ dàng, nhưng đến đỉnh đồi thì cô dừng bước, suy nghĩ. Không, có cái gì đó không ổn ở đây.

Bên cạnh cô, Amelia Sachs cũng đã leo lên đến đỉnh đồi và đứng đợi. Một lát sau, Jesse và Ned xuất hiện. Jesse thở dốc, còn đối với Ned, một tay bơi lội và thường xuyên vận động ngoài trời, thì cuộc việt dã vừa rồi chẳng mùi mẽ gì.

“Sao thế?” Amelia thấy Lucy cau mày, hỏi.

“Khả năng này không hợp lý. Garrett không có lẽ lại đi đường này.”

“Chúng ta đã theo lối mòn kia, như ông Rhyme hướng dẫn,” Jesse nói. “Đó là rặng thông duy nhất chúng ta đi qua. Dấu chân của Garrett dẫn đến đường này mà.”

“Các dấu chân đã dẫn đến phía này. Nhưng một lúc lâu rồi chúng ta chẳng còn nhìn thấy gì nữa.”

“Sao chị nghĩ hắn không đi đường này?” Amelia hỏi.

“Hãy nhìn cây cỏ mọc ở đây,” Lucy chỉ tay. “Mỗi lúc một nhiều các loài thực vật vùng đầm lầy hơn. Và bây giờ đứng trên cao này, chúng ta có thể nhìn bao quát hơn – hãy xem đất đai đã trở nên lầy lội như thế nào. Nào, hãy suy nghĩ đi, Jesse. Theo lối này thì sẽ tóm được Garrett ở đâu? Chúng ta đang tiến thẳng đến đầm lầy Sầu Thảm.”

“Cái gì?” Amelia hỏi Lucy. “Đầm lầy Sầu Thảm à?”

“Một đầm lầy mênh mông, một trong những đầm lầy lớn nhất bờ biển miền Đông,” Ned giải thích.

Lucy tiếp tục: “Không có gì che chắn ở đó, không nhà cửa, đường sá. Cách tốt nhất mà hắn có thể làm là lội sang Virginia, nhưng như thế thì mất hàng ngày trời.”

Ned Spoto bổ sung thêm: “Và vào thời gian này của năm, thuốc chống côn trùng không được sản xuất đủ để người ta tránh bị bọn chúng ăn gỏi. Chưa kể rắn rết.”

“Có chỗ nào xung quanh đây họ có thể ẩn nấp không? Hang động? Nhà cửa?” Sachs nhìn xung quanh.

Ned nói: “Không hang động. Có lẽ cũng có vài ngôi nhà cũ. Nhưng thực tế là mực nước ngầm đã thay đổi. Đầm lầy ngày càng tiến về phía này và nhiều ngôi nhà cũ bị ngập rồi. Lucy đúng đấy. Nếu Garrett đi đường này cũng có nghĩa là hắn đang đi vào ngõ cụt.”

Lucy nói: “Tôi nghĩ chúng ta phải quay lại.”

Cô tưởng Amelia sẽ xì một tiếng trước gợi ý này, những cô gái ấy đơn giản là rút điện thoại di động ra gọi. Cô nói vào điện thoại: “Bọn em đang ở trong rừng thông, Rhyme. Có một lối mòn nhưng bọn em chẳng thể tìm thấy bất cứ dấu hiện nào cho thấy Garrett đã đi theo lối mòn này. Lucy nhận định rằng việc hắn đã đi theo lối mòn này không hợp lý. Cô ấy bảo về phía đông bắc chỉ chủ yếu là đầm lầy. Chẳng có chỗ nào cho hắn đi cả.”

Lucy lên tiếng: “Tôi nghĩ hắn đi về phía tây. Hoặc phía nam, quay lại bên kia sông.”

“Theo lối đó hắn có thể tới Millerton,” Jesse gợi ý.

Lucy gật đầu. “Một số nhà máy xung quanh đó đã đóng cửa khi các công ty chuyển việc kinh doanh sang Mexico. Các ngân hàng tịch thu rất nhiều bất động sản thế chấp. Có hàng chục tòa nhà bỏ hoang cho hắn ẩn nấp.”

“Hoặc phía đông nam,” Jesse lại gợi ý. “Nếu là tôi, tôi sẽ đi theo hướng đó – theo đường 112 hay theo tuyến đường sắt. “Về phía ấy cũng có hàng lô nhà cửa và chuồng trại cũ.”

Amelia nhắc lại những lời này cho Rhyme.

Trong lúc ấy, Lucy Kerr tự nhủ thầm: Anh ta là một con người mới lạ lùng làm sao, bị tàn tật rất nặng mà vẫn rất tự tin.

Nữ cảnh sát đến từ New York lắng nghe rồi cúp máy. “Lincoln bảo cứ tiếp tục đi. Các chứng cứ không cho thấy hắn đi theo những hướng kia.”

“Không phải là không có bất cứ cây thông nào về phía tây và phía nam sao,” Lucy nói gay gắt.

Nhưng cô gái tóc đỏ lắc đầu. “Điều đó nghe có thể hợp lý, tuy nhiên không phải là điều mà các chứng cứ chỉ ra. Chúng ta tiếp tục đi.”

Ned và Jesse nhìn hai người phụ nữ, hết người này lại sang người kia. Lucy liếc qua bộ mặt Jesse và đọc được sự si mê kỳ cục, hiển nhiên anh ta sẽ chẳng ủng hộ cô. Cô cứng rắn bảo vệ ý kiến của mình: “Không. Tôi nghĩ chúng ta nên quay lại, thử xem chúng ta có thể tìm thấy chỗ họ đã rẽ khỏi lối mòn không.”

Amelia cúi đầu, đăm đăm nhìn thẳng vào mắt Lucy. “Tôi bảo chị điều này… Chúng ta có thể gọi cho Jim Bell nếu chị muốn.”

Một lời nhắc nhở về việc Jim đã tuyên bố rằng cái tay Rhyme chết tiệt ấy sẽ chịu trách nhiệm tiến hành điều tra và rằng anh ta cử Amelia chỉ huy đội tìm kiếm. Thật điên rồ – một người đàn ông và một người phụ nữ có lẽ từ trước tới nay chưa bao giờ ở Bắc Carolina, hai kẻ không biết gì về cư dân, đặc điểm địa lý khu vực này lại đi bảo những người đã sống ở đây cả đời phải làm công việc của họ như thế nào.

Tuy nhiên Lucy Kerr biết rằng mình đã ký hợp đồng làm một công việc mà, cũng giống trong quân đội, người ta vốn vẫn tuân thủ mệnh lệnh từ trên xuống dưới. “Được rồi,” cô tức tối lầm bầm. “Nhưng xin nhớ cho là tôi phản đối việc đi về hướng ấy. Nó không có nghĩa gì cả.” Cô quay người, tiếp tục bước đi theo lối mòn, bỏ những thành viên khác của đội lại đằng sau. Tiếng bước chân của cô đột ngột biến mất khi cô giẫm lên một lớp lá thông dày phủ trên lối mòn.

Điện thoại của Amelia đổ chuông và cô đi chậm lại trong lúc nhận cuộc gọi.

Lucy sải bước vội vã trên lớp lá thông dày, cố gắng kiềm chế nỗi tức giận. Garrett Hanlon không đời nào lại đi đường này. Thật lãng phí thời gian. Họ nên dẫn theo chó nghiệp vụ. Họ nên gọi cho Elizabeth City và xin máy bay trực thăng của cảnh sát bang. Họ nên…

Rồi mọi thứ xung quanh trở nên mờ ảo và Lucy ngã lộn nhào về phía trước, thét lên một tiếng ngắn – hai bàn tay vươn ra chống xuống đất. “Lạy Chúa!”

Lucy ngã đánh huỵch, đau tắc thở, lá thông đâm vào lòng bàn tay.

“Đừng di chuyển,” Amelia nói, đứng dậy sau khi kéo Lucy ngồi dậy.

“Như thế là cái quái quỷ gì?” Lucy hổn hển, hai bàn tay đau nhoi nhói vì cú sượt trên nền đất.

“Đừng di chuyển! Cả Ned và Jesse nữa.”

Ned và Jesse đứng sững, bàn tay đặt vào súng, nhìn xung quanh, không rõ chuyện gì đang diễn ra.

Amelia cau mày, thận trọng bước khỏi lớp lá thông, tìm thấy một cái que dài giữa đám cây cối, nhặt lên. Cô từ từ di chuyển về phía trước, chọc cái que xuống nền đất.

Cách Lucy chừng hai feet, nơi cô sắp sửa giẫm lên, cái que mất hút vào một đống cành thông. “Đó là một cái bẫy.”

“Nhưng không có dây bẫy,” Lucy nói. “Tôi vẫn quan sát mà”

Amelia thận trọng nhấc những cành thông và lá thông ra. Chúng được đặt trên những đoạn dây câu đan nhằng nhịt, che một cái hố sâu khoảng hai feet.

“Dây câu không phải là dây bẫy,” Ned nói. “Dây câu chỉ để che cái kia – một cái bẫy sập. Lucy, suýt nữa thì chị sa xuống đó.”

“Còn bên trong? Có bom không?” Jesse hỏi.

Amelia bảo anh ta: “Cho tôi mượn đèn pin của anh.” Anh ta đưa đèn pin cho cô. Cô chiếu đèn xuống cái hố, rồi nhanh chóng lùi lại.

“Gì thế?” Lucy hỏi

“Không có bom,” Amelia trả lời. “Tổ ong bắp cày.”

Ned nhìn xuống. “Lạy Chúa, một thằng thật độc ác…”

Amelia thận trọng nhấc nốt các cành thông ra, lộ cái hố và tổ ong bắp cày, kích thước cỡ quả bóng chày.

“Trời đất,” Ned lẩm bẩm, nhắm mắt lại, chắc chắn đang rùng mình hình dung cảnh bị hàng trăm con ong bắp cày bu xung quanh đùi và thắt lưng.

Lucy xoa hai bàn tay vào nhau – chúng đau nhức sau cú ngã. Cô đứng dậy. “Làm sao cô biết?”

Tôi không biết. Mà là Lincoln gọi điện. Anh ấy đang đọc qua các cuốn sách của Garrett. Có một đoạn được gạch chân viết về một loài côn trùng gọi là kiến sư tử. Chúng đào những cái hố và khi kẻ thù rơi xuống hố thì đốt chết. Garrett đã khoanh tròn đoạn này, màu mực cho thấy mới vài ngày trước thôi. Rhyme liên hệ với chỗ lá thông bị cắt rời khỏi cành và cuộn dây câu. Anh ấy nghĩ hắn có thể bố trí một cái bẫy sập và bảo tôi đề phòng những đám cành thông trên đường.”

“Chúng ta hãy đốt cái tổ ong đi,” Jesse nói.

“Không,” Amelia trả lời.

“Nhưng để đó thì nguy hiểm.”

Lucy đồng ý với người nữ đồng nghiệp. “Lửa sẽ làm lộ vị trí của chúng ta và Garrett sẽ biết chúng ta đang ở chỗ nào. Hãy cứ để cái tổ ong đấy, đừng che phủ để người ta có thể nhìn thấy nó. Chúng ta sẽ quay lại xử lý nó sau. Dù sao cũng chưa chắc đã có ai đi qua đây.”

Amelia gật đầu. Cô gọi điện. “Bọn em phát hiện ra nó rồi, Rhyme. Tất cả đều an toàn. Không có bom – hắn đặt bên trong một tổ ong bắp cày… Được. Bọn em sẽ cẩn thận…. Hãy tiếp tục đọc cuốn sách đó. Hãy cho bọn em biết anh có tìm thấy thêm điều gì nữa không.”

Họ lại bắt đầu xuôi theo lối mòn và sau khi đi thêm một phần tư dặm yên ổn thì Lucy không thể không nói ra những lời này. “Cảm ơn. Cô và anh ấy đã đúng về chuyện hắn đi theo lối này. Tôi đã sai.” Cô lưỡng lự hồi lâu nữa, rồi thêm: “Jim đã lựa chọn chính xác – mời các vị từ New York xuống đây để giải quyết vụ án. Ban đầu tôi không thực sự hào hứng, tuy nhiên tôi sẽ không phủ nhận kết quả.”

Amelia cau mày. “Mời chúng tôi xuống đây? Ý chị là gì vậy?”

“Để giúp đỡ.”

“Jim không làm việc đó.”

“Cái gì?” Lucy hỏi.

“Không, không, chúng tôi tới trung tâm y khoa ở Avery. Lincoln chuẩn bị làm phẫu thuật. Jim nghe nói chúng tôi sẽ có mặt tại đây nên sáng hôm nay anh ấy đã đề nghị chúng tôi xem xét hộ một số chứng cứ.”

Im lặng hồi lâu. Rồi Lucy cười to vì cảm thấy hoàn toàn nhẹ nhõm. “Tôi tưởng anh ấy xoáy tiền của quận để các vị bay xuống đây sau vụ bắt cóc xảy ra ngày hôm qua.”

Amelia lắc đầu. “Ngày kia mới tiến hành phẫu thuật. Chúng tôi có một chút thời gian rỗi. Thế thôi.”

“Anh chàng đó – Jim. Anh ta chẳng hề nói một lời về việc này. Đôi khi anh ta có thể là một người rất kín đáo.”

“Chị đã lo lắng rằng anh ấy không tin chị sẽ giải quyết được vụ án?”

“Tôi nghĩ đấy chính xác là tâm trạng của tôi.”

“Anh họ Jim làm việc cùng chúng tôi ở New York. Anh ấy nói với Jim rằng chúng tôi sẽ xuống đây vài tuần.”

“Khoan đã, ý cô là Ronald?” Lucy hỏi. “Tất nhiên rồi, tôi biết anh ấy. Biết cả vợ anh ấy nữa, trước khi chị ấy qua đời. Hai đứa con trai của anh ấy thật đáng yêu.”

“Họ mới tới chỗ chúng tôi để dự bữa tiệc thịt nướng ngoài trời,” Amelia nói.

Lucy lại cười to. “Tôi cho là tôi đang mắc chứng hoang tưởng…Vậy, các vị tới Avery à? Trung tâm y khoa à?”

“Vâng.”

“Đó là nơi Lydia Johansson làm việc. Cô biết đấy, cô ấy là y tá ở đó.”

“Tôi không biết.”

Hàng tá những kỷ niệm lướt qua tâm trí Lucy. Có những kỷ niệm khiến cô bồi hồi xúc động. Có những kỷ niệm khiến cô muốn chạy trốn như chạy trốn đàn ong bắp cày mà cô suýt nữa đã sa xuống trong cái bẫy sập của Garrett. Cô không biết liệu mình có muốn kể cho Amelia Sachs nghe bất cứ kỷ niệm nào hay không. Cuối cùng, cô nói: “Đó là lý do tại sao tôi hăng hái đi cứu cô ấy. Cách đây mấy năm tôi phải điều trị ở bệnh viện và Lydia là một trong số các y tá chăm sóc tôi. Cô ấy là một người tốt. Tốt nhất trên đời này.”

“Chúng ta sẽ cứu cô ấy,” Amelia nói, và cô nói bằng âm sắc mà Lucy đôi khi – không thường xuyên, nhưng đôi khi – nghe thấy trong chính giọng nói của mình. Một âm sắc không bộc lộ chút nghi ngờ gì.

Lúc này, họ đi từ từ hơn. Cái bẫy sập khiến tất cả họ hoảng sợ. Và cái nóng thì thực sự khiến họ khổ sở.

Lucy hỏi Amelia: “Thế cuộc phẫu thuật sắp sửa tiến hành với bạn cô? Để giải quyết… tình trạng của anh ấy à?”

“Vâng”

“Sao trông cô lo lắng thế?” Lucy hỏi, để ý thấy một bóng đen thoáng qua mặt người con gái kia.

“Nó có thể chẳng có ích gì.”

“Vậy tại sao anh ấy lại định phẫu thuật?”

Amelia giải thích: “Cũng có cơ hội cải thiện được tình hình. Cơ hội rất mong manh. Nó mang tính thí nghiệm mà. Chưa có ai bị chấn thương như anh ấy – tức là bị nặng như anh ấy – mà khá hơn được.”

“Và cô không muốn anh ấy làm phẫu thuật?”

“Tôi không muốn.”

“Tại sao không?”

Amelia ngập ngừng. “Vì nó có thể giết chết anh ấy. Hoặc khiến anh ấy bị nặng thêm.”

“Cô đã trao đổi với anh ấy về việc này?”

“Vâng.”

“Nhưng chẳng tác dụng gì,” Lucy nói.

“Chẳng tác dụng gì.”

Lucy gật đầu. “Tôi cho rằng anh ấy cũng thuộc loại bướng bỉnh.”

Amelia đáp lời: “Nói như thế vẫn còn nhẹ đấy.”

Có tiếng sột soạt ở gần, trong bụi cây, và tới lúc Lucy đặt được tay vào khẩu súng lục thì Amelia đã nhằm bắn trúng ức một con gà tây hoang. Bốn thành viên của đội tìm kiếm mỉm cười, nhưng sự thích thú chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, rồi nó được thay thế bởi nỗi hồi hộp vì máu họ từ từ ngấm chất adrenaline.

Cất súng vào bao, chăm chú quan sát lối mòn, họ tiếp tục tiến về phía trước, tạm thời giữ im lặng.

Người ta có một số cách biểu hiện khác nhau trước tình trạng của Rhyme.

Có người thì bông lơn, một cách bạo mồm bạo miệng. Đùa giỡn những kẻ tàn tật, cũng chẳng ai bị bỏ tù cả.

Có người, giống như Henry Davett, lại hoàn toàn phớt lờ tình trạng của anh.

Phần lớn thì cư xử theo cách mà Ben đang làm – cố gắng giả vờ rằng Rhyme không tồn tại và cầu nguyện cho mình được thoát khỏi nơi này càng sớm càng tốt.

Đây là kiểu phản ứng mà Rhyme căm ghét nhất – nó là sự gợi nhắc trắng trợn nhất về việc anh khác với mọi người biết bao. Nhưng anh chẳng có thời gian bận tâm đến thái độ của anh chàng trợ lý bất đắc dĩ. Garrett đang đưa Lydia tiến sâu hơn vào rừng. Còn Mary Beth McConnell thì có thể đang chết ngạt hoặc chết khát hoặc bị một vết thương giết dần chết mòn.

Jim Bell bước vào căn phòng. “Có lẽ là có tin tức tốt từ bệnh viện. Ed Schaeffer đã nói gì đó với một trong số các y tá. Rồi lại bất tỉnh ngay. Nhưng tôi thấy dấu hiệu này khả quan đấy.”

“Ông ấy đã nói gì?” Rhyme hỏi. “Điều ông ấy phát hiện được trên tấm bản đồ à?”

“Cô y tá bảo nghe như là từ quan trọng. Rồi từ ô liu,” Bell bước tới trước tấm bản đồ. Anh ta đặt tay vào một ô về phía đông nam Tanner’s Corner. “Có một khu dân cư ở đây. Người ta đặt tên các con đường theo tên cây cỏ, hoa trái và đại loại vậy. Trong đó có phố Ô liu. Nhưng đấy là lối đi về phía nam lạch Đá. Liệu tôi có nên bảo Lucy và Amelia thử kiểm tra không? Tôi cho rằng chúng ta nên bảo họ.”

A, sự xung đột muôn thuở đây, Rhyme nghĩ: tin tưởng tang chứng hay tin tưởng nhân chứng? Nếu anh lựa chọn nhầm, Lydia hoặc Mary Beth có thể sẽ chết. “Họ nên tiếp tục hướng đang đi, về phía bắc con sông.”

“Anh chắc chắn chứ?” Bell nghi ngờ hỏi.

“Chắc chắn.”

“Được rồi,” Bell nói.

Điện thoại đổ chuông và với một động tác ấn phím dứt khoát bằng ngón tay đeo nhẫn bên trái, Rhyme nhận cuộc gọi.

Giọng Sachs lạo xạo trong bộ tai nghe của anh. “Bọn em đang gặp bế tắc, Rhyme. Đến đây có bốn, năm lối mòn đi theo các hướng khác nhau, mà bọn em thì không có manh mối nào cho thấy hướng Garrett đã đi.”

“Anh chưa có thông tin gì thêm cho em, Sachs ạ. Bọn anh đang cố gắng xác định thêm các chứng cứ.”

“Không có gì thêm từ mấy cuốn sách à?”

“Không có gì cụ thể. Nhưng có điều này rất thú vị – chúng là những cuốn sách khá nghiêm túc đối với một thiếu niên mười sáu tuổi. Hắn thông minh hơn anh tưởng. Chính xác em đang ở đâu, Sachs?” Rhyme ngẩng nhìn lên. “Ben! Làm ơn đến trước tấm bản đồ hộ tôi cái.”

Anh ta di chuyển thân hình khổng lồ của mình về phía bức tường treo tấm bản đồ và đứng bên cạnh.

Sachs hỏi một người nào đó trong đội tìm kiếm. Rồi nói: “Chừng bốn dặm về phía đông bắc vị trí bọn em lội qua lạch Đá, gần như theo đường thẳng.”

Rhyme nhắc lại cho Ben, để anh ta chỉ tay lên tấm bản đồ. Ô J-7.

Gần ngón trỏ to tướng của Ben là một khu vực hình chữ L không được xác định. “Ben, cậu biết khu vực đó là gì chứ?”

“Tôi nghĩ nó là cái mỏ đá cũ.”

“Ôi, lạy Chúa,” Rhyme lẩm bẩm, bực bội lắc đầu.

“Sao ạ?” Ben hỏi, lo lắng rằng mình vừa làm sai điều gì.

“Quái quỷ thế nào mà chẳng ai nói với tôi là ở gần đó có một mỏ đá?”

Khuôn mặt tròn của Ben thậm chí sưng lên hơn cả lúc trước. Anh ta coi sự buộc tội kia nhằm vào riêng mình. “Tôi thực sự không…”

Nhưng Rhyme thậm chí chẳng buồn lắng nghe. Anh chẳng trách móc ai ngoài chính bản thân anh ta. Đã có người nói với anh về mỏ đá – Henry Davett, khi ông ta bảo rằng đá vôi từng là nguồn lợi lớn ở khu vực này. Liệu còn có cách nào khác để các công ty sản xuất đá vôi thương phẩm? Rhyme đáng lẽ phải hỏi thăm ngay về một mỏ đá sau khi được cho biết như vậy. Và nitrate chẳng phải là từ những quả bom ống mà là từ những vụ nổ mìn phá đá – các chất lắng loại này vốn vẫn tồn tại qua hàng thập kỷ.

Anh nói vào điện thoại: “Có một mỏ đá cũ cách chỗ em không xa. Về phía tây nam.”

Cuộc điện thoại tạm thời bị ngắt quãng. Bên ngoài loáng thoáng những câu trao đổi. Rồi Amelia nói: “Jesse biết mỏ đá này.”

“Garrett đã ở đó. Anh không biết liệu hắn có còn ở đó hay không. Vì thế hãy cẩn thận. Và nhớ là hắn chắc không đặt bom nhưng sẽ bố trí bẫy. Phát hiện được điều gì thì gọi cho anh.”

***

Bây giờ, khi Lydia đã thoát khỏi Không gian Bên ngoài và cảm thấy khá hơn vì không còn bị nóng nực, kiệt sức như lúc trước, cô nhận ra rằng cô phải đương đầu với Không gian Bên trong. Và không gian ấy cũng đang chứng tỏ là đáng sợ chẳng kém.

Kẻ bắt giữ cô đi tới đi lui một lúc, nhìn qua cửa sổ, rồi ngồi xổm xuống, búng móng tay và lẩm bẩm một mình, ngắm nghía thân hình cô, rồi lại đi tới đi lui. Có một lần, Garrett liếc nhìn xuống sàn và nhặt lên cái gì đó. Hắn đút tọt nó vào mồm, nhai ngấu nghiến. Cô tự hỏi liệu đó có phải là một con côn trùng không và ý nghĩ này suýt khiến cô phát nôn.

Căn phòng họ đang ở xem chừng trước đây là văn phòng của cối xay. Từ đây, Lydia nhìn qua được dãy hành lang, một phần đã bị cháy trong vụ hỏa hoạn, thấy một loạt phòng khác – chắc là các phòng chứa ngũ cốc và xay xát. Ánh nắng buổi chiều rực rỡ tràn qua những bức tường và trần hành lang đã cháy rụi.

Một cái gì đó màu vàng da cam đập vào mắt cô. Cô nheo mắt và trông thấy các túi Doritos (23) . Cả khoai tây chiên Cape Cod nữa. Những phong bánh bơ lạc nhãn hiệu Reese. Thêm những gói bích quy phó mát với bơ lạc nhãn hiệu Planters mà Garrett đã ăn ở mỏ đá. Sô đa và nước tinh khiết nhãn hiệu Deer Park. Cô không trông thấy những thứ này khi họ vừa vào cối xay.

(23) Nhãn hiệu một loại ngô chiên do công ty Frito-Lay, Mỹ, sản xuất.

Tại sao lại có tất cả những thứ thức ăn này? Họ sẽ ở đây bao lâu? Garrett bảo chỉ đêm nay thôi nhưng bằng ấy thức ăn đủ cho cả một tháng. Gã định giữ cô ở đây lâu hơn dự định gã nói với cô chăng?

Lydia hỏi: “Mary Beth ổn chứ? Cậu chưa làm gì cô ấy chứ?”

“Ồ, phải, như thể là tao sẽ làm gì cô ấy.” Garrett mỉa mai nói. “Tao không nghĩ thế đâu.” Lydia quay đi, chăm chú nhìn những tia nắng xuyên qua phần tường còn lại của dãy hành lang. Bên kia tường, vọng một tiếng kêu cót két – cái thớt cối quay, cô tự nhủ thầm vậy.

Garrett tiếp tục: “Lý do duy nhất khiến tao đưa cô ấy đi là để chắc chắn rằng cô ấy được ổn thỏa. Cô ấy muốn thoát khỏi Tanner’s Corner. Cô ấy thích ra bãi biển. Ý tao là, đ.mẹ, ai lại không thích chứ? Ở đó dễ chịu hơn ở cái thị trấn Tanner’s Corner bẩn tưởi này.” Gã búng móng tay nhanh hơn và mạnh hơn. Gã bị bối rối và căng thẳng. Hai bàn tay to tướng của gã xé toạc một túi khoai tây chiên. Gã cho mấy vốc vào mồm, nhai nhồm nhoàm, các mẩu vụn rơi lả tả. Gã uống một hơi hết lon Coca Cola. Lại ăn khoai tây chiên.

“Chỗ này bị cháy hai năm trước,” Garrett nói. “Tao chẳng biết ai gây ra. Mày thích cái âm thanh đó không? Cái bánh xe nước hả? Nó khá thú vị. Cái bánh xe quay, quay. Nó gợi cho tao nhớ tới bài hát này, cha tao từng suốt ngày hát quanh nhà. Bánh xe to tướng quay mãi, quay mãi…” Gã bốc thêm khoai tây chiên tọng vào mồm và bắt đầu nói. Trong khoảnh khắc, Lydia không thể hiểu nổi gã. Gã nuốt. “… Ở đây rất nhiều. Mày ngồi đây vào ban đêm, lắng nghe tiếng lũ ve sầu và ễnh ương. Nếu tao đi tuốt ra biển – giống như tao đang đi đây – bao giờ tao cũng chọn chỗ này làm chỗ nghỉ ban đêm. Ban đêm, mày sẽ thấy thích.” Gã ngừng nói và đột ngột vươn về phía cô. Sợ hãi tới mức không dám nhìn trực diện gã, cô cụp mắt xuống nhưng vẫn cảm nhận được gã đang chăm chú quan sát mình. Rồi, chỉ mất một giây, gã bật dậy và khom người xuống sát bên cạnh cô.

Lydia nhăn mặt khi bị mùi cơ thể Garrett phả vào mũi. Cô chờ đợi hai bàn tay gã sờ soạng trên ngực, giữa hai đùi cô.

Nhưng gã chẳng màng đến cô, có vẻ thế. Garrett dịch một tảng đá sang bên cạnh và nhấc cái gì đó từ phía dưới ra.

“Con nhiều chân,” Garrett mỉm cười. Con vật dài, màu vàng xanh và nhìn nó Lydia thấy kinh tởm.

“Bọn này rất đáng yêu. Tao thích chúng.” Garrett để nó bò trên mu bàn tay và cổ tay. “Chúng chẳng phải côn trùng đâu,” gã giảng giải. “Chúng giống như những người anh em. Chúng nguy hiểm khi mày cố gắng làm hại chúng. Chúng cắn đau vô cùng. Những người Anh điêng ở xung quanh đây từng nghiền chúng ra và tẩm chất độc của chúng vào đầu mũi tên. Khi một con nhiều chân hoảng sợ, nó phun chất độc, rồi chạy trốn. Một con săn mồi bò qua chỗ khí đó và nghẻo. Đúng là đời sống hoang dã, phải không?”

Garrett trở nên im lặng, chăm chú ngắm nghía con nhiều chân, theo cái cách mà bản thân Lydia vốn vẫn ngắm nghía những đứa cháu – với sự quý mến, thích thú, gần như là tình yêu.

Lydia cảm thấy nỗi khiếp sợ dâng lên trong cô. Cô biết rằng cô phải giữ bình tĩnh, biết rằng cô không nên làm trái ý Garrett, mà phải giả vờ tán thưởng gã. Nhưng nhìn cái con bọ kinh tởm kia bò trên cánh tay gã, nghe tiếng gã búng móng tay, nhìn da dẻ gã đầy mụn, nhìn cặp mắt ướt nhoèn, đỏ quạch của gã, những vết thức ăn trên cằm gã, cô run rẩy vì khiếp sợ.

Khi nỗi kinh tởm và khiếp sợ sôi sục trong người, Lydia tưởng như nghe thấy một giọng nói mơ hồ, thúc giục. “Phải, phải, phải!” Một giọng nói chỉ có thể thuộc về một thiên thần hộ mệnh mà thôi.

Phải, phải, phải!

Lydia lăn người. Garrett ngẩng nhìn lên, mỉm cười thích thú tận hưởng cảm giác con bọ bò trên da thịt, tò mò muốn biết cô đang làm gì. Và Lydia co cả hai chân đạp mạnh hết sức. Cô có đôi chân khỏe, nó từng đỡ thân hình to béo của cô suốt các ca trực tám tiếng ở bệnh viện, và cú đạp khiến gã ngã ngửa ra đằng sau. Gã đập đầu vào tường đánh huỵch, lăn xuống sàn, choáng váng. Rồi gã thét rống lên, ôm lấy cánh tay. Con nhiều chân hẳn đã cho gã một phát cắn.

Phải! Lydia hân hoan nghĩ trong lúc vặn người ngồi dậy. Cô cố gắng đứng lên và mò mẫm chạy về phía buồng nghiền bột ở cuối dãy hành lang.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.