Cái Ghế Trống

CHƯƠNG 16 (tiếp)



Trong lúc bị cái mùi không tắm gội bốc ra từ cơ thể O’Sarian tấn công, Sachs trượt bàn tay dọc theo cánh tay gã, tịch thu khẩu súng. Gã đành buông tay. Cô bước lùi lại, đẩy O’Sarian một cái, vẫn chĩa khẩu súng ngắn vào gã.

“Tôi chỉ đùa thôi,” O’Sarian nói. “Tôi chỉ đùa. Tôi chẳng làm gì cả. Tôi chẳng có ý gì cả. Hãy bảo cô ta là tao chẳng làm gì cả…”

“Chuyện gì xảy ra thế này?” Lucy Kerr hỏi, bước xuôi theo lối mòn, bàn tay đặt trên báng khẩu súng ngắn.

Culbeau lắc đầu. “Sean giở trò ngu ngốc.”

“Những cái trò sẽ khiến anh ta mất mạng có ngày,” Lucy nói

Sachs đóng con dao bấm bằng một tay và lại đút nó vào túi quần.

“Xem này, tôi bị cứa đứt da. Xem này, máu!” O’Sarian giơ lên một ngón tay dây máu.

“Chết tiệt,” Tomel nói vẻ sợ sệt, tuy Sachs chẳng biết gã định ám chỉ điều gì.

Lucy nhìn Sachs. “Cô muốn xử lý việc này như thế nào đây?”

“Tắm một cái,” Sachs trả lời.

Culbeau bật cười.

Sachs nói thêm: “Chúng ta không có thời gian mà lãng phí với họ.”

Người nữ cảnh sát hất đầu bảo mấy gã đàn ông: “Đây là hiện trường vụ án. Các anh không có cơ hội giành phần thưởng đâu.” Cô hất đầu chỉ mấy khẩu súng trường. “Nếu các anh muốn săn bắn gì, hãy đi chỗ khác.”

“Ồ, giống như đang mùa săn bắn ấy nhỉ,” O’Sarian nói giọng châm chọc, coi câu bình luận của Lucy thật ngớ ngẩn. “Ý tôi là, rõ khỉ.”

“Rồi quay lại thị trấn đi – trước khi các anh rước thêm rắc rối cho cuộc đời mình.”

Mấy gã đàn ông nhặt súng lên. Culbeau cúi đầu nói vào tai O’Sarian những lời thì thầm, tức tối. O’Sarian nhún vai, nhăn nhở cười. Trong khoảnh khắc, Sachs nghĩ Culbeau sắp sửa đánh gã.

Nhưng rồi gã đàn ông to lớn đó đã bình tĩnh lại và quay sang Lucy: “Các cô tìm thấy Mary Beth chưa?”

“Chưa. Nhưng chúng tôi đã bắt được Garrett và hắn sẽ cho chúng tôi biết cô ấy đang ở đâu.”

Culbeau nói: “Giá mà chúng tôi có cơ hội lĩnh phần thưởng, nhưng tôi cũng mừng vì hắn đã bị bắt. Thằng nhãi ấy là cái họa.”

Khi bọn họ đi rồi, Sachs hỏi: “Chị phát hiện được gì ở cối xay không?”

“Không. Nên nghĩ tôi sẽ xuống đây hỗ trợ cô tìm kiếm con thuyền.”

Trong lúc tiếp tục đi xuôi theo lối mòn, Sachs nói:

Có một việc tôi quên mất. Chúng ta phải cử người quay lại chỗ cái bẫy kia – cái tổ ong bắp cày ấy mà. Giết chết chúng đi và lấp cái hố.”

“Ồ, Jim đã cử Trey Williams, một trong số các cảnh sát của chúng tôi, tới đó, mang theo hộp xịt ong bắp cày và xẻng. Nhưng chẳng có con ong nào. Nó là một cái tổ cũ.”

“Bỏ không à?”

“Phải.”

Vậy nó hoàn toàn chẳng phải một cái bẫy, chỉ là một mánh khóe để ghìm chân họ. Sachs cũng nhớ lại rằng chai ammonia không được bố trí để làm hại ai cả. Garrett đã có thể bố trí để nó đổ xuống những người đuổi theo gã, làm họ bị mù. Tuy nhiên, gã đã đặt nó trên một vách đá nhỏ. Nếu họ không phát hiện ra sợi dây câu và vướng vào nó, cái chai cũng sẽ đổ xuống những tảng đá – phía dưới mười feet so với lối mòn, cảnh báo Garrett bằng mùi ammonia, nhưng không làm hại ai.

Sachs lại hình dung ra cặp mắt mở to, hốt hoảng của Garrett.

Tôi sợ. Bắt hắn ngừng bắn đi.

Sachs nhận ra Lucy đang nói chuyện với cô.

“Xin lỗi, chị bảo gì cơ?”

Người nữ cảnh sát hỏi: “Cô học được ở đâu cách sử dụng con dao ấy?”

“Sự hoang dã đã dạy tôi đấy.”

“Sự hoang dã ư? Ở đâu?”

“Một nơi được gọi là Brooklyn,” Sachs đáp.

***

Chờ đợi.

Mary Beth McConnell đứng bên cạnh khung cửa sổ bụi bặm. Cô bức bối và xây xẩm mặt mày – vì hơi nóng ngột ngạt trong cái nơi đang giam giữ cô và vì cơn khát cháy cổ. Khắp ngôi nhà này, cô không tìm được một giọt chất lỏng nào để uống. Liếc nhìn qua ô cửa sổ phía sau, ánh mắt vượt qua tổ ong bắp cày, cô có thể thấy các vỏ chai nước nằm trên một đống rác. Chúng khiêu khích cô và làm cô khát thêm. Cô biết mình không sống được quá một hay hai ngày trong cái nóng như thế này mà không có nước uống.

Ông ở đâu? Ở đâu? Cô thầm nói với nhà truyền giáo.

Nếu quả thực đã xuất hiện một người đàn ông ở đằng kia – và ông ta chẳng phải là do trí tưởng tượng tuyệt vọng, bị cơn khát hành hạ của cô sáng tạo ra.

Mary Beth dựa người vào bức tường nóng bỏng. Tự hỏi liệu cô có xỉu đi không. Cố gắng nuốt nhưng trong miệng chẳng còn chút nước bọt nào. Không khí bao phủ mặt cô, ngột ngạt tựa như len nóng sực.

Rồi Mary Beth giận dữ nghĩ: Ôi, Garrett… Tao đã biết mày sẽ gây ra tai họa. Cô nhớ có câu tục ngữ xưa: Làm ơn mắc oán.

Mình đáng lẽ không nên cứu hắn… Nhưng sao mình lại có thể không được? Sao mà mình lại có thể không cứu hắn thoát khỏi đám nam sinh trung học đó được? Cô nhớ hôm trông thấy bốn cậu nam sinh đứng nhìn Garrett nằm ngất trên phố Cây Thích dạo năm ngoái. Một cậu cao lớn, có điệu cười nhếch mép khinh bỉ, bạn cùng đội bóng bầu dục với Billy Stail, kéo khóa chiếc quần bò Guess! lôi cái của cậu ta ra và sắp sửa đái vào Garrett. Cô đã lao tới quát mắng cả bọn, giật lấy điện thoại di động của một cậu khác để gọi xe cấp cứu đưa Garrett đi.

Tất nhiên, mình phải làm thế.

Nhưng một khi mình cứu hắn rồi, mình lại thuộc về hắn…

Thoạt đầu, sau vụ tai nạn, Mary Beth thích thú thấy Garrett cứ bám theo cô như một kẻ hâm mộ bẽn lẽn. Gọi tới nhà để kể cho cô những tin tức gã nghe được, tặng cô những món quà (cơ mà quà gì chứ, con bọ cánh cứng màu xanh lá cây bóng loáng đựng trong cái chuồng bé tí, các bức vẽ vụng về những con nhện và những con nhiều chân, con chuồn chuồn buộc vào sợi dây – vẫn còn sống!).

Nhưng rồi cô bắt đầu nhận ra có gã ở gần quá thường xuyên. Cô nghe được tiếng bước chân đằng sau lưng mỗi khi đi bộ từ xe vào nhà, lúc đêm khuya. Trông thấy một dáng người trên những vòm cây xung quanh nhà cô ở Bến tàu kênh Nước đen. Nghe thấy cái giọng cao, kỳ dị lẩm bẩm những lời cô không thể luận ra là gì, tự nói hay hát với chính gã. Gã nhận ra cô giữa phố Chính và đi thẳng tới, chuyện trò lan ma lan man, lấy mất thời gian quý báu của cô, khiến cô càng ngày càng khó chịu. Liếc nhìn – cả ngượng ngùng lẫn thèm muốn – ngực cô, chân cô, tóc cô.

“Mary Beth, Mary Beth… chị có biết nếu một cái mạng nhện mà giả dụ như, chăng khắp thế giới, trọng lượng của nó cũng chưa đầy một ounce không… Này, Mary Beth, chị có biết mạng nhện là vật liệu bền hơn thép gấp năm lần không? Và nó đàn hồi hơn nilon? Có một số mạng nhện rất hay – chúng giống như những chiếc võng. Lũ ruồi ngả lưng xuống đó và không bao giờ tỉnh dậy.”

(Cô đáng lẽ đã phải nhận ra, giờ đây cô nhớ lại, rằng phần lớn những chuyện tầm phào của Garrett là về nhện và các côn trùng bẫy mồi.)

Và bởi vậy cô đã sắp xếp lại cuộc sống hàng ngày để tránh đụng phải gã, đi mua sắm tại các cửa hiệu mới, về nhà theo các tuyến đường khác với trước đây, lựa chọn các lối mòn khác để đạp xe, leo núi.

Nhưng rồi xảy ra một việc làm hỏng mọi nỗ lực của Mary Beth nhằm giữ khoảng cách với Garrett Hanlon: cô có một khám phá. Và tình cờ là khám phá này lại ở trên bờ sông Paquenoke ngay tại trung tâm Bến tàu kênh Nước đen – nơi gã trai đã xí làm lãnh địa riêng của mình. Tuy nhiên, khám phá này quan trọng tới nỗi thậm chí ngay một băng rượu lậu, chứ kể gì một gã trai gầy giơ xương bị ám ảnh bởi lũ côn trùng, cũng không thể khiến cô sợ không đến đó.

Mary Beth chẳng biết vì sao môn lịch sử lại gây cho cô nhiều hứng thú thế. Nhưng luôn luôn là như vậy. Cô nhớ những lần tới khu di tích thuộc địa Williamsburg thuở nhỏ. Nó chỉ cách Tanner’s Corner hai tiếng đồng hồ đi ô tô và gia đình cô hay tới đó. Mary Beth thuộc các con đường gần thị trấn ấy tới mức cô biết lúc nào họ sắp sửa đến nơi. Rồi cô nhắm mắt và sau khi cha cô phanh chiếc Buick lại cô bảo mẹ dắt tay cô vào công viên để trong đó cô có thể mở mắt, giả vờ như mình đang thực sự quay trở về nước Mỹ thời thuộc địa.

Mary Beth cảm thấy chính niềm phấn chấn này – chỉ có điều nó lớn lao hơn gấp trăm lần – khi cô bước dọc theo hai bờ sông Paquenoke ở khu vực Bến tàu kênh Nước đen tuần trước, nhìn xuống đất và nhận ra cái gì đó bị vùi lấp một nửa trong bùn lầy. Cô quỳ thụp xuống, bắt đầu gạt bùn lầy sang bên với sự thận trọng của người bác sĩ phẫu thuật đang mổ quả tim bệnh tật. Và, phải, chúng đấy: các di vật cổ – các chứng cứ mà Mary Beth McConnell đã tuyệt vọng tìm kiếm và giờ đây khiến cô gái hai mươi ba tuổi phải sững sờ. Các chứng cứ có thể chứng minh cho giả thuyết cô đưa ra – nó sẽ viết lại lịch sử nước Mỹ.

Giống như tất cả mọi người dân Bắc Carolina – và giống như hầu hết trẻ em Mỹ – Mary Beth McConnell từng học về Thuộc địa Roanoke Biến mất trong các giờ học lịch sử: Vào cuối thế kỷ XV, thực dân Anh đặt chân lên đảo Roanoke, nằm giữa vùng nội địa Bắc Carolina và khu Bờ Ngoài. Sau một thời gian tiếp xúc hầu như hòa hợp giữa người Anh đến định cư và người Mỹ bản xứ, các mối quan hệ trở nên xấu đi. Mùa đông đến gần và những người thực dân thiếu thức ăn cũng như các đồ dự trữ khác, Thống đốc John White, người sáng lập thuộc địa này, dong buồm trở về Anh xin cứu trợ. Nhưng khi ông quay lại Roanoke, những người thực dân – hơn một trăm người, cả đàn ông, đàn bà và trẻ em – đã biến mất.

Manh mối duy nhất về sự việc xảy ra là từ “Croatoan” được khắc trên vỏ cây gần nơi họ định cư. Đây là tên tiếng Anh điêng của Hatteras, cách Roanoke chừng năm mươi dặm về phía nam. Phần lớn các sử gia tin tưởng rằng những người thực dân đã thiệt mạng ngoài khơi trên đường đến Hatteras hoặc đã bị giết chết khi đến nơi, tuy không có ghi chép nào cho thấy họ từng cập bờ vào đây.

Mary Beth đã đến thăm đảo Roanoke mấy lần, đã xem buổi trình diễn tái hiện tấn thảm kịch tại một nhà hát nhỏ ở đảo. Vở kịch khiến cô xúc động và lạnh toát người. Nhưng cô chưa bao giờ suy nghĩ nhiều về câu chuyện ấy mãi cho tới khi cô lớn hơn và vào trường Tổng hợp Bắc Carolina, phân hiệu Avery, nơi cô đã đọc rất sâu về Thuộc địa Biến mất. Một khía cạnh của câu chuyện gợi lên các câu hỏi chưa có câu trả lời về số phận những người thực dân liên quan đến một cô gái tên là Virginia Dare cùng truyền thuyết Con Nai Cái Lông Trắng.

Đó là một câu chuyện mà Mary Beth McConnell – cô gái con một mang chút đầu óc nổi loạn và độc lập suy nghĩ – có thể hiểu được. Virginia Dare là đứa trẻ người Anh đầu tiên chào đời ở Mỹ. Cô là cháu gái Thống đốc White và là một trong số những người thực dân bị biến mất. Theo các sách lịch sử, cô được cho là đã thiệt mạng cùng họ ở Hatteras hoặc trên đường đến Hatteras. Nhưng khi Mary Beth tiếp tục tiến hành nghiên cứu, cô phát hiện ra rằng chẳng bao lâu sau sự kiện những Người Thực Dân Biến Mất, lúc người Anh bắt đầu định cư đông hơn ở vùng Duyên hải miền Đông, nhiều truyền thuyết địa phương về Thuộc địa Biến mất bắt đầu xuất hiện.

Một truyền thuyết cho rằng những người thực dân không bị giết chết ngay mà vẫn sống sót và tiếp tục sống lẫn giữa những bộ lạc người bản xứ. Viginia Dare lớn lên thành cô thiếu nữ xinh đẹp – da trắng, tóc vàng, ý chí mạnh mẽ và độc lập. Một thầy lang đem lòng yêu cô nhưng cô cự tuyệt và chẳng bao lâu sau thì cô biến mất. Thầy lang kia khẳng định ông ta không hãm hại cô, tuy nhiên, vì cô cự tuyệt tình yêu của ông ta, ông ta đã phù phép cho cô trở thành con nai cái lông trắng.

Tất nhiên, chẳng ai tin lời ông ta, nhung chẳng bao lâu sau người ta bắt đầu trông thấy trong vùng một con nai cái lông trắng dường như là thủ lĩnh của tất cả các loài vật trong rừng. Bộ lạc ấy, khiếp hãi trước sức mạnh rõ ràng của con nai cái, đã tổ chức một cuộc thi xem tay thợ săn nào bắn được nó.

Một tay thợ săn trẻ dũng cảm đã lần theo được dấu vết của con nai và đã bắn đi mũi tên đầu bịt bạc ở khoảng cách xa đến mức khó tin. Mũi tên xuyên vào ngực con nai và khi nằm xuống trút hơi thở cuối cùng, nó ngước nhìn tay thợ săn bằng cặp mắt người thật đáng sợ.

Anh ta lắp bắp hỏi: “Mi là ai?”

“Virginia Dare,” Con nai cái thì thầm trả lời, rồi tắt thở.

Mary Beth quyết định xem xét câu chuyện Con Nai Cái Lông Trắng một cách nghiêm túc. Miệt mài nhiều ngày đêm trong phòng tài liệu lưu trữ ở Đại học Tổng hợp Bắc Carolina, phân hiệu Chapel Hill, và ở Đại học Tổng hợp Duke, đọc các cuốn nhật ký cũ từ thế kỷ XVI, XVII, cô phát hiện ra hàng loạt những tài liệu tham khảo về “con nai cái lông trắng” và “những con quái vật lông trắng” bí ẩn ở vùng đông bắc Bắc Carolina. Nhưng những trường hợp người ta trông thấy chúng không phải là ở Roanoke hay ở Hatteras. Mà những sinh vật này được trông thấy dọc theo “hai bờ kênh Nước đen nơi sông Uốn Khúc bắt nguồn từ đầm lầy Sầu Thảm chảy về phía tây”.

Mary Beth biết sức mạnh của truyền thuyết và bao giờ cũng có sự thực trong thậm chí là các câu chuyện huyền hoặc nhất. Cô lập luận rằng có thể Những Người Thực Dân Biến Mất, sợ hãi vì bị những bộ lạc địa phương tấn công, đã để lại chữ “Croatoan” nhằm đánh lạc hướng họ, và chạy trốn không phải về phía nam mà là về phía tây, nơi họ định cư dọc theo hai bờ của, phải, của sông Paquenoke uốn khúc – gần Tanner’s Corner, ở khu vực bây giờ được gọi là Bến tàu kênh Nước đen. Ở đó, Những Người Thực Dân Biến Mất càng ngày càng mạnh lên khiến những người Anh điêng, sợ hãi trước mối đe dọa này, đã tấn công và giết chết họ. Virginia Dare – Mary Beth cho phép mình tự phỏng đoán, diễn giải truyền thuyết về Con Nai Cái Lông Trắng – hẳn là người định cư cuối cùng sống sót, đã chiến đấu cho tới lúc chết.

Chà, đây là giả thuyết của cô, nhưng Mary Beth chưa bao giờ tìm thấy bất cứ bằng chứng nào ủng hộ nó. Cô dành cả ngày trời lang thang xung quanh Bến tàu kênh Nước đen với những tấm bản đồ cổ, cố gắng suy luận chính xác địa điểm những người thực dân hẳn đã cập bờ và nơi họ định cư. Rồi cuối cùng, tuần trước, đang bước đi dọc bờ sông Paquo, cô phát hiện ra những chứng cứ thuộc về Thuộc Địa Biến Mất.

Mary Beth nhớ nỗi khiếp sợ của mẹ khi cô bảo bà rằng cô sẽ tiến hành công việc khảo cổ tại Bến tàu kênh Nưóc đen.

“Không phải ở đó,” người phụ nữ có nước da trắng bệch nói gay gắt, y như thể chính mình gặp nguy hiểm. “Đó là nơi Thằng Bọ chuyên giết người. Nó sẽ phát hiện ra mày, nó sẽ hãm hại mày.”

“‘Mẹ,” Mary Beth gay gắt đáp trả. “Mẹ cũng giống như lũ khốn nạn ở trường suốt ngày trêu chọc hắn.”

“Mày lại nói cái từ ấy. Tao đã bảo mày đừng nói cơ mà. Cái từ ‘khốn nạn’ ấy.”

“Mẹ, thôi nào – mẹ nói nghe như một tín đồ phái Baptist không khoan nhượng, ngồi trên băng ghế lo âu.” Ý cô là hàng ghế phía trước trong nhà thờ, nơi an tọa của những người xứ đạo đặc biệt hay bàn khoăn về phẩm hạnh của chính mình, hoặc – nhiều khả năng hơn – về phẩm hạnh của những người khác.

“Ngay cái tên cũng đáng sợ rồi,” Sue McConnell lẩm bẩm. “Nước đen.”

Và Mary Beth giải thích rằng có đến hàng chục kênh Nước đen ở Bắc Carolina. Bất cứ con sông nào bắt nguồn từ những vùng đầm lầy đều được gọi là sông nước đen vì nước sông thẫm màu do thực vật mục nát lắng xuống. Sông Paquenoke nhận nước từ đầm lầy Sầu Thảm và các bãi lầy xung quanh.

Nhưng thông tin này không khiến cho bà mẹ bớt lo lắng. “Mẹ xin con, con yêu, đừng đi.” Rồi người phụ nữ sử dụng đến biện pháp gợi mặc cảm tội lỗi. “Bây giờ bố mất rồi, nếu có chuyện gì xảy ra với con thì mẹ chẳng còn ai nữa… Mẹ sẽ cô độc một mình. Mẹ sẽ phải làm gì? Con không muốn như thế chứ, hả con?”

Nhưng Mary Beth, bị kích thích bởi chất adrenaline vốn vẫn luôn luôn kích thích các nhà thám hiểm và các khoa học gia, đã gói ghém những cái chổi, những cái lọ và túi đựng các thứ thu thập được, cùng với xẻng làm vườn, rồi buổi sáng hôm qua, trong bầu không khí nóng nực, vàng vọt, ẩm ướt, đã xuất phát để tiếp tục thực hiện công việc khảo cổ.

Và đã xảy ra chuyện gì? Mary Beth đã bị Thằng Bọ tấn công, bắt cóc. Mẹ cô đã dự đoán đúng.

Bây giờ, ngồi trong ngôi nhà gỗ gớm ghiếc, nóng nực này, phải chịu đựng cảm giác đau đớn, nôn nao, nửa như mê sảng, cô nghĩ về mẹ. Chồng chết vì bị ung thư sau một thời gian ốm yếu hao mòn, cuộc sống của người phụ nữ này đang tan vỡ. Bà đã từ bỏ bạn bè, công việc tình nguyện tại bệnh viện, mọi vẻ bề ngoài của lề thói và trạng thái bình thường. Mary Beth thấy mình bắt đầu đảm nhiệm vai trò cha mẹ, trong khi mẹ cô thì trượt vào thế giới xem ti vi ban ngày và ăn vặt. Béo lùn, không cảm xúc, lúc nào cũng thèm thuồng, bà chẳng khác nào một đứa trẻ đáng thương.

Nhưng một trong những điều người cha từng dạy Mary Beth – bằng cả cuộc đời ông lẫn cái chết khó nhọc – là người ta luôn luôn làm cái mà người ta đã được định hướng và không thay đổi con đường đi vì bất cứ ai. Mary Beth không bỏ học để nhận một công việc gần nhà như mẹ cô nài nỉ. Cô cân bằng nhu cầu được nương tựa của mẹ với các nhu cầu của chính bản thân cô – lấy bằng cử nhân và sang năm, khi học xong, sẽ tìm kiếm một công việc để có thể thực hiện những nghiên cứu điền dã về nhân chủng học Mỹ. Nếu được gần nhà thì tốt. Nhưng nếu phải tiến hành khai quật về người da đỏ ở Santa Fe, về người Eskimo ở Alaska, hay về người Mỹ gốc Phi ở Manhattan, cô cũng sẽ đi mà không ngần ngại. Cô sẽ luôn luôn ở bên cạnh mẹ khi cần thiết, nhưng cô còn có cả cuộc đời của chính bản thân cô trước mắt.

Trừ lúc này đây, đáng lẽ cô đang phải đào bới và thu thập thêm chứng cứ tại Bến tàu kênh Nước đen, tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn luận văn tốt nghiệp, viết đề xuất, kiểm tra vật đã phát hiện được, thì cô lại mắc kẹt trong cái ổ yêu đương – một gã trai mới lớn mắc chứng tâm thần.

Một cơn tuyệt vọng lan khắp ngưòi cô.

Cô cảm thấy nước mắt ứa ra.

Nhưng rồi cô chặn đứng nó lại.

Thôi nào! Hãy mạnh mẽ lên. Hãy là con gái của bố, chiến đấu với bệnh tật từng giây từng phút mỗi ngày, không ngơi nghỉ. Đừng là con gái của mẹ.

Hãy là Virginia Dare, người làm sống lại Thuộc Địa Biến Mất.

Hãy là Con Nai Cái Lông Trắng, nữ chúa của tất cả các loài vật trong rừng.

Và rồi, đúng lúc Mary Beth đang nghĩ tới bức tranh minh họa con nai cái đường bệ trong một cuốn sách tập hợp những truyền thuyết vùng Bắc Carolina, một sự chuyển động nữa vụt xuất hiện ở bìa rừng. Nhà truyền giáo bước ra khỏi cây cối rậm rạp, vai đeo chiếc ba lô lớn.

Ông ta có thực!

Mary Beth vớ lấy chiếc lọ mà Garrett đựng con bọ cánh cứng trông giống một con khủng long, ném mạnh vào kính cửa sổ. Chiếc lọ bay qua kính và vỡ tan trước những chấn song sắt lắp phía ngoài.

“Cứu tôi với!” Mary Beth hét lên, giọng hầu như không nghe thấy được vì cổ họng cô đã khô rang rồi. “Cứu với!”

Cách đây gần một trăm thước, người đàn ông dừng bước. Ông ta nhìn xung quanh.

“Làm ơn! Cứu tôi với!” Một câu rền rĩ kéo dài.

Ông ta ngoái nhìn đằng sau. Rồi bước đi vào rừng.

Mary Beth hít sâu một hơi và cố gắng gọi lần nữa, nhưng cổ họng cô nghẹn lại. Cô cảm thấy nghẹt thở, nhổ ra ít máu.

Và ở phía bên kia cánh đồng cỏ, nhà truyền giáo tiếp tục bước vào rừng. Một lát sau, bóng ông ta khuất hẳn.

Mary Beth nặng nề buông người xuống chiếc đi văng mốc meo và tuyệt vọng dựa đầu vào tường. Cô đột ngột ngước nhìn, cô lại bắt gặp sự di động nào đấy. Nó ở gần thôi – trong ngôi nhà gỗ này. Con bọ cánh cứng trong chiếc lọ – con khủng long ba sừng tí hon – vẫn sống sót sau cú chấn động vì mất nhà. Mary Beth quan sát nó ngoan cường bò lên mép miếng thủy tinh vỡ, xòe một đôi cánh, rồi xòe một đôi cánh nữa, đôi cánh này rung mờ đi và nhấc nó rời khỏi bậu cửa sổ, bay ra bầu trời tự do.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.