Cái Ghế Trống

CHƯƠNG 44



Tấm biển gắn trên một bức tường tòa án giải thích rằng tên tiểu bang bắt nguồn từ từ Carolus trong tiếng Latin, có nghĩa là Charles trong tiếng Anh. Vua Charles I đã ban giấy cấp đất để thiết lập nên thuộc địa này.

Carolina…

Amelia Sachs lại cứ tưởng tên tiểu bang được đặt theo tên một nữ hoàng hay một công nương nào đó, Carolina. Sinh ra và lớn lên ở Brooklyn, cô không mấy quan tâm, cũng không mấy hiểu biết, về hoàng tộc.

Bây giờ thì cô đang ngồi giữa hai người lính gác trên chiếc ghế băng trong tòa án, tay vẫn bị còng. Tòa nhà bằng gạch đỏ lâu đời, sàn lát đá cẩm thạch và gỗ gụ sẫm màu. Những người đàn ông nghiêm khắc mặc com lê đen, những vị thẩm phán hoặc thống đốc, cô đồ là thế, từ những bức tranh sơn dầu nhìn xuống cô, như thể họ biết cô có tội. Không có máy điều hòa nhiệt độ, nhưng nhờ kỹ thuật công trình hiệu quả của thế kỷ XVIII, những làn gió nhẹ và bóng tối khiến chốn này đâm mát mẻ.

Fred Dallray thong thả đi tới chỗ cô. “Xin chào – cô muốn cà phê hay thứ gì không?”

Người lính gác bên tay trái vừa bắt đầu “Không nói chuyện với…” thì chiếc thẻ nhân viên Bộ Tư pháp đã cắt đứt lời nhắc nhở.

“Không, Fred. Lincoln đâu?”

Đã gần chín rưỡi.

“Không biết. Cô biết cái tay đó mà – đôi khi anh ta cứ bỗng dưng xuất hiện thôi. Đối với một người không đi lại được thì anh ta lại lang thang chỗ nọ chỗ kia nhiều hơn bất cứ ai khác tôi từng biết đấy.”

Lucy và Garrett cũng chưa thấy tới.

Sol Geberth, mặc bộ com lê màu xám trông đắt tiền, bước đến chỗ Sachs. Người lính gác bên tay phải nhanh chóng đứng lên nhường cho ông luật sư ngồi xuống. “Xin chào, Fred.” Ông luật sư nói với ông mật vụ.

Dellray gật đầu đáp lại, nhưng lạnh nhạt, và Sachs suy luận rằng, cũng như với Rhyme, ông luật sư bào chữa này hẳn từng cãi trắng án cho một số đối tượng bị ông mật vụ tóm cổ.

“Đã thương lượng rồi,” Geberth bảo Sachs. “Công tố viên đồng ý với tội ngộ sát – ngoài ra sẽ không có thêm điểm buộc tội nào. Năm năm. Không có chuyện cam kết để được tha.”

Năm năm…

Ông luật sư tiếp tục: “Hôm qua tôi chưa nghĩ tới một khía cạnh của việc này.”

“Khía cạnh gì vậy?” Sachs hỏi, cố gắng phán đoán qua vẻ mặt Geberth xem cái vấn đề mới nảy sinh đó phức tạp tới mức nào.

“Vấn đề là cô là một cảnh sát.”

“Điều ấy có liên quan gì?”

Gerberth chưa kịp nói thì Dellray đã nói trước: “Cô là một sĩ quan cảnh sát. Một người vốn thuộc hệ thống này.”

Khi Sachs vẫn chưa hiểu, người nhân viên mật vụ giải thích: “Thuộc hệ thống nhà tù này. Cô sẽ phải được cách ly. Nếu không cô sẽ không tồn tại nổi lấy một tuần. Hoàn cảnh sẽ khắc nghiệt đấy Amelia. Sẽ hết sức khắc nghiệt đấy.”

“Nhưng có ai biết tôi là cảnh sát đâu.”

Dellray cất tiếng cười khẽ. “Cho tới lúc cô được phát bộ đồng phục tù nhân bằng nỉ và lanh thì bọn họ sẽ biết không sót thông tin nào về cô cả.”

“Tôi chưa từng tóm cổ ai dưới này. Tại sao họ lại bận tâm chuyện tôi là cảnh sát chứ?”

“Cô từ đâu đến không tạo ra một mảy may khác biệt nào,” Dellray vừa nói vừa nhìn Geberth, ông này gật đầu khẳng định. “Cô tuyệt đối sẽ không được giam chung.”

“Vậy, về cơ bản, sẽ là năm năm cô độc.”

“Tôi e là thế, Geberth nói.

Sachs nhắm mắt lại, cảm thấy cơn buồn nôn lan khắp người.

Năm năm không xê dịch, năm năm của nỗi hãi sợ trong một không gian đóng kín, năm năm của ác mộng…

Và, là một kẻ từng bị kết án, làm sao cô có thể nghĩ đến chuyện làm mẹ? Sự tuyệt vọng khiến cô nghẹt thở.

“Thế nào?” ông luật sư hỏi. “Sẽ thế nào đây?”

Sachs mở mắt ra. “Tôi chấp nhận.”

Căn phòng đông đúc. Sachs trông thấy Mason Germain và một vài cảnh sát khác. Hai ông bà nét mặt nghiêm trang, mắt đỏ hoe, có lẽ là cha mẹ Jesse Corn, ngồi ở hàng ghế phía trước. Sachs vô cùng muốn nói điều gì đó với họ, nhưng ánh mắt khinh bỉ của họ khiến cô câm lặng. Cô chỉ trông thấy hai gương mặt nhìn cô vẻ tử tế: Mary Beth McConnell và một phụ nữ dáng nặng nề có lẽ là mẹ cô gái. Không thấy Lucy Kerr đâu. Cũng không thấy Rhyme. Cô cho rằng anh không lòng nào chứng kiến cảnh cô bị dẫn ra trong xiềng xích. Ờ, không sao, cô cũng chẳng muốn gặp anh trong hoàn cảnh này.

Nhân viên chấp hành của tòa án dẫn Sachs đến bàn luật sư bào chữa. Anh ta không tháo còng cho cô. Sol Geberth ngồi bên cạnh cô.

Họ đứng dậy khi vị thẩm phán bước vào, và người đàn ông dáng khẳng khiu khoác áo choàng màu đen rộng thùng thình an tọa bên chiếc bàn cao. Ông ta dành vài phút xem qua các tài liệu, trao đổi với người thư ký của mình. Cuối cùng, ông ta gật đầu, và người thư ký tuyên bố: “Phiên tòa xử vụ Người Dân bang Bắc Carolina đòi khởi tố Amelia Sachs.”

Vị thẩm phán gật đầu với công tố viên đến từ Raleigh. Người đàn ông cao, tóc bạc đứng dậy. “Thưa ngài thẩm phán, bị cáo và bang đã đi đến một thỏa thuận điều đình nhận tội, theo đó thì bị cáo đồng ý nhận tội giết người cấp độ hai đối với cái chết của cảnh sát Jesse Randolph Corn. Bang bác bỏ tất cả các tội khác và đề nghị mức án năm năm tù, không có cam kết để được tha hoặc giảm án.”

“Cô Sachs, cô đã bàn bạc về thỏa thuận này với luật sư của cô chưa?”

“Đã, thưa ngài thẩm phán.”

“Và ông ấy đã cho cô biết rằng cô có quyền phản đối nó để được đưa ra xét xử chưa?”

“Thưa đã.”

“Và cô hiểu là với việc chấp nhận thỏa thuận nay, cô sẽ phải nhận tội giết người?”

“Vâng.”

“Cô tự nguyện đi đến quyết định?”

Sachs nghĩ tới cha cô, tới Nick. Và tới Lincoln Rhyme. “Vâng.”

“Rất tốt. Cô có ý kiến như thế nào trước tội giết người cấp độ hai được buộc cho cô?”

“Tôi nhận tội, thưa ngài thẩm phán.”

“Theo đề nghị của bang, thỏa thuận điều đình nhận tội được đưa ra xem xét và tôi có mặt tại đây kết án cô…”

Hai cánh cửa bọc da màu đỏ mở thông ra hành lang bị đẩy mạnh vào bên trong và với tiếng rít chói tai, chiếc xe lăn của Lincoln Rhyme lựa chiều lăn vào. Một nhân viên chấp hành cố gắng mở hai cánh cửa ra cho chiếc Storm Arrow, nhưng Rhyme có vẻ vội vã và cứ thế lao qua. Một bên cánh cửa đập vào tường đánh sầm. Lucy Kerr theo sau anh.

Vị thẩm phán ngẩng nhìn, sẵn sàng quở trách kẻ xâm phạm. Khi ông ta trông thấy chiếc xe lăn, ông ta – giống như phần lớn những người khác – rút lui vào cái thái độ nhã nhặn khôn khéo mà Rhyme vốn vẫn khinh miệt, không nói gì cả. Ông ta quay lại phía Sachs. “Tôi có mặt tại đây kết án cô năm năm…”

Rhyme nói: “Hãy tha lỗi cho tôi, ngài thẩm phán. Tôi cần trao đổi với bị cáo và luật sư của cô ấy một phút.”

“Chà,” viên thẩm phán gầm gừ. “Chúng tôi đang tiến hành công việc. Anh có thể trao đổi với cô ấy sau.”

“Với tất cả sự trân trọng, thưa ngài thẩm phán,” Rhyme đáp lời. “Tôi cần nói chuyện với cô ấy bây giờ.” Giọng anh cũng gầm gừ, nhưng âm lượng lớn hơn nhiều so với giọng thẩm phán.

Giống hệt như những ngày tháng cũ, lại ở trong một phòng

Phần lớn mọi người nghĩ công việc duy nhất mà các nhà hình sự học tiến hành là tìm ra và phân tích chứng cứ. Nhưng khi Lincoln Rhyme còn phụ trách bộ phận khám nghiệm của Sở Cảnh sát New York – bộ phận Điều tra và Nguồn lực – thời gian anh ra làm chứng trước tòa cũng gần bằng thời gian anh ở trong phòng thí nghiệm. Anh từng là một chuyên gia làm chứng. (Blaine, vợ cũ của anh, hay nhận xét rằng anh thích biểu diễn trước mọi người – trong đó có cả cô ta – hơn tương tác với họ.)

Rhyme thận trọng điều khiển chiếc xe lăn đến sát dãy chấn song ngăn giữa các bàn của luật sư và khu vực dành cho cử tọa trong phòng xử án Tòa án quận Paquenoke. Anh nhìn Amelia Sachs và hình ảnh trước mắt làm tan nát trái tim anh. Sau ba ngày bị giam, cô đã sút cân nhiều, khuôn mặt trở nên vàng vọt. Mái tóc đỏ bẩn thỉu được búi lên – cô hay làm thế khi ở các hiện trường vụ án để tránh cho tóc quệt vào chứng cứ, kiểu tóc này khiến gương mặt bình thường vốn xinh đẹp của cô trông nghiêm nghị và mệt mỏi.

Geberth bước tới chỗ Rhyme, khom người xuống. Nhà hình sự trao đổi với ông ta mấy phút. Cuối cùng, Geberth gật đầu và đứng thẳng dậy. “Thưa ngài thẩm phán, tôi ý thức đưọc rằng đây là phiên tòa có liên quan đến thỏa thuận điều đình nhận tội. Nhưng tôi xin nêu một đề xuất đặc biệt. Một số bằng chứng mới đã xuất hiện…”

“Những bằng chứng mà ông có thể đưa ra tại phiên tòa xét xử, nếu thân chủ của ông quyết định khước từ thỏa thuận điều đình nhận tội,” thẩm phán nói gay gắt.

“Tôi không đề xuất việc đưa ra trước tòa bất cứ bằng chứng nào cả. Tôi chỉ muốn bang nhà biết đến bằng chứng này và thử xem liệu người đồng nghiệp đáng kính của tôi đây có đồng ý cân nhắc tới nó hay không thôi.”

“Với mục đích gì?”

“Có thể để thay đổi các tội buộc cho thân chủ tôi.” Geberth nhũn nhặn nói thêm. “Điều có thể khiến danh sách những vụ kiện chờ xét xử của ngài thẩm phán ngắn bớt lại một chút.”

Thẩm phán đảo mắt, cho thấy giọng điệu khéo léo của dân Yankee cũng có tác dụng. Tuy nhiên, ông ta vẫn liếc nhìn công tố viên và hỏi: “Thế nào?”

Công tố viên hỏi Geberth: “Bằng chứng loại gì? Một nhân chứng mới à?”

Rhyme không thể tự kiềm chế lâu hơn nữa. “Không,” anh nói. “Vật chứng.”

“Ông là ông Lincoln Rhyme mà tôi đã nghe nói tới?” viên thẩm phán hỏi.

Cứ như thể có đến hai nhà hình sự học què quặt đến tiến hành công việc ở cái bang Bắc Carolina này không bằng.

“Vâng, là tôi.”

Công tố viên hỏi: “Bằng chứng đó đâu?”

“Đang được bảo quản ở chỗ làm việc của tôi, văn phòng cảnh sát trưởng quận Paquenoke,” Lucy nói.

Thẩm phán hỏi Rhyme: “Ông sẽ đồng ý cung cấp lời khai, sau khi tuyên thệ trước tòa chứ?”

“Tất nhiên.”

“Ông có đồng ý không, luật sư?” thẩm phán hỏi công tố viên.

“Tôi đồng ý, thưa ngài thẩm phán, nhưng nếu đây chỉ là chiến thuật hoặc bằng chứng rốt cuộc hóa ra vô nghĩa, tôi sẽ buộc ông Rhyme tội can thiệp vào phiên tòa.”

Thẩm phán suy nghĩ một lát rồi nói: “Xin lưu ý, đây không thuộc về phần xét xử. Tòa chỉ linh hoạt cho phép các bên được đưa ra lời khai trước khi xét xử. Việc kiểm tra bằng chứng sẽ được tiến hành tuân theo Quy định về Tố tụng Hình sự của bang Bắc Carolina. Hãy tuyên thệ đi.”

Rhyme đỗ xe lăn trước bàn thẩm phán. Khi viên thư ký cầm cuốn Kinh thánh ngập ngừng tiến đến, Rhyme nói: “Không, tôi không nhấc bàn tay phải lên được.” Rồi anh đọc: “Tôi xin long trọng thề rằng lời khai của tôi là đúng sự thực.” Anh cố gắng tìm ánh mắt Sachs, nhưng cô đang đăm đăm nhìn xuống sàn phòng xử án trang trí theo kiểu ghép mảnh đã phai màu.

Geberth đi ra phía trước phòng xử án. “Ông Rhyme hãy khai họ tên, địa chỉ và nghề nghiệp của ông.”

“Lincoln Rhyme, ở số 345 đường Tây Công viên Trung Tâm thành phố New York. Tôi là một nhà hình sự học.”

“Nghĩa là một nhà khoa học khám nghiệm, đúng không?”

“Phần nào nhiều hơn thế, nhưng khám nghiệm là phần lớn công việc tôi làm.”

“Và quan hệ của ông đối với bị cáo Amelia Sachs?”

“Cô ấy là trợ lý và đối tác của tôi trong nhiều cuộc điều tra hình sự.”

“Và lý do ông đến Tanner’s Corner?”

“Chúng tôi hỗ trợ Cảnh sát trưởng James Bell và văn phòng cảnh sát trưởng quận Paquenoke. Điều tra vụ sát hại Billy Stail cũng như các vụ bắt cóc Lydia Johansson và Mary Beth McConnell.”

Geberth hỏi: “Bây giờ, ông Rhyme, ông nói là ông có bằng chứng mới về vụ án này?”

“Vâng, tôi có.”

“Bằng chứng là gì?”

“Sau khi chúng tôi biết Billy Stail đã đến Bến tàu kênh Nước đen với mục đích giết Mary Beth McConnell, chúng tôi bắt đầu phỏng đoán lý do để hắn làm việc này. Và tôi đi tới kết luận rằng hắn được trả tiền. Hắn…”

“Tại sao ông nghĩ hắn được trả tiền?”

“Lý do tại sao quá rõ ràng,” Rhyme làu bàu. Anh vốn hầu như không có chút kiên nhẫn nào đối với những câu hỏi không thích hợp và Gerberth đang đi chệch khỏi kịch bản của anh.

“Hãy cho chúng tôi cùng biết, nếu có thể.”

“Billy không có bất cứ kiểu quan hệ lãng mạn nào với Mary Beth. Hắn không tham gia vào vụ sát hại gia đình nhà Garrett Hanlon. Hắn thậm chí không biết cô gái. Bởi vậy hắn không có động cơ nào để giết cô ta trừ động cơ tiền bạc.”

“Hãy tiếp tục.”

“Dù là kẻ nào thuê hắn thì kẻ ấy cũng không định trả bằng séc, tất nhiên, mà bằng tiền mặt. Cảnh sát Lucy Kerr đã tới nhà cha mẹ Billy Stail và được phép khám xét phòng hắn. Cô ấy đã phát hiện ra mười nghìn đô la giấu dưới nệm giường.”

“Chi tiết này có…”

“Tại sao ông không để tôi trình bày cho hết câu chuyện nhỉ?” Rhyme hỏi luật sư.

Thẩm phán nói: “Đúng đấy, ông Rhyme. Tôi nghĩ là luật sư đã thực hiện đủ các bước chuẩn bị cơ bản.”

“Với sự hỗ trợ của sĩ quan Kerr, tôi tiến hành kiểm tra dấu vân tay ở mặt trên và mặt dưới các xấp tiền. Tôi tìm thấy tổng cộng sáu mươi mốt dấu vân tay dạng ẩn. Ngoài dấu vân tay của Billy, hai trong số các dấu vân tay đó tỏ ra là của một người có liên quan đến vụ án này. Cảnh sát Kerr nhận được thêm một lệnh khám xét nữa đối với nhà đối tượng ấy.”

“Ông cũng tham gia khám xét chứ?” viên thẩm phán hỏi.

Rhyme trả lời với sự kiên nhẫn ép buộc: “Không, tôi không tham gia. Tôi không thể làm được việc ấy. Nhưng tôi chỉ đạo cuộc khám xét, còn người thực hiện là cảnh sát Kerr. Bên trong ngôi nhà, cô ấy tìm thấy hóa đơn mua một chiếc xẻng giống hệt món vũ khí giết người kia, và tám mươi ba nghìn đô la tiền mặt gói bằng thứ giấy giống hệt thứ giấy gói hai xấp tiền ở nhà Billy Stail.”

Vẫn hay gây ấn tượng mạnh như vậy, Rhyme để dành những gì kịch tính nhất cho tới phút chót.

“Cảnh sát Kerr cũng tìm thấy các mảnh xương ở khu vực tổ chức tiệc thịt nướng đằng sau ngôi nhà. Các mảnh xương này phù hợp với xương gia đình nhà Garrett Hanlon.”

“Đó là nhà ai vậy?”

“Cảnh sát Jesse Corn.”

Câu trả lời này làm dậy lên tiếng rì rầm từ các dãy ghế của phòng xử án. Công tố viên vẫn không tỏ ra bối rối nhưng ngồi hơi thẳng lên, đôi giày di qua di lại trên mặt sàn lát đá, thì thầm trao đổi với mấy người đồng nghiệp. Họ cân nhắc những hàm ý của sự tiết lộ này. Dưới khu vực dự khán, cha mẹ Jesse Corn quay sang nhìn nhau, ánh mắt đầy sững sờ. Mẹ anh ta lắc đầu, bật khóc.

“Chính xác là ông đang đi tới đâu, ông Rhyme?” viên thẩm phán hỏi.

Rhyme kiềm chế không nói với thẩm phán rằng cái đích đã quá rõ ràng. Anh trả lời: “Thưa ngài thẩm phán, Jesse Corn là một trong số những kẻ cùng Jim Bell và Steve Farr âm mưu sát hại gia đình nhà Garrett Hallon cách đây năm năm, rồi lại định giết Mary Beth McConnell hôm trước.”

Ồ, phải, chính trong lòng thị trấn này là mấy cái tổ ong bắp cày.

Thẩm phán dựa người vào lưng ghế. “Điều này không liên quan gì đến tôi. Hai vị tự giao đấu.” Ông ta hất đầu về phía Geberth, rồi về phía công tố viên. “Hai vị có năm phút, sau đó hoặc là cô ta chấp nhận thỏa thuận điều đình nhận tội hoặc là tôi sẽ cấp giấy tại ngoại hậu cứu và sắp xếp lịch xét xử.”

Công tố viên nói với Geberth: “Như thế không có nghĩa cô ta không giết chết Jesse. Thậm chí nếu Corn đã là một kẻ đồng mưu thì anh ta vẫn là nạn nhân của việc giết người.”

Lúc này, cái ông miền Bắc kia bắt buộc phải đảo mắt. “Ồ, thôi nào.” Geberth nói gay gắt, như thể công tố viên là đứa học trò chậm hiểu. “Điều có nghĩa ở đây là Corn đã hành động vượt quá quyền hạn của một nhân viên thực thi pháp luật và khi anh ta tấn công Garrett anh ta trở thành kẻ tội phạm, được trang bị vũ khí, nguy hiểm. Jim Bell đã thừa nhận rằng bọn họ dự định tra tấn thằng bé để moi lấy lời khai về nơi thằng bé đang giữ Mary Beth. Tới khi bọn họ tìm thấy cô gái rồi thì Corn sẽ ở ngay đây phối hợp với Culbeau và mấy gã kia thủ tiêu Lucy Kerr cũng như hai cảnh sát còn lại.”

Thẩm phán chậm rãi quét ánh mắt từ trái sang phải trong lúc theo dõi trận tennis vô tiền khoáng hậu này.

Công tố viên nói: “Tôi chỉ có thể tập trung vào tội phạm trong tầm tay. Việc Jesse Corn có ý đồ giết ai hay không không thành vấn đề.”

Geberth chậm rãi lắc đầu. Ông luật sư bảo thư ký tòa: “Chúng tôi tạm thời dừng cung khai. Điểm này đừng đưa chính thức vào văn bản.” Rồi ông ta bảo công tố viên: “Mục đích của vụ kiện là gì? Khi chính Corn là kẻ sát nhân.”

Rhyme cũng nói với công tố viên: “Ông đưa việc này ra xét xử và theo ông thì bồi thẩm đoàn sẽ có cảm giác ra sao khi chúng tôi chứng minh rằng nạn nhân là một cảnh sát biến chất đã lập kế hoạch tra tấn một thằng bé vô tội để tìm thấy một cô gái trẻ, rồi thủ tiêu cô?”

Geberth tiếp tục: “Ông không muốn danh sách những kẻ bị ông bắt giữ chỉ đến đây thôi chứ? Ông đã có Bell, ông đã có em rể hắn, tay điều tra viên….”

Trước khi công tố viên kịp phản đối lần nữa, Rhyme ngẩng nhìn ông ta, nói giọng nhẹ nhàng: “Tôi sẽ giúp đỡ ông.”

“Cái gì?” công tố viên hỏi.

“Ông biết kẻ nào đứng đằng sau toàn bộ câu chuyện này, phải không? Ông biết kẻ nào giết hại nửa số cư dân của Tanner’s Corner chứ?”

“Henry Davett,” công tố viên đáp. “Tôi đã đọc hồ sơ và các lời khai.”

Rhyme hỏi: “Và việc khởi tố ông ta thì như thế nào?”

“Không dễ dàng. Không có bằng chứng gì. Không có gì để kết nối ông ta với Bell hay với bất cứ ai ở thị trấn. Ông ta sử dụng trung gian và tất cả đều đang gây cản trở hoặc nằm ngoài quyền hạn xét xử của chúng tôi.”

“Nhưng…” Rhyme nói, “ông muốn tóm được ông ta – trước khi có thêm những người chết vì ung thư chứ? Trước khi có thêm những đứa trẻ bị ốm rồi tự tử? Trước khi có thêm những đứa trẻ chào đời mang dị tật bẩm sinh?”

“Tất nhiên là tôi muốn.”

“Thế thì ông cần tôi. Ông sẽ không tìm thấy ở bất cứ đâu trong bang này một nhà hình sự học có thể hạ gục Davett. Tôi có thể.” Rhyme liếc nhìn Sachs. Anh có thể trông thấy những giọt lệ trong mắt cô. Anh biết ý nghĩ duy nhất trong đầu óc cô lúc này là, dù cô có phải ngồi tù hay không, thì cô cũng đã không giết chết một người vô tội.

Công tố viên thở dài thườn thượt. Rồi ông ta gật đầu. Vội vã, y như thể sợ mình sẽ có thể thay đổi ý kiến, ông ta nói: “Đồng ý thương lượng.” Ông ta nhìn về phía chủ tọa. “Thưa ngài thẩm phán, trong vụ Người Dân bang Bắc Carolina đòi khởi tố Amelia Sachs, bang xin rút tất cả các lời buộc tội.”

“Tòa chấp thuận,” vị thẩm phán đã ngán ngẩm tuyên bố.

“Bị cáo được tự do. Vụ tiếp theo.” Ông ta thậm chí chẳng buồn gõ búa.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.