Cậu ấm ngây thơ

Chương 11 phần 2 (Hết)



Đến ngày thứ tám, tôi rời khỏi nhà trọ lúc bảy giờ. Đầu tiên tôi thong thả đi tắm nước nóng. Sau đó ra phố mua tám quả trứng gà. Đấy là phương sách của tôi để đối phó với khoai sọ kho của bà chủ nhà. Tôi bỏ vào mỗi bên ống tay áo bốn quả trứng, quàng chiếc khăn tắm màu đỏ lên vai, xỏ tay trong ngực áo, leo lên cầu thang nhà hàng Ma-su-ya. Vừa mở cửa phòng, thấy mặt Nhím rạng rỡ như thần Vi Thái Thiên, khoe rối rít: “Có triển vọng rồi. Có triển vọng rồi!”

Cho đến tận tối hôm qua, trông mặt hắn ỉu xìu xìu đến nỗi tôi nghĩ bụng “rõ thật là cái đồ hãm tài!” Thế mà bây giờ nhìn hắn tôi cũng vui hẳn lên, chẳng kịp hỏi han gì đã vội reo “vui quá, vui quá!”

– Tối nay, lúc bảy rưỡi, cô đào Su-zu đã đến nhà hàng Ka-do-ya rồi.

– Đi cùng với Áo Đỏ à?

– Không.

– Thế thì hỏng rồi.

– Hắn có hai cô kia. Nhưng dù sao cũng có triển vọng rồi.

– Tại sao?

– Là bởi vì hắn là thằng rất cáo, cho nên có thể hắn để cho nàng vào trước rồi mới lẻn vào sau.

– Có thể là như vậy. Bây giờ đã chín giờ rồi còn gì?

– Bây giờ mới có chín giờ mười hai phút.

Nhím vừa nói vừa vạch tay áo nhìn chiếc đồng hồ Niken và bảo tôi: “Tắt đèn đi. Để bóng hai cái đầu in vào cửa sổ thế này kì lắm. Thằng cáo ấy nó sẽ nghi ngay.”

Tôi thổi phụt ngọn đèn dầu đang để trên chiếc bàn bọc giấy dầu. Cửa sổ chỉ còn lờ mờ ánh sao. Trăng vẫn chưa lên. Tôi và Nhím nín thở, áp mặt vào cửa sổ. Đồng hồ ngoài cột đường kêu “boong” một tiếng, báo hiệu chín rưỡi.

– Này, liệu nó có đến không nhỉ? Nếu mà đêm nay nó cũng không đến thì tôi sẽ bỏ cuộc đấy!

– Tôi thì chừng nào còn tiền tôi còn phục.

– Tiền à? Hết tất cả bao nhiêu?

– Đến hôm nay là tám ngày, mất tất cả năm yên sáu mươi sên rồi. Tôi trả tiền từng ngày để muốn đi lúc nào thì đi.

– Anh tính nước như thế hay đấy. Nhà trọ họ có ngạc nhiên không?

– Về nhà trọ thì không sợ gì, nhưng bị giam hãm thế này hơi mệt.

– Thay vào đó, ban ngày anh ngủ chứ gì?

– Ngủ thì ngủ, nhưng không được đi đâu ra ngoài, chán lắm.

– Thực hiện sự trừng phạt của trời cũng mệt nhỉ. Nhưng mà nếu lưới trời để lọt kẻ gian thì cũng buồn.

– Cậu nói gì vậy. Đêm nay nhất định nó sẽ đến mà. Kìa, nhìn kìa, nhìn kìa. Hắn khẽ reo lên làm tôi cũng hồi hộp.

Dưới chân cột đèn nhà hàng Ka-do-ya, một gã đàn ông đội mũ đen đứng nhìn lên rồi đi thẳng về chỗ có bóng tối. Nhầm rồi! chà, chà… Tôi nghĩ thế và đồng hồ lại điềm nhiên điểm, báo mười giờ. Kiểu này chắc đêm nay lại hỏng mất.

Tất cả xung quanh đã im ắng. Tiếng trống từ lầu xanh nghe rõ như gần ngay bên cạnh, tưởng chừng có thể giơ tay ra là với được. Từ phía sau ngọn núi, ở phố nước nóng, trăng đã nhô lên. Đường sáng vằng vặc. Rồi nghe thấy tiếng guốc lẹp kẹp. Nghiêng mắt về phía đó thì thấy có hai bóng người đang đi đến.

– Thôi, bây giờ chẳng còn sợ gì nữa nhỉ. Tống được cái gai đi rồi.

Đây đúng là tiếng của Hề Trống.

– Chỉ mạnh mẽ mà không có mưu trí thì cũng chả làm được trò gì.

Đây thì là tiếng Áo Đỏ.

– Cái thằng đó cứ như thằng du côn khốn kiếp, lại được thêm cái thằng công tử bột, phổi bò nữa, nên càng ra vẻ ta đây.

– Nào là không thích lên lương à, nào là đòi xin thôi việc à. Đến nước ấy thì đúng là thần kinh dị dạng rồi…

Tôi những muốn mở cửa sổ, nhảy từ tầng hai xuống, giã thẳng thừng cho bọn chúng ngay, nhưng đành phải cố nén chịu thêm chút nữa. Hai tên cười hí hí rồi chui qua chân đèn, vào trong nhà hàng Ka-do-ya.

– Hử.

– Đến rồi đấy.

– Ừ, thế là cuối cùng chúng đã đến.

– Thế này là yên tâm rồi.

– Cái thằng Hề Trống chó đẻ, nó dám gọi tôi là “công tử bột yêng hùng”!

– Còn nó nói “cái gai” là ám chỉ mình đấy. Thật láo lếu quá chừng.

Tôi và Nhím phải phục kích, chờ lúc hai tên đó ra về, nhưng không biết khi nào thì chúng mới ra. Nhím xuống tầng một, nói với nhà hàng là đêm nay có việc, có thể giữa đêm phải ra ngoài, nên nhà hàng đừng đóng cửa. Bây giờ nghĩ lại mới thấy nhà hàng đó thật là dễ tính. Lẽ ra người ta phải nghi ngờ đây là quân ăn trộm mới phải!

Khi phục chờ Áo Đỏ đến đã thấy chán lắm rồi, bây giờ chờ chúng quay ra lại càng thấy chán nữa. Không được ngủ, cứ phải dán mắt vào cửa sổ mà nhìn thì đã chán, lại thêm sự nôn nóng sốt ruột nữa, thật là không có lúc nào cảm thấy chán như lúc phải làm việc này. Thực ra, đã có lúc tôi đề xuất sáng kiến là cứ nhảy vào nhà hàng Ka-do-ya bắt chúng tại chỗ đi. Nhưng Nhím chỉ nói một cái là tôi rút lui ý kiến ngay. “Nếu bọn mình nhảy vào giờ này thì nhà hàng họ coi bọn mình là lũ côn đồ hành hung, họ chặn lại ngay. Còn nếu nói rõ lí do và yêu cầu cho vào thì người ta sẽ nói là không có, hoặc dẫn mình vào phòng khác. Nếu cứ xông bừa vào thì có bao nhiêu là phòng, biết nó ở phòng nào? Cho nên, dù chán cũng phải chờ cho đến lúc nó ra, chứ không còn cách nào khác được.” Thế là chúng tôi đành phục cho đến năm giờ sáng.

Vừa nhìn thấy bóng hai thằng ra khỏi nhà hàng Ka-do-ya là tôi và Nhím bám theo ngay. Chuyến tàu đầu tiên trong ngày vẫn chưa có, nên chúng phải đi bộ đến đường phố dưới chân lâu đài. Ra khỏi thị trấn suối nước nóng, thì có một rặng thông dài chừng nửa con sào nằm giữa hai bên là ruộng trũng. Đi khỏi rặng thông này, thì có một con đê chạy thẳng đến đường phố dưới chân lâu đài và lác đác có một vài ngôi nhà. Nếu ra khỏi rặng thông thì chúng tôi có thể đuổi kịp chúng bất cứ lúc nào. Nhưng tốt nhất là nên tóm chúng ở chỗ rặng thông vắng vẻ này. Chúng tôi bám riết ngay sau lưng chúng. Vừa ra khỏi thị trấn, lập tức chúng tôi chạy vụt đến chỗ hai thằng như một luồng gió. Tôi thét “Dừng lại!” và nắm ngay lấy vai một thằng vừa ngoái lại vì giật mình, tưởng có gì xảy ra.. Hề Trống vội co cẳng định chạy như con sói, tôi liền nhảy lên trước chặn lại.

– Làm chức hiệu phó mà sao lại đi chơi đêm và ngủ lại trong nhà hàng Ka-do-ya? Nhím bắt đầu hỏi tội.

– Nhưng có quy định nào cấm ngủ đêm trong nhà hàng Ka-do-ya không nhỉ? Áo Đỏ vẫn bình tĩnh nói nhưng mặt thì hơi tái.

– Một người nghiêm chỉnh đến mức nói là không nên đến các hiệu bánh, hiệu phở, phải làm gương cho học sinh, mà sao lại đi ngủ đêm trong nhà hàng với các cô gái ả đào?

Thấy có cơ hội, Hề Trống lại định chuồn. Tôi liền đứng chặn trước mặt hắn, quát: “Mày nói ai là công tử bột ngu xuẩn hả?”

– Không, tôi có nói cậu đâu. Hoàn toàn không phải thế.

Hề Trống nói láo xược. Lúc này tôi mới để ý thấy hai tay mình vẫn giữ chặt ống tay áo. Vì khi chạy, những quả trứng trong đó cứ lủng lẳng, vướng nên tôi phải nắm tay để giữ và cứ nắm như thế mà chạy. Tôi liền thọc tay vào ống tay áo, móc ra hai quả, vừa thét vừa đập mạnh vào mặt Hề Trống. Hai quả trứng vỡ bét, lòng đỏ chảy ròng ròng từ sống mũi hắn, chảy xuống. Bị bất ngờ, Hề Trống kêu “úi” rồi ngã bệt xuống đất, miệng kêu “cứu tôi với”. Tôi mua trứng định để ăn chứ không phải để đập như thế này, nhưng vì quá tức nên dù không định cũng đã làm. Thấy Hề Trống ngã bệt xuống, tôi thấy mình làm thế mà hay nên còn lại sáu quả tôi đập tất vào mặt hắn, vừa đập vừa mắng “đồ con lợn, đồ con lợn”. Mặt hắn biến thành một màu vàng khè. Trong lúc tôi đập trứng vào mặt Hề Trống thì cuộc đấu khẩu giữa Nhím và Áo Đỏ đang vào hồi cao điểm nhất.

– Anh có chứng cớ nào chứng minh là tôi đã dẫn cô đào vào ngủ trong nhà hàng không?

– Lúc chập tối, tao đã trông thấy cô ả quen của mày vào trong nhà hàng ấy. Đừng có mà lấp liếm.

– Không cần gì phải lấp liếm cả. Tôi và anh Yo-shi-ka-wa cùng ở với nhau có hai người. Còn lúc chập tối, có cô nào vào hay không thì cũng chẳng có liên quan gì với tôi cả.

– Im mồm đi! Nhím lên gân, nện cho hắn một quả. Áo Đỏ lảo đảo người nhưng vẫn nói:

– Thế này là hành động thô bạo, là hành hung. Không nói cho ra lí ra lẽ mà chỉ dùng tay để nói chuyện như thế này là không đúng!

– Không đúng cũng đủ quá rồi. Nhím lại giáng thêm một quả nữa. Cái loại gian giảo như mày, không nện thì không xong… vừa nói vừa tiếp tục đấm “bụp… bụp…”

Cùng lúc đó, tôi cũng tới tấp nện Hề Trống. Cuối cùng, cả hai thằng ngồi thụp xuống gốc thông. Không biết là chúng đã bị rệu rã không còn cử động được nữa, hay là đã bị hoa mắt, không còn nghĩ đến bỏ chạy nữa!

– Đủ chưa? Nếu chưa thì bọn tao còn giã nữa!

Chúng tôi vừa hỏi vừa tiếp tục thụi “bịch… bịch…” Áo Đỏ kêu “Đủ rồi!” Tôi cũng hỏi Hề Trống:

– Còn mày, đã đủ chưa?

– Tất nhiên là đủ rồi! Hề Trống đáp.

– Chúng mày là đồ gian ác. Đây là sự trừng phạt của Trời. Từ rày phải nhớ lấy và chừa đi.

Dù có bẻm mép, cãi giỏi đến mấy thì chính nghĩa cũng không tha cho đâu, nghe chưa? Nhím nói. Cả hai thằng im bặt, không nói năng gì. Hay là chúng thấy sợ lúc này mà nói cũng mệt.

– Tao không bỏ chạy mà cũng không trốn tránh gì cả. Từ giờ cho đến năm giờ chiều nay, tao có mặt ở nhà hàng Mi-na-to dưới bãi biển. Nếu cần gì, hay đi báo cảnh sát thì cứ việc.

Nhím nói thế xong, tôi nói theo:

– Tao cũng không chạy, không trốn, cũng cùng ở chỗ anh Hot-ta. Nếu muốn báo cảnh sát thì cứ đi mà báo.

Nói xong, hai đứa tôi đàng hoàng bước đi rất hiên ngang.

Tôi về đến nhà trọ trước bảy giờ. Vào đến phòng là tôi xếp hành lí ngay. Bà chủ nhà thấy thế, ngạc nhiên hỏi:

– Thầy làm sao thế? Tôi bảo:

– Tôi về Tokyo để đưa vợ đến đây, bà ạ.

Nói xong, tôi thanh toán tiền nhà rồi đi tàu luôn xuống bãi biển. Vào nhà hàng Mi-na-to, thấy Nhím đang ngủ trên tầng hai. Tôi định viết ngay đơn xin thôi việc mà chẳng biết nên viết như thế nào. Cuối cùng chỉ viết được là “Vì lí do cá nhân của mình mà tôi xin thôi việc để về Tokyo. Vậy kính mong quý Ngài chấp nhận cho tôi được đội ơn vạn bội.” Viết xong tôi gửi cho ông hiệu trưởng theo đường bưu điện.

Tàu thủy khởi hành vào lúc sáu giờ chiều. Tôi và Nhím đều mệt nên ngủ khò khò một mạch. Khi mở mắt ra thì đã quá hai giờ, hỏi các cô hầu phòng là có thấy cảnh sát đến không? Các cô trả lời là chẳng thấy ai đến cả.

– Thế là Áo Đỏ cũng không báo, Hề Trống cũng không báo cho cảnh sát gì nhỉ!

Hai chúng tôi cười ầm lên với nhau. Tối hôm đó, tôi và Nhím rời bỏ mảnh đất dữ dằn này. Tàu càng rời xa bờ, càng cảm thấy dễ thở. Tôi đi thẳng một mạch từ Kô-bê đến Tokyo. Khi về tới Shin-ju-ku mới thực sự cảm thấy mình đã trở lại trần thế. Từ khi chia tay Nhím hôm đó đến nay, tôi chưa có dịp gặp lại hắn lần nào.

Tôi quên chưa nói về bà Ki-yô. Về đến Tokyo, tôi chưa về nhà trọ mà xách nguyên cả hành lí, tìm đến chỗ bà:

– Bà Ki-yô, cháu đã về đây này.

– Ôi cậu nhỏ. Cậu đã về sớm nhỉ. Bà vừa nói vừa nước mắt lã chã. Tôi cũng phấn khởi nên nói luôn là tôi sẽ không đi về nhà quê nữa, sẽ ở lại Tokyo, làm nhà và sống cùng với bà.

Sau đó, nhờ có người giới thiệu, tôi vào làm nhân viên kĩ thuật cho sở tàu điện thành phố, mỗi tháng được hai mươi lăm yên tiền lương, trả tiền thuê nhà mất sáu yên. Mặc dù không phải là ngôi nhà có tiền sảnh, nhưng bà Ki-yô rất hài lòng. Nhưng tội nghiệp, tháng hai vừa rồi bà đã mất vì bị viêm phổi. Trước khi mất một ngày, bà gọi tôi đến cạnh, trăng trối:

“Cậu nhỏ ơi! Nếu tôi chết thì xin cậu cho tôi ở trong chùa của cậu nhé. Tôi sẽ nằm trong mộ mà vui mừng chờ đợi cái ngày cậu cũng vào trong đó đấy!”

Vì thế cho nên bây giờ mộ của bà vẫn nằm trong chùa Dưỡng Nguyên ở Ko-bi-na-ta.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.