Chân dung một chàng trai trẻ

Chương I – Phần 2



Tiếng giày của người quản giáo xa dần. Đâu rồi nhỉ? Xuống cầu thang và dọc theo hành lang hay là đến phòng cậu cuối cùng. Cậu nhìn thấy bóng đêm. Nó có phải là con chó đen đi lang thang giữa đêm với đôi mắt to như hai đèn pha ô tô trên đường? Họ nói rằng đó là bóng ma của kẻ giết người. Một sự rùng mình sợ hãi kéo dài chạy trong cơ thể cậu. Cậu nhìn thấy bóng tối của lối vào pháo đài. Những đầy tớ già trong những bộ đồ kiểu cổ đang ở phòng là quần áo trên cầu thang. Lâu lắm rồi. Những người hầu cũ im lặng. Có một lò sưởi ở đó nhưng phòng vẫn rất tối. Một người đi lên cầu thang từ phòng lớn. Ông ta mặc áo choàng trắng của Thống chế với khuôn mặt xanh xám và lạ lùng; ông giữ hai tay thẳng hai bên mình. Ông nhìn vào những đôi mắt lạnh lùng xa lạ của những người hầu cũ. Họ nhìn khuôn mặt ông chủ với chiếc áo choàng và biết rằng ông chủ vừa bị tử thương. Nhưng nơi họ nhìn thấy chỉ là bóng tối; chỉ có bóng tối yên lặng. Ông chủ của họ bị tử thương tại trận đánh ở Pra-ha xa tít vượt qua biển khơi. Ông đang đứng trong trận chiến; hai tay chống mạnh với khuôn mặt xanh xám và lạ lùng. Ông mặc chiếc áo choàng trắng của một Thống chế.

Ôi, thật lạnh lùng và xa lạ khi nghĩ về điều đó! Mọi sự tối tăm đều lạnh lẽo và xa lạ. Ở đó có những khuôn mặt tái xám lạ lùng, những đôi mắt lớn sáng như đèn pha ô tô trên đường. Họ là bóng ma của những kẻ giết người, hình bóng của Thống chế bị thương đến chết ở chiến trường xa tít vượt qua biển khơi. Họ muốn nói gì qua khuôn mặt lạ lùng đó nhỉ?

Xin hãy giáng trần với chúng con. Xin hãy phù hộ cho chúng con, nơi chốn này, cuộc sống này ở xa cạm bẫy quân thù…

Trở về nhà cho kì nghỉ! Các học sinh đã nói với cậu rằng điều đó rất tuyệt vời. Leo lên xe ngựa trong một buổi sáng sớm mùa đông lạnh giá bên ngoài pháo đài tu viện. Những chiếc xe bắt đầu lăn bánh trên những con đường đầy sỏi. Hoan hô thầy hiệu trưởng!

Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô!

Những chiếc xe đã băng qua nhà nguyện và tất cả những chiếc mũ được tung lên. Xe chạy dọc theo những con đường làng. Người lái xe dùng roi ngựa chỉ cho bọn trẻ thấy Bodenstown. Bọn trẻ rất sung sướng và hưng phấn. Chúng đi qua các ngôi nhà của nông dân trong trang tại Jolli. Với niềm hưng phấn và vui sướng khôn nguôi, chúng đi qua khu Clane ngắm nhìn những người phụ nữ đứng trước cửa nhà và đàn ông thì đứng quanh đó. Có một mùi hương dễ chịu trong không khí mùa đông; đó là mùi của Clane: mùi của mưa, của không khí mùa đông, và mùi cỏ khô cháy âm ỉ với mùi của những con đường lát thân cây.

Chiếc tàu trở đầy học sinh: một đoàn tàu màu sô-cô-la thật dài với đầu tàu màu kem. Những người gác toa trên tàu đi đi lại lại mở cửa, đóng cửa, mở khóa, và khóa các cửa ra vào. Họ là những người đàn ông trong trang phục xanh đen và ánh bạc. Họ có những chiếc còi màu ánh bạc và những chiếc chìa khóa tạo nên những âm thanh như một bản nhạc ngắn: lách cách, lách cách, lách cách, lách cách.

Và đoàn tàu băng qua vùng đồng bằng, sau đó vượt qua ngọn đồi “Hill of Allen.” Những cột điện dần dần lùi lại phía sau. Đoàn tàu tiếp tục chạy không nghỉ. Có lẽ đoàn tàu biết. Có nhiều đèn lồng trong phòng lớn của nhà cha cậu và những vòng dây xanh trong vườn. Những cây nhựa nồi và thường xuân uốn lượn xung quanh chiếc gương lớn. Những cây nhựa nồi và thường xuân, xanh lá cây và đỏ, quấn xung quanh các chùm đèn. Những cây nhựa nồi đỏ và thường xuân xanh lá cây uốn xung quanh các bức chân dung treo trên tường. Nhựa nồi và thường xuân cho cậu và cho lễ Nô-en.

Thật đáng yêu!

Mọi người trong nhà đều chào mừng Stephen trở về nhà! Rồi tiếng chào hỏi ồn ào. Mẹ hôn cậu. Điều đó có đúng không nhỉ?

Bây giờ cha cậu là một Thống chế cao cấp hơn cả quan chức địa phương. Chào mừng con trở về nhà, Stephen!

Những tiếng ồn ào.

Có tiếng rèm cửa chạy dọc theo các thanh treo rèm, tiếng nước bắn tung trong bồn rửa mặt. Những tiếng động khi đứng dậy, mặc quần áo, và giặt giũ trong phòng kí túc xá; tiếng vỗ tay chào mừng khi thầy quản giáo đứng lên và ngồi xuống chúc các cậu học trò thông minh, mạnh khoẻ. Ánh sáng mặt trời yếu ớt chiếu rọi qua những rèm che màu vàng đã được kéo lên, những chiếc giường lắc lư. Giường cậu nằm rất nóng và khuôn mặt cũng như toàn thân cậu cũng nóng bừng lên.

Cậu tỉnh dậy, ngồi bên thành giường. Cậu cảm thấy yếu và mệt mỏi. Cậu cố gắng kéo tất lên với một cảm giác thô ráp sờ sợ. Ánh nắng mặt trời lạnh lẽo và khó chịu.

Fleming nói:

– Cậu không được khỏe à?

Cậu không biết rằng Fleming đang hỏi mình. Fleming tiếp tục nói:

– Quay trở lại giường đi. Mình sẽ nói với McGlade là cậu không được khỏe.

– Cậu ấy bị ốm.

– Ai vậy?

– Hãy nói với McGlade.

– Quay trở lại giường.

– Cậu ấy bị ốm à?

Một học sinh giữ cánh tay cậu khi cậu cố nới lỏng bít tất dài và trèo lên chiếc giường ấm áp.

Cậu thu mình chui vào giữa những tấm chăn, sung sướng về sức nóng ấm áp của những tấm chăn. Cậu nghe thấy vài học sinh nói chuyện với nhau về mình khi họ thay đồ cho buổi cầu nguyện. Chúng đang bàn luận rằng đó là một việc chẳng hay ho gì, khi đẩy cậu xuống mương nước bẩn thỉu.

Lát sau không còn nghe thấy tiếng chúng nữa; chúng đã đi rồi. Một giọng nói cất lên từ đầu giường cậu:

– Dedalus, không được dò xét bọn tao, mày chắc là không làm chứ?

Hóara Wells đang ở đó. Cậu nhìn chằm chằm khuôn mặt cậu ta và nhận thấy rằng Wells đang sợ hãi.

– Tao không định làm như vậy! Nhưng mày sẽ không nói chứ!

Cha cậu đã từng căn dặn là không mách lỗi bất cứ học sinh nào dù có chuyện gì đi chăng nữa. Cậu lắc đầu, trả lời là không và cậu cảm thấy vui một chút.

Wells nói:

– Tao không muốn làm như vậy, thề có Chúa. Đó chỉ là đùa thôi. Tao xin lỗi.

Khuôn mặt và giọng nói biến mất. Nó xin lỗi bởi vì đang sợ hãi. Nó sợ hãi vì có thể là có một số bệnh. Bệnh thối loét là bệnh của thực vật và bệnh ung thư là bệnh của động vật hay một thứ khác nữa. Điều đó đã xảy ra lâu lắm rồi, trong sân chơi dưới ánh chiều tà, cậu rón rén đi từ vị trí này sang vị trí khác trong hàng của cậu, một con chim núc ních bay xuyên qua làn ánh sáng u ám của buổi chiều tà. Leicester Abbey mặt sáng rạng rỡ. Wolsey đã chết ở đó. Các cha trưởng tu viện đã chôn cất cậu ta.

Đó không phải là khuôn mặt của Wells mà đó là của cha quản giáo. Cậu không giả đò. Không, không: cậu bị ốm thật. Cậu không giả đò. Và cậu cảm thấy bàn tay của cha quản giáo trên trán mình; và cậu cảm thấy cái nóng và ẩm ướt trên trán mình cưỡng lại bàn tay lạnh giá cha quản giáo. Đó là con mương có một con chuột cống rơi xuống, thật nhầy nhụa, ẩm ướt và lạnh lẽo. Mọi con chuột cống đều có hai con mắt để canh chừng. Bộ lông bóng mượt, những chiếc chân rất nhỏ co lên khi chạy, đôi mắt đen ươn ướt canh chừng dò xét. Chúng hiểu là nhảy lên như thế nào. Nhưng trong đầu những con chuột cống thì không có một khái niệm gì về lượng giác học. Khi chúng chết đi, chúng nằm nghiêng sang một bên. Một thời gian sau, bộ lông của chúng sẽ khô đi. Chúng chỉ là một sinh vật đã chết.

Cha quản giáo một lần nữa xuất hiện với giọng nói của ông rằng cậu phải ngồi dậy, rằng cha trưởng tu viện đã nói rằng cậu phải dậy đi và mặc quần áo để đi đến bệnh xá. Trong khi Stephen đang vội vã mặc quần áo, cha quản giáo nói:

– Chúng ta phải nhanh chóng chuyển đến thầy dòng Michael ngay bởi chúng ta bị đầy bụng!

Ông thật tử tế khi nói vậy và điều đó làm cậu muốn bật cười. Nhưng cậu không thể cười được vì đôi má và môi cậu đang lạnh và run lập cập; rồi thì cha quản giáo tự cười mình.

Cha quản giáo hô to:

– Hành quân nhanh! Chân trái! Chân phải!

Họ cùng nhau đi xuống cầu thang dọc theo hành lang và đi qua nhà tắm. Khi cậu băng qua cửa phòng tắm làm cậu nhớ lại cảm giác sợ hãi mơ hồ về vũng nước bùn lầy đầy cỏ mọc ấm áp, không khí ẩm ướt ấm áp, tiếng động của những cú nhảy lao xuống nước, mùi của khăn tắm, giống như mùi thuốc…

Thầy dòng Michael đang đứng trước tại cửa bệnh xá và từ cánh cửa của căn phòng kín tối đen phía bên tay phải ông tỏa ra mùi giống như mùi thuốc. Những mùi đó tỏa ra từ những vỏ chai trên kệ thuốc. Cha quản giáo nói với thầy dòng Michael, cha Michael trả lời và gọi cha quản giáo là ngài. Thầy dòng Michael có mái tóc đỏ muối tiêu và một vẻ ngoài kì quặc. Thật kì quặc rằng ông luôn luôn là thầy dòng. Cũng thật lạ lùng rằng ta không thể gọi ông là ngài chỉ vì ông là một thầy dòng và có ngoại hình không giống ai. Có phải thầy không đủ sùng đạo hay tại sao thầy lại không thể theo kịp những bạn đồng môn khác?

Có hai chiếc giường trong phòng bệnh xá và có một học sinh đang nằm trên một chiếc giường đó; và khi họ đi vào cậu ta gọi to:

– Chào thầy! Đây là Dedalus con! Có chuyện gì xảy ra với cậu ta vậy?

– Bầu trời ở trên cao. – Thầy dòng Michael nói.

Cậu ta là một học sinh đã học xong lớp thứ ba. Khi Stephen thay quần áo, cậu ta yêu cầu thầy dòng Michael mang cho cậu ta một ổ bánh mì bơ nướng.

– Chao ôi, làm đi. – Cậu ta nói

– Sẽ có nhiều bơ cho cậu! – Thầy dòng Michael nói. Cậu sẽ lấy giấy được phép đi lại vào buổi sáng khi bác sĩ đến.

– Thế à? – Cậu ta nói. – Nhưng em chưa khỏe hẳn. Thầy dòng Michael nhắc lại:

– Cậu sẽ nhận giấy được phép đi lại. Tôi bảo cậu đấy.

Thày dòng Michael cúi xuống cời lửa. Ông có cái lưng dài giống như toa xe ngựa. Ông rung que cời một cách trịnh trọng và cúi đầu chào một học sinh đã tốt nghiệp lớp thứ ba.

Lát sau thày dòng Michael bỏ đi đâu đó. Một lúc sau cậu học sinh đã qua trình độ lớp thứ ba quay mặt lại tường và ngủ gà ngủ gật.

Đó là bệnh xá. Sau đó Stephen ốm. Không biết họ đã viết thư về nhà báo tin với cha mẹ cậu chưa? Nhưng sẽ nhanh hơn nếu một trong những linh mục đến báo tin cho họ. Hoặc là cậu sẽ viết một bức thư cho một linh mục mang đến cho cha mẹ cậu.

Mẹ kính yêu,

Con bị ốm. Con muốn về nhà. Hãy đến đây và đưa con về nhà. Con đang ở bệnh xá.

Con trai yêu quý của bố mẹ, Stephen.

Họ cách đây bao xa! Có ánh sáng mặt trời lạnh lẽo ngoài cửa sổ. Cậu lo lắng điều gì sẽ đến nếu cậu chết. Ta có thể chết giống như vậy trong một ngày nắng đẹp. Cậu có thể chết trước khi mẹ cậu đến. Sau đó, cậu sẽ có một buổi tang lễ tại nhà nguyện giống buổi tang lễ, mà các học sinh khác đã nói với cậu, dành cho Little khi cậu ta chết. Tất cả mọi học sinh sẽ đến nhà thờ trong trang phục màu đen với những khuôn mặt buồn bã. Wells cũng sẽ ở đó nhưng không một học sinh nào để ý đến nó. Thầy hiệu trưởng sẽ ở đó trong bộ áo lễ màu đen và ánh vàng, và sẽ có những cây nến vàng cao lớn trên án thờ và xung quanh nhà táng. Và họ sẽ từ từ chuyển quan tài ra khỏi nhà nguyện. Cậu sẽ được chôn trong một nghĩa địa nhỏ của trường bên cạnh đại lộ đầy đá vôi. Wells sẽ cảm thấy hối lỗi cho những gì nó đã làm. Chuông nhà thờ chầm chậm ngân vang.

Cậu có thể nghe thấy tiếng chuông nhà thờ. Cậu nói với chính mình về bài hát mà Brigid đã dạy cậu.

Bing boong! Chuông ngân trong lâu đài! Tạm biệt, mẹ thân yêu của tôi! Hãy chôn tôi trong nghĩa địa cũ của nhà thờ.

Bên cạnh người đồng môn già nhất. Quan tài của tôi sẽ có màu đen, với sáu thiên thần ở sau tôi.

Hai để hát và hai để nguyện cầu.

Và hai để đưa linh hồn tôi đi.

Đám tang thật đẹp và cũng thật buồn! Những câu hát rất hay khi nói rằng hãy chôn tôi trong nghĩa địa cũ của nhà thờ! Một sự rùng mình lan truyền khắp người cậu. Thật buồn rầu mà cũng thật đẹp! Cậu muốn khóc thầm nhưng không phải khóc cho bản thân mình mà cho những câu hát, thật đẹp và thật buồn, giống như âm nhạc. Tiếng chuông! Tiếng chuông! Tạm biệt! Ôi tạm biệt!

Ánh sáng mặt trời lạnh lẽo yếu dần đi. Thầy dòng Michael đang đứng cạnh giường cậu với một bát nước thịt bò hầm. Cậu hạnh phúc vì miệng cậu đang nóng và khô. Cậu có thể nghe thấy tiếng bọn trẻ đang nô đùa trong sân chơi. Và ngày ngày trôi đi trong trường học như thể cậu đang ở đó.

Lát sau thầy dòng Michael đi chỗ khác. Cậu học sinh học xong lớp thứ ba nói với thầy dòng Michael hãy chắc chắn quay trở lại và nói với cậu ta tất cả những tin tức trên báo chí. Cậu ta nói với Stephen rằng tên cậu ra là Athy, rằng cha cậu ta nuôi rất nhiều ngựa đua có những cú nhảy rất cừ; rằng cha cậu ta có thể đưa ra những lời khuyên cho thầy dòng Michael bất cứ lúc nào thầy muốn bởi vì thầy dòng Brother Michael rất tử tế và luôn nói cho cậu ta biết những thông tin mới nhất trên báo mà họ nhận được hằng ngày trong pháo đài tu viện. Có đủ loại thông tin báo: tai nạn, phá sản, thể thao, và chính trị…

– Bây giờ mọi thông tin trên báo chí đều về chính trị. – Athy nói. – Người dân khu mày cũng nói về chính trị chứ?

– Ừ. – Stephen trả lời.

– Chỗ tao cũng vậy. – Athy nói. Cậu ta suy nghĩ một lát rồi nói:

– Mày có một cái tên rất kì lạ, Dedalus; tao cũng có một cái tên kì lạ – Athy. Tên tao trùng với tên của một thành phố. Tên mày giống tiếng La-tinh.

Lát sau, Athy hỏi:

– Mày có giỏi giải các câu đố không? Stephen trả lời:

– Không giỏi lắm. Cậu ta lại hỏi:

– Mày có thể trả lời tao câu này được không? Tại sao bản đồ của quận Kildare trông giống như cái chân mặc quần ống túm của bọn học sinh?

Stephen trầm ngâm tìm câu trả lời:

– Tao chịu thôi.

– Bởi vì có một bắp đùi trong đó. – Athy nói. – Mày có nhận ra sự hài hước trong đó không? Athy là tên của thị trấn của quận Kildare.

– Ồ, tao hiểu rồi. – Stephen nói.

– Đó là một câu đố cổ. – Cậu tiếp tục. Sau một giây, cậu ta nói:

– Tao nói!

– Cái gì? – Stephen hỏi.

– Mày biết đấy – Athy nói, – mày có thể hỏi một câu đố đó bằng một cách khác.

– Mày làm được à? – Stephen hỏi.

– Cùng một câu đố – Athy nói. – Mày có biết cách nào khác để hỏi không?

– Không – Stephen trả lời.

– Thế mày có thể không nghĩ về cách nào khác được không? – Cậu ta nói.

Athy nhìn bộ quần áo ngủ của Stephen. Sau đó cậu ta tựa lưng vào chiếc gối và nói:

– Có một cách khác nhưng tao không nói cho mày biết.

Tại sao nó không nói nhỉ? Cha nó, người có nhiều ngựa đua, chắc là quan địa phương giống như cha của Saurin và Nasty Roche. Stephen lại nghĩ về cha mình, về cách ông ấy hát khi mẹ cậu dạo nhạc, về cách ông ấy đưa cho cậu mười hai silling tiền xu khi cậu hỏi xin sáu silling. Và Stephen thông cảm với cha mình về việc ông ấy không phải là quan địa phương giống như cha của những đứa trẻ khác. Tại sao cha cậu lại gửi cậu vào đây cùng với chúng nhỉ? Nhưng cha cậu đã từng nói với cậu rằng sẽ không phải là người xa lạ ở đó vì ông bác của Stephen đã trình bày một bài diễn văn trước những người thuộc đảng tự do năm mươi năm năm về trước. Ta có thể nhận biết được mọi người thời đó qua những bộ váy áo cổ. Cậu cảm thấy đó có lẽ là một khoảnh khắc trang trọng; và cậu tự hỏi rằng có một thời gian nào đó tất cả học sinh ở trường Clongowes mặc những bộ quần áo xanh với những khuy áo bằng đồng và áo gi-lê vàng, đội mũ da thỏ, uống bia như người lớn và tự nuôi chó để săn thỏ rừng.

Cậu nhìn ra cửa sổ và nhận ra rằng ánh sáng mặt trời đã yếu đi. Có thể ánh sáng xuyên qua những đám mây xám tràn ngập sân chơi. Không có tiếng động nào ở sân chơi cả. Chắc là lớp học đang bàn luận các chủ đề hoặc là có thể Cha Arnall đang đọc bài từ những quyển sách.

Thật là kì quặc khi họ không đưa cho cậu bất kì thứ thuốc nào. Có lẽ thầy dòng Michael sẽ mang thuốc đến khi ông quay trở lại. Họ nói ta phải uống những một thứ rất tồi tệ khi đang ở trong bệnh xá. Nhưng bây giờ cậu cảm thấy khá hơn trước đó. Thật là tuyệt khi cảm thấy khá lên dần dần. Ta có thể cầm một quyển sách để đọc. Trong thư viện có một quyển sách viết về đất nước Hà Lan. Có nhiều tên nước ngoài đáng yêu trong đó và những bức ảnh đẹp của những thành phố rất lạ lẫm và cả những con tàu. Nó sẽ làm bạn cảm thấy rất hạnh phúc.

Ánh sáng ngoài trời thật yếu ớt! Nhưng nó rất tuyệt. Ánh lửa bập bùng in bóng trên tường, trông giống như những ngọn sóng. Ai đó đã cho thêm than vào và cậu nghe thấy những giọng nói. Chúng đang nói chuyện. Đó là tiếng âm thanh ào ạt của sóng. Hay là những ngọn sóng đang tâm sự với nhau khi dâng lên, hạ xuống.

Cậu nhìn ngắm những làn sóng biển, những ngọn sóng đen dài trồi lên và sụt xuống, tối đen trong bóng đêm không có ánh trăng. Có ánh sáng leo lét tại bến tàu nơi có những con tàu đang vào bến; cậu nhìn thấy rất nhiều người tụ tập cạnh bờ bến cảng đang nhìn về hướng những con tàu cập cảng. Một người đàn ông cao lớn đứng trên boong tàu, nhìn về hướng đất liền bằng phẳng tối đen. Nhờ ánh sáng từ cầu tàu, cậu nhìn thấy khuôn mặt người đàn ông, một khuôn mặt âu sầu giống như Cha Michael.

Cậu nhìn thấy người đàn ông giơ tay về phía mọi người và nghe thấy ông ta nói bằng một giọng nói oang oang buồn thảm vang trên mặt nước:

– Anh ta đã chết. Chúng tôi nhìn thấy anh ta nằm trong nhà tang. Mọi người trào dâng những tiếng khóc tiếc thương:

– Parnell! Parnell! Anh ấy đã chết!

Họ quỳ gối xuống, rên rỉ trong đau khổ.

Và cậu nhìn thấy cô Dante trong bộ váy nhung màu nâu đỏ khoác chiếc áo choàng nhung màu xanh trên vai bước đi một cách đầy tự hào nhưng lặng lẽ, băng qua những người đang quỳ gối cạnh bến tàu.

* * * *

Một ngọn lửa lớn, dâng cao và đỏ rực cháy trong lò sưởi và bàn Giáng sinh đã được bày ra dưới những cành thường xuân xanh biếc cuộn quanh các chùm đèn. Họ trở về nhà hơi muộn một chút và bữa tối vẫn chưa sẵn sàng; nhưng mẹ cậu nói sẽ có ngay trong chốc lát. Họ đang chờ đợi cánh cửa mở ra và cho những người hầu bước vào mang theo những đĩa thức ăn lớn đậy bằng những chiếc nắp bằng kim loại chắc chắn.

Mọi người đang chờ đợi: bác Charles ngồi cách xa dưới bóng khung cửa sổ, cô Dante và ông Casey, ngồi trên những chiếc ghế có tay tựa thoải mái đối diện lò sưởi, còn Stephen thì ngồi trên một chiếc ghế giữa họ, chân cậu đặt lên chiếc gối quỳ. Ông Dedalus ngắm mình qua tấm gương nhỏ đặt bên trên lò sưởi, nhổ râu, rồi sau đó gạt đuôi áo choàng sang một bên và đứng quay lưng lại ngọn lửa đang bừng bừng cháy. Thỉnh thoảng ông lại rút tay khỏi túi áo khoác để nhổ một sợi râu trong bộ ria của mình. Ông Casey nghiêng đầu về một bên, đặt hai bàn tay đan chéo ra sau gáy và mỉm cười. Và Stephen cũng cười về những gì bây giờ cậu mới biết sự thật là ông Casey không có một ví bằng bạc trong cổ họng. Cậu mỉm cười khi nghĩ đến việc bằng cách nào ông Casey đã thường tạo ra những âm thanh trong như tiếng bạc để đánh lừa cậu. Khi cậu cố gắng mở bàn tay của ông Casey để xem có túi bạc nào được giấu trong đó không, cậu đã nhận ra rằng những ngón tay của ông Casey không thẳng. Ông Casey nói với cậu rằng ông có ba ngón tay ép chặt vào nhau để làm quà tặng sinh nhật cho nữ hoàng Victoria.

Ông Casey gõ nhẹ tay vào cổ và cười với Stephen với đôi mắt buồn ngủ. Ông Dedalus nói với ông ta:

– Đúng vậy. Chúng ta đã có một buổi đi bộ thú vị phải không John? Đúng là tôi đang tự hỏi không biết có được ăn bữa tối không đây. Ồ, có chứ, chúng ta hít thở không khí trong lành xung quanh vịnh Head hôm nay. Thật dễ chịu.

Ông quay về phía cô Dante và nói:

– Sao cô chẳng nói gì vậy cô Riordan?

Cô Dante cau mày và trả lời cụt ngủn:

– Không.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.