Chạng vạng (Twilight)

7. Cơn ác mộng



Tôi bảo với bố rằng mình có rất nhiêu bài tập cần phải làm, và rằng tôi không muốn bỏ vào bụng bất cứ thứ gì vào lúc này. Tất nhiên là bố đồng ý cái rụp… Trận đấu bóng rổ kia đang chiếm hết tất cả tâm hồn của bố… Chẳng hiểu nó có gì đặc biệt mà bố thích thú đến thế, bố mê mẩn đến độ chẳng nhận ra vẻ mặt hay giọng nói bất thường của tôi.

Mỗi khi đặt chân vô phòng là tôi khoá ngay cửa lại. Bước đến chỗ bàn học, tôi lục tung nó lên cho đến khi tìm ra một cái tai nghe cũ kĩ và gắn nó vào chiếc máy nghe đĩa cá nhân. Tôi chọn lấy một đĩa nhạc do dượng Phil tặng hồi Giáng sinh. Đây là một trong những ban nhạc mà dượng yêu thích, tuy nhiên, họ chơi nhạc trầm và hò hét dữ quá… nên không hợp với gu của tôi. Vậy mà không hiểu sao, tôi vẫn quyết định bỏ vào máy nghe đĩa rồi nằm xoài ra giường. Tôi đeo tai nghe vào, nhấn nút Play, rồi chỉnh âm thanh lên đến mức làm cho hai tai muốn nổ tung. Tôi nhắm mắt lại. Ôi, sao vẫn cảm nhận được ánh sáng. Khó chịu… tôi quơ tay với lấy cái gối trên mặt… Thế là xong.

Hết sức tập trung tất cả mọi giác quan vào các bài hát, tôi cố hiểu mấy ca từ và lọc bỏ tiếng trống đệm thùng thùng thình thình inh ỏi kia. Cuối cùng, sau ba lần nghe đi nghe lại đĩa nhạc, tôi mới nhận ra được hết tất cả các từ cũng như phần hợp xướng… Và tôi không khỏi ngạc nhiên khi phát giác ra rằng tôi đã thực sự thích ban nhạc (Ấy là khi tập trung vào lời ca và bỏ ngoài tai phần kèn trống đinh tai nhức óc). Vậy là phải cảm ơn dượng Phil lần nữa rồi.
Và tôi đã thành công. Tiếng nhạc xập xình đã làm đầu óc tôi không thể suy nghĩ vẩn vơ gì nữa… Đó cũng chính là mục đích của tôi. Tôi nghe tới nghe lui mãi cái đĩa CD, mỗi khi nghe xong một lượt, tôi bật lại từ đầu, vừa nghe vừa lẩm nhẩm hát theo đến thuộc… Cứ thế, cứ thế… tôi mê mẩn chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Mở choàng đôi mắt, tôi nhận ra mình đang ở nơi quen thuộc. Một phàn ý thức của tôi đấy, nó đã len lỏi vào được trong giấc mơ của tôi… Nơi ấy, khu rằng vẫn hiện ra mờ mờ trong thứ ánh sáng màu xanh lục. Vẫn là tiếng sóng rì rào vỗ vào bờ đá đâu đó không xa. Tôi hiểu nếu mình tìm được đường ra tới biển, chắc chắn sẽ thấy được mặt trời. Tôi cố đi theo tiếng sóng, nhưng rồi nhận ra Jacob Black đang đứng sừng sững trước mặt, cậu bé giật tay tôi, kéo tôi trở lại khoảng rừng tối tăm nhất.
Jacob? Có chuyện gì vậy? – Tôi hỏi như hét lên. Gương mặt cậu bé rõ là đang hãi sợ tột cùng, cậu bé dùng hết sức để lôi kéo tôi đi, kéo cả sức chống cự của tôi nữa… tôi không muốn dấn bước vào nơi tăm tối.

Chạy đi, Bella, chị phải chạy đi! – Jacob thì thào tiếng được tiếng mất, nỗi sợ hãi như đã thít chặt cuống họng cậu bé.
Lối này, Bella! – Tôi nhận ra giọng nói của Mike văng vẳng đâu đó trong khoảng rừng u ám, um tùm nhất; chỉ nghe được tiếng thôi mà không thể thấy người đâu cả.

Sao vậy? – Tôi hỏi lại, cố giằng mình ra khỏi cánh tay níu kéo của Jacob, hòng chạy đi tìm ánh sáng ấm áp của mặt trời.
Bất chợt, Jacob buông tay tôi ra, cậu bé tru lên những tiếng kêu hoang dại, rồi toàn than bắt đầu run rẩy, càng lúc càng nhanh, càng dữ dội đến độ cậu bé ngã lăn ra đất, tay chân thoắt một cái, co rút lại… Tôi chứng kiến cảnh đó mà mặt trắng bệch không còn một hột máu… Tôi quá khiếp đảm.

Jacob – Tôi hét lên. Nhưng Jacob đã biến mất. Thay vào chỗ của cậu là một con sói lớn có đôi mắt đen và một bộ long màu nâu đỏ. Con sói nhìn trừng trừng về phía xa, phía có bãi biển, phần lông trên vai và lưng của nó bắt đầu dựng đứng, hai hàm nanh nhọn hoắt nhe ra cùng với những tiếng kêu gầm gừ đầy đe doạ…

Bella, chạy đi! – Mike hét lên sau lưng tôi. Nhưng tôi chẳng buồn quay lại. Đôi mắt tôi như bị thôi miên bởi một quầng sáng đang từ bãi biển tiến về phía mình.

Và rồi từ giữa những tàn cây, Edward bước ra, làn da hắn ta hơi phát sáng, đôi mắt đen kịt nham hiểm chứa đựng hết thảy mọi điều xấu xa. Edward đưa tay ra hiệu cho tôi đến gần… Con sói bắt đầu gầm ghè dưới chân tôi.

Tôi tiến lên một bước… về phía Edward. Hắn ta khẽ mỉm cười… Tôi thấy lấp loáng những cái răng sắc lẻm, nhọn hoắt…
Hãy tin anh – Edward lên tiếng.

Tôi tiến thêm một bước nữa.
Con sói bất ngờ phóng tới, cả thân người nó lao vào khoảng cách giữa tôi và gã ma-cà-rồng… những cái răng nanh cắm phập vào cổ…
– Không! – Tôi thét lên và ngồi bật dậy giữa giường.

Động tác bất ngờ của tôi khiến cái tai nghe bị kéo mạnh, lôi theo cả chiếc máy nghe đĩa cá nhân ra khỏi cái bàn bên cạnh, nó rơi đánh cạch một tiếng xuống sàn gỗ.
Đèn phòng tôi vẫn sáng, trên người tôi vẫn còn nguyên bộ quần áo đã mặc lúc ban tối, vẫn còn nguyên cả giày lẫn vớ, và tôi đang ngồi chễm chệ trên giường. Tôi nhìn khắp lượt gian phòng, thẫn thờ, rồi đưa mắt dò tìm chiếc đồng hồ đặt trên nóc tủ đầu giường. Đã năm giờ ba mươi phút sáng rồi ư…
Tôi rên lên rồi lại nằm phịch xuống giường, lăn nửa vòng để úp mặt xuống gối cho thuận đà đá phăng đôi giày ống ra khỏi chân. Trong lòng tràn đầy nỗi bực bội nên tôi không muốn rời cái giường lấy nửa bước. Tôi lại lăn người trở lại để mở khuy chiếc quần jean, xong, tôi lấy đà xoay ngang, ném nó đi. Hình như sau đầu tôi vẫn còn sợi dây tết vướng víu một cách khó chịu. Tôi lại trở người nằm nghiêng, gỡ dải băng cao su đó ra, nhanh chóng sửa tóc cho gọn gàng rồi tết nó lại. Đâu vào đó, tôi kéo chiếc gối lên che lấy mặt.

Dĩ nhiên là chẳng có tác dụng gì. Tiềm thức của tôi lại kéo những hình ảnh quái gở kia trở về, dù tôi đã cố gắng xua đuổi chúng. Được rồi, mình sẽ phải đối mặt thôi, tôi nhủ thầm trong bụng như vậy.

Nghĩ rồi tôi ngồi dậy, đầu óc xây xẩm lấy cả phút khi máu bắt đầu lưu thông đi xuống. Ừm, điều trước tiên cần làm là mình phải tự khiến mình vui vẻ, thoải mái cái đã… Tôi quờ tay chụp lấy cái túi đựng đồ dùng cá nhân.

Lối đến phòng tắm tự dưng trở nên kéo dài ra. Ngoài việc sấy tóc cho khô, tôi còn phải thực hiện hàng khối việc khác nữa. Sau khi đã làm xong tất tần tật mọi việc, tôi quấn vội tấm khăn bông, lạch bạch trở về phòng. Chẳng biết bố có còn đang ngủ hay không, hay đã ra khỏi nhà rồi cũng nên. Tôi hé mắt ra ngoài cửa sổ, không còn thấy chiếc xe tuần tra đâu cả. Bố lại đi “đánh bắt” rồi.

Tôi chậm rãi mặc bộ quần áo yêu thích may bằng vải bông ròi sắp xếp lại chăn gối – một trong những việc trước đây tôi chẳng bao giờ mó tay vào. Ừm, giờ thì đã thật sự hết cách làm cho đầu óc tươi tỉnh được rồi. Tôi tiến đến bên bàn, mở chiếc máy vi tính cũ mèm lên.

Tôi ghét phải sử dụng Internet ở đây lắm. Bộ biến hoàn của tôi đã lỗi thời lắm rồi… là hàng miễn phí dành cho tôi đấy; nội có cái việc kết nối thôi mà nó cũng chậm như rùa, trong lúc phải chờ đợi khiến phát bực lên như thế này, tôi quyết định bỏ đi làm một tô ngũ cốc cho… hạ hoả.
Tôi ăn một cách từ tốn, nhai từng muống ngũ cốc thật kỹ trước khi nuốt vào bụng. Cứ thế, từng muỗng, từng muỗng được đưa lên miệng tôi thì cái tô cứ thế vơi dần, vơi dần cho đến khi hết nhẵn. Tôi đứng dậy, rửa ráy các thứ, lau khô rồi cất đi. Hai chân trở nên nặng trĩu khi tôi bước lên cầu thang. Chưa cần ngó qua cái màn hình của máy vi tính, tôi bước đến chỗ cái máy nghe đĩa trước, nhặt nó lên rồi đặt một cách cẩn thận ngay chính giữa bàn học. Tôi rút tai nghe ra, cất vào ngăn kéo bàn. Sau đó, vẫn là đĩa hát cũ, tôi bật máy lên, hạ âm lượng xuống đến mức chỉ còn nghe thấy tiếng nhạc nền nho nhỏ.

Không nén được tiếng thở dài, tôi quay lại chiếc máy vi tính. Như thường lệ, trên màn hình của chiếc máy hiện đầy các trang quảng cáo. Tôi ngồi ngay xuống chiếc ghế nệm cứng ngắc và bắt đầu đóng những trang quảng cáo kia lại. Cuối cùng, tôi mở bộ máy tìm kiếm quen thuộc của mình lên, tắt thêm vài cửa sổ không liên quan khác, rồi gõ vào đó ba từ duy nhất:

Ma-cà-rồng.

Lại mất thêm một khoản thời gian chờ đợi nữa, muốn phát điên lên được. Và kết quả hiện lên là một mớ dữ kiện dài ngoằng như cái sớ táo quân chứ đựng tất cả những gì liên quan đến Ma-cà-rồng, từ phim ảnh, các chương trình tivi, cho đến các trò hơi sắm vai này nọ, những đường ray bí mật trong lòng đất, và cả nhữg công ty mỹ phẩm nữa.
Tôi tìm đến một trang xem ra có triển vọng nhất – “Ma-cà-rồng từ A đến Z”… tôi vừa nhấp nhổm chờ đợi nó hiện lên bằng hết nội dung, vừa nhanh tay tắt từng trang quảng cáo liên tục hiện ra trên màn hình. Cuối cùng thì màn hình cũng sạch trơn, chỉ còn lại cái phông nền màu trắng, trên đó hiện lên những dòng chữ màu đen… trông có vẻ chững chạc. Trang chủ chào đón tôi bằng hai đoạn trích thế này:

Trong thế giới của bóng đêm rộng lớn, nơi chỉ tồn tại những linh hồn vất vưởng và lũ ma quỷ xấu xa, không có một nhân vật nào đáng sợ, không có một nhân vật nào khủng khiếp khiến cho người ta kinh tởm, nhưng lại mang một ma lực quyến rũ như ma-cà-rồng… một kẻ không đứng vào hàng ngũ của linh hồn hay quỷ dữ nhưng lại sống nhờ bóng đêm, và mang đặc tính của hai loài này… Đó là vừa huyền bí, vừa khủng khiếp. – Cha Montague Summers.
Trên đời này, nếu có một nhân vật nào đó khiến cho người ta phải lao tâm khổ tứ tìm hiểu nhiều nhất để chứng nhận là có tồn tại, thì đó chính là ma-cà-rồng. Không thiếu một thứ gì cả: từ các bản báo cáo, thống kê, cho đến các bản khai có tuyên thệ của những người nổi tiếng, của các bác sĩ, linh mục, quan toà; cả những bằng chứng có giá trị pháp lý nữa… Nhưng rồi mấy ai tin đó là ma-cà-rồng? – Rousseau.

Phần còn lại của trang là danh sách được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái của tất cả các truyện kể khác nhau về ma-cà-rồng, được tập hợp lại từ khắp nơi trên thế giới. Tôi bấm chọn truyện đầu tiên, truyện Danag, một ma-cà-rồng Philippin, người chuyên trồng khoai sọ trên các đảo từ nhiều đời trước. Truyện kể là Danag đã làm việc chung với mọi người nhiều năm, nhưng sự cộng tác đó đột ngột kết thúc khi một ngày nọ, có một người phụ nữ cắt phải tay và Danag đã mút lấy vết thương đó. Càng mút càng thấy ngon miệng, Danag đã mút lấy mút để cho đến lúc người phụ nữ ấy hỉ còn là một cái xác tái nhợt mới chịu buông.

Tôi cẩn thận đọc những đoạn miêu tả tỉ mỉ, cố tìm kiếm các chi tiết có thể chấp nhận được và bỏ qua những chi tiết hoang đưòng. Xem ra, hầu hết các truyện kể về ma-cà-rồng đều xoay quanh những ác quỷ hoá thân là những phụ nữ xinh đẹp, và nạn nhân của chúng là các trẻ em. Tôi có cảm giác như mình đang đọc những lời lý giải vì sao tỉ lệ tử vong ở trẻ em lại cao, hoặc giả như tôi đang đọc những lời bào chữa cho thói lăng nhăng của đàn ông vậy. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn có nhiều truyện kể về những oan hồn không thể siêu thoát để cảnh báo về việc chôn cất không đúng phong thuỷ. Nhìn chung, chẳng có nhiều truyện chứa đựng nội dung tương tự như những bộ phim tôi đã xem; chỉ rất ít truyện là mang nội dung na ná như vậy, chẳng hạn như Estrie – người Do Thái, và Upier – người Ba Lan, là hai kẻ luôn bị ám ảnh về việc uống máu người khác mà thôi.
Sau khi đảo mắt hết một lượt từ A đến Z các truyện kể về ma-cà-rồng, tôi đặc biệt chú đến ba truyện: thứ nhất là Varacolaci – người thành Rôm, một gã đàn ông da trắng điển trai, bất tử và là người có vị trí cao trong xã hội. Thứ hai là Nelapsi – người Xlôvác, một kẻ tàn bạo và cực kỳ nhanh nhẹn: vào thời khắc nửa đêm, chỉ trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ thôi là hắn đã có thể thảm sát cả một làng. Và thứ ba là truyện về một nhân vật khác, một kẻ có biệt danh là Stregoni benefici.
Với thiên truyện cuối cùng này, tôi chỉ đọc thấy một câu vắn tắt:
Stregoni benefici: ma-cà-rồng – người Ý, được xem là người tốt, là kẻ thù không dọi trời chung của ma-cà-rồng xấu.
Tất cả chỉ có bấy nhiêu… Đây đúng là một huyền thoại quá ngắn ngủi giữa hàng trăm câu chuyện đòi hỏi phải có nhiều ma-cà-rồng tốt.
Vậy là theo như trang tin này thì ma-cà-rồng chỉ có vài đặc điểm trùng hợp với truyện của Jacob hay trùng hợp với sự quan sát của tôi mà thôi. Khi đọc cẩn thận từng huyền thoại một, tôi đều có ý thức so sánh kỹ càng nên đã lọc ra được một số chi tiết đáng chú ý như sau: tốc độ, khoẻ, đẹp, da trắng, mắt hay đổi màu; còn theo Jacob thì ma-cà-rồng là một kẻ chuyên uống máu, là kẻ thù của người sói, có làn da rất lạnh và bất tử. Chí có một số ít truyện là đề cập đến những chi tiết này mà thôi.

Bất chợt trong đầu tôi lại nảy ra một vấn đề khác, tôi bỗng nhớ ra một đặc điểm thường được khắc hoạ trong những bộ phim mà tôi đã từng xem và đã được các huỳen thoại nói tới: ma-cà-rồng không thể ra ngoài vào ban ngày, vì mặt trời sẽ thiêu đốt họ thành tro. Suốt này, ma-cà-rồng chỉ ngủ trong quan tài, đến đêm mới mò ra ngoài để kiếm ăn.

Trong lòng tôi đầy ắp nỗi bực bội. Tôi đưa tay tắt ngang công tắc nguồn chứ không chịu đóng từng thứ theo quy trình hợp lệ. Nỗi tức giận đã át hẳn sự lúng túng, ngượng nghịu bấy lâu nay của tôi, và tôi hoàn toàn cảm nhận được điều đó. Toàn bộ chuyện thật ngớ ngẩn hết sức. Tôi ngồi thừ ra trong phòng mà tìm hiểu về ma-cà-rồng. Mình bị làm sao vậy kìa? Và sau một hồi suy đi tính lại, tôi tự thấy rằng… tôi chẳng bị làm sao cả, mọi vấn đề đều nằm ở cái ngưỡng cửa bước vào thị trấn Forks cùng toàn bộ cái bán đảo Olympic kỳ quái này.

Tôi cần phải ra khỏi nhà (Không đi thì điên lên mất!), dù thật ra, tôi chẳng muốn đi đâu mà không phải lái xe suốt ba ngày đường cả. Mặc kệ, tôi xỏ chân vào đôi giày ống, với cái đầu trống rỗng, tôi cứ thế bước xuống cầu thang. Có cần kiểm tra thời tiết không nhỉ? Tôi nhún vai một cách bất cần đời trong chiếc áo mưa rồi nặng nề bước ra khỏi cửa.

Bầu trời thật u ám nhưng vẫn chưa mưa. Tôi quyết định không đụng tới chiếc xe tải mà đi bộ về phía đông, rẽ ngoặt ra khỏi khoảnh sân trước nhà, hướng thẳng vào khu rừng quanh năm rậm rạp. Cũng chẳng phải đi xa lắm để khuất tầm mắt khỏi căn nhà và con đường quốc lộ, giờ đây quanh tôi chỉ còn mỗi tiếng thở dài “lóc bóc” não nề của đất nhão… khi bị tôi dẫm lên, hoà lẫn với tiếng kêu rít rít của lũ chim giẻ cùi.

Tôi cứ bước theo con đường mòn nhỏ hẹp chạy xuyên qua cánh rừng, không dám tự ý rẽ ngang dọc vì tự biết như thế sẽ bị lạc như chơi. Xưa nay, việc định hướng đường sá của tôi chẳng có chút tiến bộ nào, hay nói một cách chính xác hơn là càng lúc càng tệ. Nếu không có sự chỉ dẫn rõ ràng, cụ thể, thì thể nào số phận tôi cũng sẽ như con kiến leo phải cành đa, mà lại trúng ngay vào cành đa cụt… Con đường mòn ngoằn ngoèo càng lúc càng dẫn sâu vào rừng, và chủ yếu là dẫn tới phía đông. Nó uốn lượn quanh những cây vân sam, cây độc cần, cây thuỷ tùng và cây thích. Đấy chỉ là sự ngờ ngợ đoán chừng vạy thôi chứ chẳng phải tôi biết rành rẽ gì những cái tên thảo mộc ấy. Tất cả chẳng qua là nhờ có bố đã từng chỉ cho, khi hai bố con vi vút trên chiếc xe tuần tra vào những ngày đầu tiên tôi còn chân ướt chân ráo đến thăm bố. Lúc ấy, có nhiều cây tôi không biết tên, cũng có những cái cây tôi không biết chắc tên chúng lắm, vì trên thân chúng phủ đầy loại tầm gửi đang độ xanh tươi mơn mởn.

Cơn phẫn nộ vẫn thúc đẩy đôi chân của tôi tiến về phía trước, và cứ thế, tôi mải miết đi men theo con đường mòn… Mãi cho đến khi trong lòng tôi đã cảm thấy nguôi ngoai thì đôi chân mới chịu chậm lại. Vài giọt nước từ những tán lá trên cao bắt đầu rơi xuống, không rõ là do mưa hay do nước từ hôm qua đọng lại trên kẽ lá, giờ mới chịu buông mình để trở về với cội nguồn là các mạch nước ở tận dưới lòng đất sâu. Một cái cây mới đổ gần đây – tôi biết nó mới đổ vì rêu vẫn chưa kịp phủ kín hoàn toàn – đang tựa mình vào một trong những chị em khác mọc quanh nó, vô tình tạo thành một chiếc ghế kín gió mưa cho tôi có thể ngồi nghỉ chân trong chốc lát. Tôi khẽ khàng bước qua những cây dương xỉ, ngồi lên chiếc ghế một cách thận trọng, cố ý để cho cái đuôi áo mưa lót lên chỗ ngồi hơi âm ẩm để giữ khô được bộ y phục tôi đang mặc trên người, và nhẹ nhàng ngả cái đầu đang đội mũ trùm lên một thân cây gần đó, thư giãn…

Lẽ ra tôi không nên đến đây. Tôi biết thế, nhưng liệu còn chỗ nào khác để đi nữa? Khu rừng xanh ngăn ngắt, xanh đến nao lòng và giống hệt như khung cảnh trong giấc mơ đêm rồi của tôi… vậy mà tôi đã chọn nó để làm nơi yên tĩnh cho tâm hồn. Giờ thì không còn tiếng nhoèn nhoẹt của đôi chân khi bước đi trên đất nhão nữa, tất cả đều chìm trong một sự im lặng não nề. Ngay cả đến những con chim cũng thôi không còn hót, chỉ còn những giọt nước cứ rơi rơi, vậy là mưa… Những cây dương xỉ quanh đây đều cao hơn tôi, vậy là nghiễm nhiên tôi trở thành “cái ghế bất đắc dĩ” của chúng… Trên con đường mòn hình như có người, người ấy chỉ cách tôi có một mét, nhưng có lẽ y không hề biết có sự tồn tại của tôi trong khu rừng này.

Đây, giữa muôn trùng cây cỏ, tôi bỗng đâm tin vào những điều mà tôi cho là vô căn cứ, những điều đã tạo nên nỗi bực dọc trong lòng tôi khi tôi còn ru rú ở trong nhà. Cả ngàn năm qua, cánh rừng vẫn còn đây. Trong cái không gian xanh thẳm, mịt mù hư ảo này, tất cả những huyền thoại, những truyền thuyết của trăm ngàn vùng đất khác nhau, có vẻ đã trở thành sự thật, cảm giác này hoàn toàn khác hẳn khi tôi ở trong căn phòng ngủ.
Tôi buộc mình phải tập trung vào hai vấn đề lớn nhất mà tôi chẳng lấy gì làm vui vẻ để tiếp nhận.
Thứ nhất, tôi phải quyết định xem điều Jacob nói về gia đình nhà Cullen liệu có khả năng là sự thật hay không.
Ngay lập tức, trong đầu tôi vang lên một câu trả lời rền rĩ: “khôôông!”. Thật ngớ ngẩn và lố bịch thay cho những suy nghĩ lạ lùng kia. Nhưng như vậy thì tất cả chuyện này là như thế nào? Tôi tự hỏi mình. Thực sự là không có một lời giải thích nào hợp lý đối với việc tôi đang còn có thể sống được mà ngồi thẫn thờ giữa chốn rừng thẳm như thế này. Tôi sắp xếp lại một cách có trật tự những gì mình đã tận mắt chứng kiến: tốc độ và một sức mạnh siêu phàm – có nằm mơ cũng không thấy nổi, màu mắt cứ liên tục đổi từ đen sang vàng rồi lại từ vàng sang đen một cách thất thường, còn vẻ đẹp hoang dại, nước da quá trắng và rất lạnh nữa. Ừm, gì nữa nhỉ – một cách chậm rãi, những chi tiết vụn vặt từ đâu bỗng hiện về lấp đầy bảng danh sách “những điều kỳ lạ” mà tôi thu thập được: vì sao không lúc nào thấy được họ đang ăn uống, vì sao dáng đi của họ lại nhanh và mạnh mẽ đến như vậy? Còn cái lối nói của hắn ta nữa, thỉnh thoảng lại lên bổng xuống trầm, rất du dương, cùng với cách diễn đạt kiểu cách thích hợp với thời đại của những quyển tiểu thuyết kinh điển hơn là với lớp học ở thế kỷ hai mươi mốt. Hắn ta đã trốn học vào đúng cái ngày chúng tôi được kiểm tra nhóm máu. Hắn ta đã không từ chối chuyến ra biển cho tới lúc biết được là chúng tôi sẽ đi đâu. Ngoại trừ tôi ra, hắn ta có vẻ như đoán biết được suy nghĩ của tất cả mọi người xung quanh mình… Hắn ta còn nói với tôi rằng hắn ta không phải là người đơn giản, rằng hắn ta rất nguy hiểm…

Có lẽ nào gia đình nhà Cullen chính là ma-cà-rồng?

Ừm, họ hẳn phải là gì đó. Mà cái gì đó phải là thứ không thể giải thích được bằng những lý lẽ thông thường. Là kẻ máu lạnh như lời Jacob, hay là người hùng trong lòng tôi… Dù có là gì đi nữa thì Edward Cullen cũng không phải là… người. Hắn ta phải là gì đó hơn thế nữa.

Vậy là… có thể như thế thật. Hẳn đây là câu trả lời tốt nhất rồi.

Vậy thì… đây là vấn đề quan trọng nhất. Nếu điều đó là sự thật, tôi sẽ phải làm gì?

Nếu Edward là ma-cà-rồng – khó khăn lắm, tôi mới buộc mình phải dùng những từ này đối với Edward – thì tôi sẽ làm gì? Nếu là ai khác thì câu trả lời duy nhất của tôi sẽ là “không bao giờ”… Ôi, tôi không còn tin vào chính mình nữa; liệu có ai khả dĩ cho tôi được lời khuyên không?

Chỉ có hai cách xem ra là khôn ngoan nhất thôi. Thứ nhất là cứ làm theo lời khuyên của chính hắn ta: đừng có ngốc nghếch nữa, hãy tránh xa hắn ta, càng xa càng tốt. Hãy hủy bỏ dự định của cả hai, cứ làm theo kế hoạch riêng của mình và lờ phắt hắn ta đi. Hãy làm như giữa mình và hắn ta luôn tồn tại một bức tường thủy tinh dày cộp. Hãy bảo với hắn ta là để cho mình yên… và rằng đã đến lúc phải nên như thế.

Nghĩ đến đây… bất giác tôi cảm thấy như mình đang bị rơi xuống một vực sâu của tất cả nỗi tuyệt vọng và đau khổ khôn cùng, chẳng lẽ không có lối thoát nào sao… Và lý trí, một lần nữa lại can thiệp, nó nhanh chóng phác thảo ra một dự định thứ hai.

Mình chẳng phải làm gì cả. Suy cho cùng, nếu hắn ta có là gì đó… nguy hiểm thì đã chẳng ra tay cứu mình làm gì. Đúng như vậy, nếu Edward không hành động kịp thời thì giờ đây, trên cái chắn bùn của xe Tyler đã có nguyên một cái vết lõm in hình mình rồi. Nhưng rồi ngay lập tức, trong tôi lại có sự tranh cãi; việc đã xảy ra đó đơn thuần chỉ là do những phản xạ của hắn ta mà thôi. Song, nếu là kẻ có phản xạ cứu người khác, thì hắn ta nguy hiểm ở mức độ nào? Tôi tự vấn lại mình. Và cứ thế, đầu óc tôi quay cuồng với những suy nghĩ không đâu vào đâu, chẳng làm sao thoát ra khỏi được cái vòng luẩn quẩn không có lối ra.

Cuối cùng, nếu có đang chắc chắn được một điều gì đó, thì tôi chỉ có thể đảm bảo được một điều duy nhất mà thôi. Hình ảnh của Edward trong giấc mơ đêm rồi chính là sự dội lại của nỗi sợ trước những gì Jacob đã nói, chứ không phải là tôi sợ chính bản thân Edward. Còn nỗi kinh hoàng của tôi trước sự tấn công của người sói… hoàn toàn không phải vì tôi lo cho con sói đến độ phải bật ra tiếng thét gào khản đặc “khôôông”… mà chính là vì tôi lo sợ cho Edward sẽ bị thương – ngay cả khi nghe tiếng hắn ta gọi tôi, miệng hắn để lộ ra những cái răng nanh sắc bén, cũng là lúc tôi đang lo lắng cho hắn ta.

Tôi hiểu mình đã có câu trả lời… song, không biết mình phải làm sao. Lòng tôi rối như tơ vò. Hiện tại, tôi chỉ biết có mỗi một điều thôi – mà dù tôi có biết thêm hai, ba điều khác đi nữa thì cũng vậy thôi – ấy là tôi sẽ chẳng làm gì được với cái sự thật phũ phàng và kinh khủng đó cả. Bởi lẽ khi nghĩ về Edward, nhớ lại giọng nói, ánh mắt sâu thẳm, cùng tính cách có sức hút mãnh liệt của hắn ta, tôi chẳng muốn gì khác ngoài việc được ở bên Edward ngay bây giờ. Ngay cả khi… Thôi, không được nghĩ đến điều ấy nữa. Không phải là ở đây, lúc một thân một mình trơ trọi giữa cánh rừng già đang càng lúc càng tối sầm lại như thế này. Không phải là lúc mưa đang làm cho khu rừng trở nên mịt mờ như đang giữa bóng chiều chạng vạng, và nhất là lúc tiếng mưa tí tách rơi như tiếng chân ai bước trên nền đất ướt át… Tôi chợt rùng mình, đứng bật ngay dậy… Lỡ mưa… Mưa có thể sẽ xóa nhòa con đường mòn thì sao?

Không, con đường mòn vẫn còn kia, nó vẫn bình an vô sự, vẫn uốn lượn chỉ hướng cho tôi thoát khỏi cái mê cung xanh thẳm và sũng sĩnh nước này. Tôi lại hấp tấp bước đi trên con đường mòn, cái mũ trùm đầu gần như bị kéo xệ xuống giữa mặt, mặc kệ, tôi cứ bước như lao chạy qua các lùm cây, trong lòng tự ngạc nhiên với chính mình là làm sao đã đi được vào rừng sâu đến thế. Đúng lúc tôi bắt đầu hoài nghi về hướng đi của mình, không biết là tôi đang trên đường về nhà hay đang dấn sâu thêm vô rừng đây… và trước khi tôi kịp “lên cơn” yếu bóng vía, mặt mày tái mét, tim đập liên hồi thì tôi loáng thoáng nhận ra những khoảng rừng thưa qua các nhánh cành đan vào nhau. Trong không trung vang lên tiếng động cơ xe hơi phóng trên đường quốc lộ. Thế rồi bãi cỏ trước nhà bố đột ngột trải dài ra trước mắt tôi, tiếp liền theo đó là ngôi nhà cũng hiện ra rõ đến từng góc cạnh; vậy là tôi sắp được tận hưởng bầu không khí khô ráo, ấm áp rồi.

Vào đến nhà, tôi mới nhận thức được đang là giữa trưa. Tôi lên lầu thay quần áo, quyết định chọn quần jean và áo thun ngắn tay để mặc ở nhà… Vậy là bài tập hôm nay chẳng có kết quả gì mấy, nhưng có hề gì, bài làm chuyên đề về Macbeth mãi đến thứ Tư tuần sau mới phải nộp kia mà. Tôi hý hoáy xác lập dàn ý và hoàn toàn bằng lòng về nó, trong lòng thanh thản hơn kể từ… ừm, chính xác là kể từ trưa thứ Năm.

Tính cách của tôi là vậy đấy, xưa nay, tôi vẫn luôn là kẻ thích làm theo ngẫu hứng. Cũng bởi cái tính ấy nên khi buộc phải quyết định một điều gì, trong người tôi lúc nào cũng cảm thấy khó chịu, khổ sở và bực bội như bị lửa đốt. Thế mà mỗi khi quyết định xong, tôi lại nỗ lực bằng được để thực hiện – và kết quả thường là cảm giác nhẹ nhàng, thư thái, lâng lâng bay bổng… Nhưng cuộc sống là thế, thi thoảng việc gì cũng có những ngoại lệ, đó là khi nỗi nhẹ nhõm, thanh thản đâu không thấy, chỉ thấy toàn một mối ê chề thất vọng, giống như cái quyết định đến sống ở cái thị trấn Forks này vậy. Thế đấy, nhưng dù sao vẫn còn tốt hơn là cứ phải căng thẳng suy đi tính lại với một lô một lốc những lựa chọn đâu đâu.

Mà cái quyết định này của tôi thật chẳng ra làm sao cả. Nó quái gở hết sức.

Ngày hôm nay trôi qua một cách êm ả và hoàn toàn có lợi cho tôi – tôi đã hoàn thành bài tập trước tám giờ tối. Còn bố thì về nhà với một mẻ cá to, nhìn chiến công của bố, tôi bất chợt nảy ra ý định là sẽ tìm mua bằng được một quyển sách dạy nấu ăn chuyên về cá khi đến Seattle vào tuần sau. Nghĩ đến đây, tôi bỗng thấy lạnh cả xương sống, tất nhiên là trước khi có cuộc đi dạo với Jacob Black, tôi cũng có cảm giác này mỗi khi nghĩ đến chuyến đi… Có điều, tâm trạng lúc này nên khác đi mới phải. Tôi nên sợ… Tôi hiểu là mình cần phải sợ, nhưng sao tôi lại chẳng thấy sợ chút nào cả…

Đêm ấy, tôi ngủ rất say, không hề mộng mị gì, có lẽ do từ sớm tinh mơ, tinh thần tôi đã không được thoải mái, còn đêm trước nữa, tôi đã chẳng được ngủ lấy một giấc cho ra hồn. Tôi choàng tỉnh giấc, đó là lần thứ hai trong suốt khoảng thời gian đến Forks, tia nắng mặt trời rực rỡ của một ngày đầy nắng rọi thẳng vào phòng tôi. Tôi quáng quàng nhào đến bên cửa sổ, bất ngờ… trên nền trời chỉ có mỗi một đám mây, điểm xuyết xa xa là một vài gợn mây trắng mỏng manh, xốp nhẹ, thế thì không thể mang mưa đến được rồi. Tôi hớn hở mở tung cửa sổ để tận hưởng bầu không khí thoáng đãng – lại thêm một bất ngờ khác: cánh cửa sổ nhẹ hẫng, chẳng hề có lấy một tiếng ken két nào, dù rằng hàng bao năm qua, nó vẫn cứ đóng im ỉm. Tiết trời thật ấm áp dễ chịu. Máu trong người tôi như được giải thoát khỏi sự kìm kẹp vô hình bấy lâu, đang chảy tuôn tràn trong các huyết mạch.
Khi tôi bước xuống lầu, bố đã ăn sáng xong, bố nhìn tôi và lập tức nhận ra được ngay nét mặt tươi vui của cô con gái.

Một ngày đẹp trời để ra ngoài, con nhỉ – Bố lên tiếng.
Dạ – Tôi đồng ý với một nụ cười nở rộng.

Bố cũng mỉm cười, đôi mắt nâu nheo lại hằn đầy vết chân chim. Chỉ khi trông thấy bố cười như vậy, tôi mới hiểu hơn về cái lý do khiến mẹ và bố đã quyết định tiến tới hôn nhân một cách chóng vánh còn hơn bị bão cuốn. Những nét trẻ trung lãng mạn hồi đó của bố đã nhạt nhòa từ trước khi… tôi biết đến bố, khi mái tóc xoăn nâu – tuy không mềm như tóc tôi nhưng cũng cùng màu – đã trở nên thưa dần, từ từ để lộ làn da sáng bóng ở trước trán. Tuy thế, khi ngắm bố cười, tôi cũng loáng thoáng nhận ra được phần nào hình ảnh người đàn ông đã “cuỗm mất” trái tim của mẹ và cùng mẹ cao chạy xa bay khi mẹ lúc đó mới chỉ hơn tôi bây giờ có hai tuổi.
Tôi vui vẻ ăn sáng, mắt không thôi ngắm nhìn những luồng bụi lăn tăn chuyển động trong tia nắng mặt trời rọi qua cửa sổ. Có tiếng bố chào tạm biệt cất lên ở ngoài cửa, cùng lúc với tiếng động cơ xe tuần tra càng lúc càng xa dần. Tôi chùng chình bước ra cửa, tay để hờ lên chiếc áo đi mưa. Thôi, tốt nhất là cứ nên mang cả nó theo. Thở dài, tôi cuộn cái áo mưa trong tay rồi hân hoan hòa mình vào những tia nắng rực rỡ nhất trong mấy tháng qua.

Chỉ cần quệt một vệt mỡ bò thôi là tôi đã có thể dễ dàng hạ được tất cả các ô cửa kính trong chiếc xe tải. Tôi là một trong những học sinh đến trường sớm nhất; thậm chí tôi đã chẳng cần phải kiểm tra đồng hồ khi bước ra ngoài cơ đấy. Đậu xe xong, tôi lò dò tiến tới chỗ mấy chiếc ghế dài hiếm khi có người sử dụng. Ghế vẫn còn hơi âm ẩm, thế nên tôi cẩn thận ngồi lên chiếc áo mưa, cảm thấy vui vui khi đã quyết định mang nó theo. Bài tập về nhà của tôi cuối cùng đã hoàn tất – là sản phẩm của một đời sống xã hội tẻ nhạt – tuy nhiên, có vài bài lượng giác khá hóc búa, tôi không chắc là mình có làm đúng hay không. Rồi giống như một học trò hiếu học, tôi rút quyển sách ra để kiểm tra bài đầu tiên… Được nửa chừng, tôi bắt đầu mơ mơ màng màng, thẫn thờ ngắm nhìn những tia nắng lấp loáng trên những tàn cây vỏ đỏ… Và lơ đễnh hí họa trên mép giấy làm bài tập về nhà. Vài phút sau, tôi thất thần nhận ra là tôi vừa vẽ xong năm cặp mắt đen đang trừng trừng nhìn xoáy vào tôi trên tờ giấy. Hoảng hốt, tôi lấy gôm xóa hết chúng đi.

Bella! – Có tiếng ai đó gọi tôi, hình như là tiếng của Mike thì phải.
Tôi ngước mặt lên nhìn quanh quất, thì ra trong lúc tôi ngồi đây, trường học đã bắt đầu đông học sinh rồi, vậy mà tôi chẳng hay biết gì cả, thật đãng trí hết chỗ nói. Giữa tiết trời không quá mười lăm độ này, học sinh nào cũng tròng vào người chiếc áo thun ngắn tay, một vài người còn diện luôn cả quần soọc đến lớp nữa. Trong số đó có Mike, anh chàng mặc quần soọc kaki và chiếc áo có sọc vẫn mặc để chơi bóng bầu dục đang tiến đến chỗ tôi.
A, Mike – Tôi cũng lên tiếng rồi vẫy tay đáp lại, làm sao có thể không nhiệt tình vui vẻ trong một buổi sáng đẹp trời như thế này được.

Mike bước đến ngồi ngay bên cạnh tôi, những lọn tóc chải theo nếp đâu vào đấy của anh chàng lấp lánh ánh vàng dưới nắng, còn nụ cười thì nở ra đến tận mang tai. Trông Mike có vẻ rất vui khi nhìn thấy tôi, điều này làm cho tôi cảm thấy hơi ngài ngại nhưng trong lòng lại rất mãn nguyện.
Trước đây, mình đã không chú ý… Tóc cậu có hơi hoe hoe đỏ đấy – Mike nhận xét rồi khẽ mơn nhẹ tóc tôi, những lọn tóc trở nên dao động nhưng rất khẽ, tựa như một làn gió mát thổi thoáng qua vậy.

Do nắng đấy.

Rồi tôi chợt cảm thấy khó chịu khi Mike tỏ ra bạo dạn vén một lọn tóc ra phía sau tai tôi.

Một ngày đẹp trời, phải không?

Ừ, mình cũng mong chờ một ngày như thế này – Tôi đồng ý.
Hôm qua em…, à cậu làm gì? – Giọng nói của Mike bỗng chuyển sang âm điệu của một người có chút “quyền hạn” nào đó…

Mình tập trung hầu hết thời gian cho bài tiểu luận – Tôi không muốn nói thêm rằng mình đã hoàn thành xong… Tự mãn vốn là một tính xấu.
Mike gõ gõ vào trán vài cái rồi kêu lên:

Ờ đúng rồi… Thứ Năm là ngày nộp bài, phải không?

Ừmmm, mình nhớ là thứ Tư thì phải.

Thứ Tư à? – Mike thoáng cau mày – Thôi rồi… Thế cậu viết gì vậy?

Phải chăng cách xử lý các nhân vật nữ của Shakespeare cho thấy ông là người ghét phụ nữ?

Mike chằm chằm nhìn tôi như thể tôi vừa mới thốt ra một thứ tiếng khó hiểu nào đấy.

Chắc tối nay mình phải thức mà làm thôi – Mike trả lời kèm theo một tiếng thở dài thườn thượt – Mình tính mời cậu ra ngoài… nếu cậu muốn…
Ừm ừm… – Tôi bắt đầu dè dặt. Sao tôi không thể tự nhiên nói chuyện vui vẻ với Mike mà cứ phải túng túng, ngượng nghịu thế này nhỉ?

À ừm, hai đứa mình có thể đi ăn tối hay là gì đấy… rồi mình về làm bài sau… – Mike mỉm cười nhìn tôi, hy vọng…
Mike à… – Trời ơi, tôi ghét phải làm người khác thất vọng quá – Mình không nghĩ điều đó là nên đâu.
Mặt Mike xịu xuống.

Sao vậy? – Anh ta ấp úng hỏi, ánh mắt đầy sự dè chừng. Bất giác tôi nghĩ đến Edward, không rõ Mike có nghĩ là do Edward mà tôi từ chối lời mời của anh ta không nhỉ…

Mình nghĩ là… Ừm, cậu mà lặp lại điều mình sắp nói ra đây là sẽ chết với mình đấy nhé – Tôi cảnh báo rồi tiếp tục nói – Mình nghĩ là điều đó sẽ khiến Jessica bị tổn thương.
Mike trở nên bối rối, rõ ràng là anh bạn của tôi không mảy may ngờ tới cái lý do này.

Jessica?
Thật đấy, Mike ạ, bộ cậu không biết sao?

Ôi trời – Anh chàng không giấu được nỗi lúng túng và có thể thấy rõ là đang sửng sốt tột độ. (Đây là chính là thời cơ thuận lợi để tôi có thể đào tẩu một cách an toàn…).

Tới giờ đến lớp rồi, mình không muốn bị trễ nữa – Nói xong, tôi thu dọn sách vở, cho hết vào túi.
Chúng tôi cùng sóng bước đi bên nhau đến tòa nhà thứ ba trong im lặng, Mike vẫn còn ngơ ngơ ngác ngác như người mất hồn. Tôi chỉ hy vọng rằng dù Mike có đang nghĩ gì, thì điều đó cũng là định hướng cho Mike biết cách cư xử cho đúng mực hơn mà thôi.

Gặp lại Jessica ở lớp lượng giác học, tôi bất ngờ khi thấy cô ta tỏ ra vui như tết. Thì ra là Jessica, Angela và Lauren đang có dự định sẽ đến Port Angeles vào tối nay để mua sắm quần áo cho buổi khiêu vũ, tất nhiên là cô bạn muốn tôi đi cùng… dù rằng tôi chẳng cần gì để phải mua với bán. Tôi bỗng đâm ra lưỡng lự. Đi cùng những cô bạn ra khỏi thị trấn tất nhiên là sẽ rất vui rồi, chỉ có điều là Lauren cũng có mặt ở đó. À, vậy thì ai mà biết được tối nay tôi sẽ làm gì… Không được, không được để đầu óc vẩn vơ. Mình đương vui vẻ dưới bầu trời đầy nắng như thế này thì đừng nghĩ chi những việc xa xôi như vậy. Tôi tự nhủ. Tuy nhiên cũng không nên vì thế mà tỏ thái độ quá phởn phơ, chẳng có lấy một chút dè dặt.

Nghĩ vậy nên tôi chỉ trả lời bâng quơ với Jessica rằng tôi không chắc chắn lắm, lý do là tôi còn phải xin phép bố trước mới được.
Trên suốt quãng đường đi đến lớp học tiếng Tây Ban Nha, Jessica chẳng nói gì ngoài chuyện khiêu vũ, đề tài này cứ kéo dài mãi cho đến tận lúc lớp học tan hết mà vẫn chưa kết thúc, phải thêm năm phút sau nữa, câu chuyện khiêu vũ mới được chấm dứt, vì đó là giờ ăn trưa. Tôi và Jessica lục tục kéo nhau đến quán ăn. Thật ra, tôi không hề cảm thấy rối bù đầu óc trước câu chuyện tràng giang đại hải của cô bạn…

Rất đơn giản, tôi chỉ đang sốt ruột trông chờ được nhìn thấy trở lại gương mặt không chỉ của Edward mà của cả bốn anh chị em nhà hắn ta nữa – để so sánh với những nghi ngờ mới nảy sinh trong đầu óc tôi. Nhưng rồi khi vừa bước qua ngưỡng cửa quán ăn, một cảm giác ớn lạnh từ đỉnh đầu trượt dọc theo sống lưng của tôi, nó dừng lại ở bụng… Tôi cảm thấy nôn nao… Liệu họ có đọc được suy nghĩ của tôi không? Rồi bất chợt một cảm giác lạ lùng khác xen vào… Edward có đang đợi tôi không?
Như thường lệ, tôi đưa mắt về phía chiếc bàn của anh em nhà Cullen. Bụng tôi thắt lại khi nhận ra rằng cái bàn ấy trống trơn, không có người ngồi. Với một tia hy vọng mỏng manh, tôi rảo mắt tìm khắp quán ăn, hy vọng hắn ta đang ngồi một mình, và… chờ đợi tôi đến. Nhưng không, khắp nơi đều gần như kín chỗ – lớp học tiếng Tây Ban Nha đã làm chúng tôi đến trễ – và chẳng thấy tăm hơi của Edward lẫn anh em của hắn ta đâu cả. Một cảm giác sầu thảm chợt ùa vào xâm chiếm lấy hồn tôi, tàn phá hết mọi sức mạnh đang có trong tôi.
Tôi cứ lê bước theo sau Jessica, bây giờ thì chẳng cần phải tỏ ra vẻ đang chăm chú lắng nghe cô bạn huyên thuyên nữa.
Chiếc bàn ăn thân thuộc của tôi cũng gần như kín chỗ. Tôi cẩn thận chọn chỗ ngồi bên cạnh Angela để né chiếc ghế trống bên cạnh Mike. Mà hình như Mike cũng đang có ý giữ chỗ đó cho Jessica thì phải, tôi thấy mắt cô bạn của mình sáng rỡ; thật sự là một điều đáng vui chứ còn gì.

Rồi Angela quay sang hỏi tôi vài câu về Macbeth, tôi trả lời thật tự nhiên, cố dằn xuống nỗi đau khổ đang quặn thắt trong lòng. Cũng giống như Jessica, Angela lên tiếng mời tôi cùng nhập bọn với cô đến Port Angeles vào tối nay, và giờ thì tôi gật đầu đồng ý, cố bám víu vào bất kỳ điều gì có thể làm cho mình nguôi ngoai…

Sau bữa ăn chẳng lấy gì làm vui vẻ, tôi lại nhận ra mình vẫn còn một chút ít hy vọng khi bước vào lớp sinh học, để rồi khi nhìn thấy chỗ ngồi trống vắng của Edward, lòng tôi lại dâng tràn một nỗi thất vọng mới.

Những giờ học còn lại trôi qua một cách ảm đạm, tẻ nhạt. Trong giờ học thể dục, chúng tôi được nghe một bài dài thoòng loòng về các quy tắc, luật lệ của bộ môn cầu lông… lại một sự tra tấn tinh thần khác. Nhưng ít ra thì tôi cũng chỉ có việc ngồi nghe mà thôi, thay vì phải chạy tới chạy lui trên sân mà “chụp ếch”. Và điều tuyệt vời nhất dành cho tôi, đó là thầy chưa giảng xong thì đã hết giờ, vậy là ngày mai sẽ phải tiếp tục ngồi nghe tụng nốt “bài kinh” còn lại. Mà cũng chẳng có gì phải lo nếu lỡ như sau đó, tôi có được trang bị một cái vợt để tung hoành với cả lớp, thì cho tới lúc “nâng niu” được cái vợt trên tay, cũng sẽ lại hết giờ mất rồi…

Được rời khỏi sân trường, lòng tôi vui như mở cờ trong bụng, giờ thì có thể tự do mà trề môi, mà mếu máo, để tống khứ hết mọi ưu tư, muộn phiền trong lòng, sau đó, sẽ cùng đi với nhóm của Jessica. Nhưng ngay khi vừa mới bước chân vào đến cửa nhà thì tôi nhận được điện thoại của Jessica, cô bạn tôi cáo lỗi không đi được… vì Mike đã mời cô ta đi ăn tối. Hoàn toàn bất ngờ, nhưng tôi vẫn cố thể hiện với cô bạn là mình rất vui khi nghe được tin tốt lành đó. Quả thật là tôi có cảm thấy nhẹ nhõm được đôi chút, hình như cuối cùng Mike cũng đã hiểu ra… nhưng rồi khi chưa kịp hưởng trọn sự khuây khỏa, tôi lại phải đón nhận một tin “sét đánh”: chuyến đi mua sắm ở Port Angeles sẽ được dời lại vào tối mai.

Thôi được rồi, chẳng ai có thể giúp mình quên đi nỗi buồn dai dẳng này thì tự mình phải cứu mình vậy, nghĩ rồi, tôi lao vào bếp lo bữa tối. Tôi ngâm cá trong nước ướp, rồi chuẩn bị món xàlách trộn dầu giấm để ăn với bánh mì còn dư lại của buổi tối hôm qua. Xem chừng chẳng còn gì phải làm nữa, tôi bỏ ra ba mươi phút để làm bài tập. Bài tập cũng đã được làm xong… Thế thì kiểm tra e-mail vậy… Ôi trời, thư của mẹ đang chất thành núi. Tôi kiên nhẫn đọc từng thư một, và tất nhiên càng đọc về sau thì mặt càng trở nên “nóng bừng” – một trong những triệu chứng của cơn bực bội, cáu kỉnh… Hít vào thật sâu rồi trút ra một hơi thở dài, tôi cúi xuống bàn phím gõ vài dòng trả lời…
Mẹ, Con xin lỗi. Mấy ngày qua, con cứ bận suốt. Con đã đi chơi biển với mấy người bạn.

Con lại phải làm một bài luận văn nữa.
Tự cảm thấy mấy lời xin lỗi này không được thỏa đáng cho lắm, tôi xóa sạch rồi gõ lại.
Hôm nay là một ngày nắng đẹp, rất thích hợp để ra ngoài, phải không mẹ? Con biết ạ.

Tâm trạng của con cũng không tốt như mẹ. Thế nên con sẽ năng ra ngoài dang nắng để có nhiều vitamin D. Con lúc nào cũng yêu mẹ lắm lắm.
Bella.

Xong xuôi, tôi quyết định dành hẳn một tiếng đồng hồ để đọc sách, nhưng không phải là những quyển sách buộc phải học ở trường. Tôi có khá nhiều sách hay, tôi đã mang chúng theo khi đến thị trấn Forks này. Xem nào, quyển cũ nhất là Tuyển tập Jane Austen(11). Đọc quyển này đi, nghĩ rồi tôi chụp lấy quyển sách, bước nhanh ra phía cầu thang, chợt bắt gặp một tấm mềm bông sờn cũ nằm chỏng chơ trên nóc chạn, cũng có ích đây, vả lại, cái chạn cũng đang nằm ngay phía cầu thang nữa… Tôi ngồi thụp xuống bậc thang đầu tiên, với tay thộp lấy nó xong mới chịu bước xuống lầu, và hướng ra khoảng sân phía sau nhà.

Khoảng sân phía sau nhà chúng tôi bé xíu nhưng rất vuông vức, tôi gấp mền lại làm hai, đảo mắt tìm một chỗ ngồi thuận tiện. Kia rồi, một lớp cỏ dầy, lại không nằm dưới bóng râm, tôi trải cái mền lên chỗ thảm cỏ đã chọn, không hiểu sao ở đây cỏ lúc nào cũng ươn ướt, mặc cho mặt trời có rọi nắng xuống bao nhiêu… Tôi nằm úp bụng xuống cái mền, hai chân để gập lên, đòng đưa trong không trung, tay tôi lật qua lật lại những trang tiểu thuyết có trong tuyển tập để cân nhắc xem tác phẩm nào thật sự thích hợp với mình vào lúc này nhất. Niềm kiêu hãnh và thói định kiến, Lý trí và tình cảm… đây là hai tác phẩm tôi rất thích. Niềm kiêu hãnh và thói định kiến thì mới đây, tôi đã đọc rồi, thế thì đọc Lý trí và tình cảm vậy. Chọn lựa xong, tôi bắt đầu ngấu nghiến tác phẩm… và trớ trêu thay cho tôi, đúng lúc đọc đến chương ba thì tôi ngớ người ra, trong truyện có nhân vật nam chính tên là Edward. Đúng là chạy trời không khỏi nắng, một cách bực bội, tôi giở nhanh sang tác phẩm khác: Khu vườn Mansfield, không được, tác phẩm này có nhân vật nam chính tên là Edmund, cũng na ná như nhau mà thôi. Hình như hồi cuối thế kỷ mười tám, người ta không thể nghĩ ra được cái tên nào hay hơn thì phải. Tôi đóng ập quyển sách lại một cách tức tối, rồi lăn ngược người lại. Cố kéo tay áo lên thật cao và khép nhẹ mắt lại. Giờ thì mình sẽ nằm ỳ ở đây và không thèm nghĩ ngợi gì nữa, chỉ cần quan tâm đến ánh nắng ấm áp đang phủ lên làn da của mình thôi – tôi tự ra lệnh cho mình. Nhưng mà nào có được yên… Cơn gió phá đám vẫn còn quanh quẩn đâu đây, nó cứ nhằm vào tóc tôi mà vờn giỡn, khiến cho các lọn tóc cứ bay lòa xòa quanh mặt tôi rất khó chịu. Bực bội, tôi túm ngược hết tất cả tóc lên, để nó tự do xòe theo hình quạt trên tấm mềm, rồi lại tập trung tận hưởng cái hơi ấm đang lan tỏa trên mi mắt, trên gò má, trên mũi, trên hai cánh tay, trên cổ và cái hơi ấm ấy còn xuyên cả vào bên trong chiếc áo sơ mi sáng màu mà tôi đang mặc…

Bỗng cả nền đất như rung lên, toàn bộ con người tôi chợt bừng tỉnh. Trong không gian vang lên không lớn lắm tiếng động cơ của chiếc xe tuần tra quen thuộc đang trên đường lăn bánh vào khuôn viên nhà. Tôi ngồi bật dậy, ngạc nhiên trước thực tế ánh nắng đã tắt tự lúc nào… Xa xa, sau những rặng cây, mặt trời đang chuẩn bị rơi xuống, khuất dạng cuối chân trời… Hóa ra nãy giờ tôi đã ngủ ở đây ư… Tôi nhìn quanh quất, đầu óc tự dưng rối mù với duy nhất một cảm giác bất ngờ, hoảng hốt khi giật mình nhận ra là bố về…

Bố, có phải bố không? – Tôi cất tiếng hỏi thật to. Và đáp lại câu hỏi ấy là một tiếng đóng sầm của cửa trước.
Tôi nhảy bật dậy, quơ vội quyển sách và cái mền giờ đã ẩm ướt mà cáu giận với chính mình. Bữa ăn tối nay thế là bị trễ rồi! Tôi hớt hơ hớt hải chạy vào nhà để đun nóng dầu. Bố kia rồi, sừng sững hiện ra khi tôi vừa bước vào gian bếp, bố đang máng cái thắt lưng buộc súng và rút chân ra khỏi đôi giày.
Con xin lỗi, bữa tối vẫn chưa xong… Con ngủ quên ngoài vườn – Tôi cố kìm một cái ngáp.
Đừng lo lắng quá, con gái ạ – Bố trả lời – Sao cũng được mà, bố cũng đang muốn theo dõi mấy trận đấu đây.
Dùng xong bữa ăn tối, tôi ngồi xem tivi với bố, để mà có cái gì đó làm cho vơi bớt đầu óc thôi chứ chẳng phải tôi thích thú gì. Hôm nay tivi chẳng có gì đáng xem cả. Biết tôi ghét bóng chày, bố bật sang kênh hài kịch… mặc dù đó không phải là “gu” của hai bố con. Song ít ra bố cũng có vui lên khi theo dõi nó. Thế cũng tốt, nó khiến cho bố vui vẻ là được rồi, chứ còn tôi thì vẫn không thể cười nổi.

Bố à – Tôi lên tiếng khi tivi chuyển qua mục quảng cáo – Jessica và Angela muốn xem qua vài cái áo ở Port Angeles vào tối mai, để chuẩn bị cho buổi khiêu vũ… Cả hai đứa nó muốn nhờ con chọn giúp… Con có thể đi với chúng được không?

Jessica Stanley ấy hả? – Bố hỏi lại.

Và Angela Weber – Tôi thở dài khi phải nói cả họ tên cho bố biết.
Bố ngạc nhiên ra mặt:
Nhưng con đâu có ý định tham dự khiêu vũ?

Dạ, con không tham dự, nhưng con sẽ giúp họ lựa áo… giống như là “cố vấn” ấy ạ

Với phụ nữ thì tôi không phải giải thích lằng nhằng thế này đâu.

Ừ, con cứ đi đi – Có vẻ như bố đã hiểu ra rằng “con gái là thế” nên thôi không hỏi han gì nữa – Nhưng nhớ tối tăm là phải đi chung với nhau đấy nhé.

Sau giờ học là tụi con đi liền, nên sẽ về muộn. Bố có thể tự lo bữa tối được mà, phải không bố?

Bells à, trước khi con đến đây, suốt mười bảy năm qua, bố vẫn tự ăn một mình đấy thôi, đã sao đâu nào – Bố nhắc cho tôi nhớ.

Bởi thế con mới thấy lạ – Tôi lầm bầm trong miệng rồi như sực nhớ ra, tôi nói to – Con sẽ bỏ vài thứ vào tủ lạnh để bố ăn kèm với bánh xăngguých nhé? Ở ngăn trên cùng ấy.
Sáng hôm sau, trời vẫn đầy nắng. Tôi lại tỉnh dậy trong một niềm hy vọng mới, dù rằng mình đã kiên quyết gạt bỏ từ hôm qua. Hôm nay, tôi chọn mặc một chiếc áo màu xanh dương đậm, có cổ hình chữ V, chiếc áo này tôi đã mặc hồi giữa mùa đông ở Phoenix, giờ mới lại lấy ra mặc giữa tiết trời ấm áp như thế này đây.

Cũng vào ngày hôm nay, tôi quyết định lên lịch đến trường cụ thể, nghĩa là canh giờ làm sao để khi vừa ngồi vào ghế là bắt đầu vào giờ học ngay. Mọi động thái của tôi lại diễn ra như thường lệ: khi vừa trờ đến cổng trường, tim tôi thắt lại, tôi cho xe chạy vòng vòng quanh bãi để tìm chỗ trống, đồng thời… tìm luôn chiếc xe Volvo màu bạc sáng bóng… Sau vài lần lượn tới lượn lui mà chẳng thấy tăm hơi nó đâu, tôi bèn cho xe đậu vào hàng cuối cùng rồi ba chân bốn cẳng chạy vào lớp quốc văn, không kịp thở lấy một hơi, trước khi hồi chuông cuối cùng báo hiệu giờ học vang lên. Dẫu sao trong lòng tôi cũng không còn cảm thấy nặng nề.

Hôm qua làm sao thì hôm nay cũng y như vậy. Tôi quyết chẳng để cho bất kỳ một tia hy vọng nào nhen nhóm trong lòng mình nữa. Khi lần bước đến quán ăn trưa, tôi đã phải kìm nén một cách khổ sở, để rồi khi ngồi một mình một bàn trong giờ sinh học, trong tôi không còn mảy may một chút hy vọng nào.
Chuyến đi đến Port Angeles được dời lại vào ngày hôm nay đã trở nên thú vị hơn khi Lauren đột nhiên có một cuộc hẹn khác. Tuy nhiên, nghĩ đến việc rời khỏi thị trấn là lòng tôi lại chùng xuống, bất giác, tôi hơi ngoái lại phía sau… trông chờ một phép lạ… Không cần, tối nay mình sẽ ổn thôi, mình sẽ không làm hỏng niềm vui của Angela và Jessica đâu, tôi tự nhủ với mình như vậy. Biết đâu mình lại tìm được một bộ đồ ưng ý. À, còn cái vụ đi mua đồ ở Seattle vào cuối tuần này nữa, có lẽ mình sẽ phải tự đi lấy một mình, sao mà chẳng còn thấy hứng thú như lúc đầu thế nhỉ… thật là chả muốn nghĩ tới. Nhưng mà không phải như thế đâu, nhất định hắn ta sẽ không hủy bỏ chuyến đi mà không thèm báo cho mình lấy một tiếng đâu.

Tan trường, Jessica lái chiếc Mercury trắng cũ kỹ, theo tôi về nhà để tôi cất sách vở cùng chiếc xe tải. Vào nhà, tôi chải qua mái tóc, bất chợt cảm thấy hào hứng lên đôi chút khi nghĩ tới việc được tạm thời rời khỏi Forks. Tôi để lại trên bàn một lời nhắn cho bố, nhắc lại cho bố chỗ để bữa ăn tối, và nhanh tay lục tìm trong túi xách cái ví cũ mèm ít khi được đụng đến, rồi nhanh chân chạy ra với Jessica. Chúng tôi đến nhà của Angela, cô bạn đang đứng đợi. Nỗi hào hứng của tôi nhanh chóng tăng lên, chính xác là tăng theo hàm lũy thừa khi chiếc xe vi vút lao ra khỏi địa phận của thị trấn.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.