Chiến hữu

CHƯƠNG 9



Chúa nhật. Ngày đua xe. Koster đã tập luyện hàng ngày suốt tuần, và chiều nào chúng tôi cũng bận bịu đến gần sáng, kiểm tra từng con ốc nhỏ, tra dầu mỡ và phục hồi Karl. Chúng tôi tập trung ở điểm bảo trì của mình, chờ Koster, anh đi ra chỗ xuất phát.
Tất cả đều có mặt — Grau, Valentin, Lenz, Patricia Hollmann, nhất là Jupp –Jupp trong bộ áo liền quần, kính đua và mũ đua. Vì nhẹ cân nhất, thằng bé được làm phụ xế cho Koster. Lenz nghi ngại nhiều –anh luôn nghĩ rằng đôi tai vễnh to của Jupp sẽ tạo một lực cản lớn, một là xe sẽ giảm đi hai mươi kí lô mét tốc độ, hai là sẽ trở thành máy bay mất thôi.
“Làm sao cô lại có cái tên rất Anh như thế?” Gottfried hỏi Patricia Hollmann, ngồi cạnh.
“Mẹ em là người Anh. Pat cũng là tên của mẹ em.”
“A, Pat — đấy lại là một chuyện khác. Dễ gọi hơn nhiều.” Anh moi ra một cái cốc và một chai rượu. “Vậy — để mừng tình chiến hữu, Pat! Tôi tên là Gottfried.”
Tôi trố mắt nhìn anh. Trong khi tôi vẫn còn khổ sở trong vấn đề xưng hô, anh đã có thể giữa thanh thiên bạch nhật gọi nàng như thế mà không đỏ mặt. Và nàng cười, và cũng gọi lại anh bằng tên Gottfried.
Nhưng như thế chẳng thấm vào đâu so với Ferdinand Grau. Anh hoàn toàn say mê và không rời mắt khỏi nàng. Anh trích những câu thơ êm ái và giải thích rằng nàng cần phải học vẽ. Anh lại còn đặt nàng ngồi trên một cái hộp và bắt đầu phác họa.
“Nghe này, Ferdinand con kên kên già,” tôi nói, giật phắt tập giấy vẽ trên tay anh, “cứ bám vào những người đã chết. Đừng tấn công những người còn sống. Cậu hãy giảng thêm cho tụi tớ về chân bản thể. Còn với cô ấy, tớ khá nhạy cảm đấy.”
“Thế cậu có chịu nhậu với tớ cho đến hết di hài của bà dì ông chủ quán rượu của tớ?”
“Tớ không chắc nguyên cả di hài, nhưng một chân thì được.”
“Tốt. Vậy thì tớ sẽ làm theo ý cậu, bé ạ.”
Động cơ xe trên vòng đua nổ như súng liên thanh. Mùi dầu nhớt, xăng và dầu thầu dầu khen khét. Một thứ mùi phấn khích, tuyệt vời; âm thanh dồn dập, tuyệt diệu của những cái xe đua.
Hai bên đường đua, thợ máy ở những điểm bảo trì hò hét loạn xị. Chúng tôi, chỉ có lèo tèo dăm ba món. Một ít dụng cụ sửa xe, bu-gi, mấy cái bánh xe dùng tạm với vỏ lốp mà chúng tôi cạy cục từ một cơ xưởng sản xuất, vài ba loại phụ tùng — chỉ có thể thôi. Koster không đại diện cho hảng xưởng nào cả. Chúng tôi phải trả trả tiền cho tất cả mọi thứ. Vì lý do ấy, chúng tôi không thể sắm sửa nhiều.
Otto đi tới, theo sau là Braumuller đã vận sẳn bộ áo đua.
“Otto,” anh nói, “nếu hôm nay bu-gi xe của tớ trục trặc, cậu sẽ bỏ xa. Nhưng chúng sẽ không.”
“Để rồi xem,” Koster trả lời.
Braumuller dư dứ nắm tay trước Karl. “Liệu hồn, coi chừng thằng Nutcracker của ta đấy!”
Nutcracker là chiếc xe to và mới Braumuller đang lái. Nó rất được mọi người yêu chuộng.
“Karl sẽ giúp cậu chạy thả ga, Oscar ơi!” Lenz nói với sang.
Braumuller đã định trả lời bốp chát theo kiểu con nhà lính, nhưng nín ngang khi anh nhìn thấy Patricia Hollmann đang đứng với chúng tôi; anh lấy tay che mắt giả như nhìn qua viễn vọng kính, cười cười với chúng tôi và bỏ đi một nước.
“Chiến thắng càng vinh quang hơn,” Lenz nói, thỏa mãn.
Bánh xe nghiến rào rạo đường đua. Koster phải chuẩn bị xe. Karl dự thi hạng thể thao.
“Tụi mình không thể giúp cậu nhiều đâu, Otto,” tôi nói, nhìn những thiết bị đang có.
Anh phẩy tay. “Sẽ không cần thiết. Nếu Karl hỏng máy, nguyên một ga ra sửa xe cũng chẳng ích gì.”
“Chúng ta có nên phất cờ, để cậu biết vị trí của cậu không?”
Koster lắc đầu. “Khởi hành tập thể mà. Ở đấy, tớ sẽ liệu chừng. Ngoài ra, Jupp biết rõ nó làm gì.”
Jupp hăm hở gật đầu. Người run lên vì kích động, thằng bé ngốn sô cô la không ngừng. Nhưng đấy chỉ tạm thời thôi. Khi khởi động, thằng bé sẽ bình tỉnh lại như một con rùa đấy thôi.
“Nào, chúng ta bắt đầu, được ăn cả ngã về không nhé!”
Chúng tôi đẩy Karl ra. “Chớ có đứng sững lúc khởi hành, ranh con ạ,” Lenz nói, ve vuốt bộ tản nhiệt. “Đừng làm cho ông già tía của mi phải thất vọng, Karl nhé.”
Karl phóng vù đi. Chúng tôi nhìn theo.
“Vừa xem đẫy mắt cái món kỳ khôi ấy,” thình lình một giọng nói sau lưng chúng tôi cất lên. “Trời ạ, phía sau của nó trông như mông đà điểu!”
Lenz đứng thẳng người. “Anh nói tới cái xe màu trắng, phải không?” Mặt đỏ bừng, nhưng anh vẫn bình tỉnh.
“Vâng, đúng thế,” người thợ máy cao to ở trạm bảo trì kế bên thản nhiên quay đầu lại, vừa trả lời vừa chuyền một chai bia cho bạn hắn. Lenz lắp bắp trong giận dữ, và chuẩn bị trèo qua bức ngăn thấp. May là anh chưa thóa mạ một câu nào. Tôi nắm anh lại. “Kệ tía cái thằng thối rữa ấy,” tôi chửi thề, “chúng ta cần có cậu. Cậu muốn đi nhà thương trước khi trận đua bắt đầu à?” Ù lì giằng co như một con la, anh cố lách khỏi tay tôi. Anh không cho phép ai được lăng nhục Karl.
“Xem này,” tôi nói với Patricia Hollmann, “đây là con dê gàn dở tự cho mình là người lãng mạn cuối cùng. Cô có tin không, có lần anh ấy đã đề một bài thơ tặng chị Hằng?”
Có ảnh hưởng lập tức. Đấy là vết thương nhức nhối của Gottfried.
“Chuyện đã lâu lắm rồi, trước chiến tranh,” anh tự bào chữa. “Ngoài ra, bé con, không phải là một tội ác nếu ta điên lên trong trận đua xe. Có phải thế không, Pat?”
“Điên mê không bao giờ là một tội ác.”
Gottfried giơ tay chào. “Một câu nói cao quý.”
Tiếng động cơ xe như sấm, nhận chìm tất cả. Không khí rúng động. Đất và trời rung chuyển. Bầy xe vun vút lao ngang.
“Đang áp chót,” Lenz gầm lên. “Con lợn ỉ lại ngúng nguẫy lúc khởi hành.”
“Không sao,” tôi nói. “Khởi động là khuyết điểm của Karl. Nó có thể chậm chạp lúc khởi hành, nhưng không bao giờ ngừng lại.” và khi tất cả những xôn xao lắng xuống, loa phóng thanh bắt đầu rầm rì. Chúng tôi không thể tin ở tai mình. Burger, một địch thủ nguy hiểm, chơ vơ đứng lại ở vệt khởi hành.
Đoàn xe gầm gừ quay lại. Từ xa chúng ríu rít như bầy châu chấu trên vòng đua, lớn dần và kè sát nhau trên làn đối diện, vụt qua khán đài trung ương rồi biến vào khúc quanh lớn. Vẫn sáu chiếc xe, và Koster vẫn áp chóp. Chúng tôi đã sẳn sàng. Tiếng dội và tiếng dội trở lại từ khúc quanh vọng về, giành nhau cường độ lớn nhỏ. Rồi đoàn xe vọt tới. Xe Số Một dẫn đầu khá xa, rồi xe thứ nhì và thứ ba gần với nhau, và Koster. Anh đã qua mặt chiếc xe khác ở khúc quanh và bây giờ chiếm hạng tư.
Mặt trời ló khỏi mây. Những dãi băng rộng, sáng và xám đổ trên đường đua đột nhiên lốm đốm như da cọp. Bóng mây lướt trên biển người ở khán đài. Bão tố của động cơ xe thấm nhập vào máu như một loại âm nhạc quái dị. Lenz bồn chồn đi tới đi lui, tôi nhai nát điếu thuốc lá, và Patricia Hollmann ngước mặt ngửi không khí như một con ngựa non mỗi sáng. Chỉ có Valentin và Grau ngồi im, măc cho vầng thái dương rọi nắng lên người.
Một lần nữa nhịp tim mênh mông của máy nổ lại trở về, vút qua khán đài chánh. Chúng tôi chú mục nhìn Koster. Anh lắc đầu. Anh không muốn thay lốp xe. Lần này anh đã tăng tốc độ lên một ít. Anh bám sát bánh xe đen của chiếc Hạng Ba. Và cứ thế, họ phóng vun vút trên đường thẳng không cùng.
“Mẹ kiếp!” Lenz nghiêng chai, nốc một ngụm.
“Anh ấy đã tập luyện kỹ,” tôi nói với Patricia Hollmann. “Qua mặt ở khúc quanh là sở trường của anh ấy.”
“Rượu đây, Pat có muốn hớp một ít không?” Lenz hỏi.
Tôi nhìn anh, bất mãn. Anh trố mắt nhìn lại.
“Em thích uống trong ly hơn,” nàng nói. “Em chưa biết cách uống từ chai.”
“Cô thấy chưa,” Lenz với tay, lấy một cái ly. “Đấy là chỗ yếu kém của nền giáo dục hiện đại.”
Ở vòng kế, đoàn xe tách rời ra hơn. Braumuller dẫn trước. Bốn chiếc đầu bỏ xa ba trăm mét. Xe Koster phóng song song với chiếc Thứ Ba rồi biến mất đàng sau dãy khán đài. Rồi đoàn xe lại rần rộ quay về. Chúng tôi nhảy dựng lên. Xe Thứ Ba đâu rồi? Sau hai chiếc xe đầu, Otto một mình vụt tới. Đây rồi — cuối cùng thì Xe Thứ Ba cũng loạng choạng chạy đến: hai bánh sau của nó bị nổ lốp. Lenz mĩm cười ranh mảnh — nó dừng lại trước trạm bảo trì bên cạnh. Gã thợ máy hộ pháp chửi thề. Một phút sau, nó lại lướt vèo trên đường.
Vòng kế tiếp, thứ tự không thay đổi. Lenz để đồng hồ bấm giờ sang một bên và tính toán.
“Karl vẫn còn tiềm năng,” anh tuyên bố.
“Tớ e rằng, các xe kia cũng thế,” tôi nói.
“Đồ vô thần!” Anh lừ mắt, muốn nghiến nát tôi.
Một lần nữa ở vòng áp chót, Koster vẫn lắc đầu. Anh liều lĩnh không chịu thay lốp xe. Chúng chưa nóng đến mức không giữ được.
Như một quái vật trong suốt thủy tinh, sự căng thẳng úp chụp trên sân đua và khán đài khi đoàn xe bắt đầu vòng đua cuối.
“Tất cả hãy sờ vào gỗ,” tôi nói, nắm cứng cán búa. Lenz ôm chặt đầu tôi. Tôi đẩy anh ra. “Ach, vậy sao, xin lỗi nhen; dĩ nhiên đầu cậu chỉ chứa rơm thôi,” anh giải thích, rồi nắm vào rào chắn.
Khi máy xe quay số vòng tối đa, tiếng rì rầm biến thành gầm rú, gầm rú biến thành hú rít, hú rít biến thành sấm động, rồi thành tiếng hát the thé ở âm vực cao. Braumuller phóng vút sát bìa đường đua; chiếc thứ nhì theo đuôi. Phà khói mù mịt và bánh sau cày xuống mặt đường, xe thứ nhì lấn vào trong, sâu hơn; người lái rõ ràng muốn qua mặt xe thứ nhất ở khúc quanh.
“Sai lầm!” Lenz kêu to. Koster đã lao theo họ, máy nổ vù vù, xe của anh bay tít mút rìa đường đua; trong một giây, chúng tôi cứng đờ, — dường như anh sắp bay bổng lên không, — và rồi máy xe gầm rú và xe phóng vèo tới trước.
“Cậu ấy đạp lút ga!” tôi hét to.
Lenz gật đầu. “Điên.”
Trong cơn sốt kích động, chúng tôi chồm qua rào chắn để có thể nhìn thấy anh thành công hay không. Tôi nhấc Patricia Hollmann lên, đặt nàng trên cái thùng đựng dụng cụ. “Đứng đây em sẽ nhìn rõ hơn. Dựa vào vai anh. Anh ấy sẽ qua mặt gã nọ, ở khúc quanh, em thấy chưa.”
“Anh ấy sắp bắt kịp!” nàng nói. “Anh ấy qua mặt được rồi.”
“Cậu ấy sẽ đuổi theo Braumuller. Himmelbergott, beiliger Moses!” Lenz lại kêu to. “Cậu ấy qua mặt cái xe thứ nhì rồi và đang bám Braumuller.”
Trong lốc xoáy của cơn giông, ba chiếc xe lướt ra, lên cao; chúng tôi hò hét như điên, Valentin cũng thế; và giọng nói trầm hùng của Grau cũng tham gia — Cơn điên của Koster đã chiến thắng, anh đã qua mặt Xe Số Hai, nó hoang phí năng lực và đánh mất tốc độ ở đường cong bên trong tròn gắt hơn; và giờ đây như một con diều hâu, anh đang rình chụp Braumuller — thình lình hiện nay chỉ còn dẫn trước hai mươi mét và động cơ xe đang sụt sịt.
“Tới luôn Otto! Tới luôn! Nuốt sống thằng Nutcracker!” chúng tôi la hét và vẫy tay.
Đoàn xe biến mất ở khúc quanh cuối cùng. Lenz lớn tiếng cầu nguyện tất cả những đấng thần linh Châu Á và Nam Mỹ và phe phẩy tượng bùa của anh. Patricia Hollman tựa vào vai tôi, chăm chú nhìn ra xa, như một bức tượng tạc ở mũi chiến thuyền buồm thời cổ.
Họ vòng trở lại. Động cơ xe của Braumuller vẫn còn khục khặc; mỗi giây phút như thế lại càng bất lợi cho anh. Tôi nhắm tịt mắt. Lenz đưa lưng ra đường đua — chúng tôi muốn thử thách số mệnh.
Một tiêng kêu to khiến chúng tôi quay lại, vừa đúng lúc nhìn thấy Koster cán qua mức đến, cách xe sau hai mét.
Lenz phát cuồng. Anh vứt các dụng cụ sửa xe xuống đất và trồng chuối trên mấy cái lốp xe.
“Hồi nãy anh nói gì thế? ” khi đứng dậy bình thường, anh hùng hổ hỏi gã thợ máy cao to như Hercules ở trạm kế. “Một cái máy kỳ lạ?”
“Ach, ông nội, đừng quang quác nữa.” gã thợ máy cáu kỉnh trả lời. Và, lần đầu tiên kể từ khi quen biết, tôi thấy chàng lãng mạn cuối cùng không nổi giận khi bị lăng nhục, mà lại ôm bụng cười, co giật múa máy như bị phong xù.
Chúng tôi chờ Otto. Anh còn bận bịu với ban tổ chức.
Thình lình từ sau lưng chúng tôi, một giọng khàn đục gọi, “Grottfried,”
Chúng tôi quay lại. Một con người cao lớn đồ sộ như núi, đứng đấy trong bộ đồ chật ních — quần kẻ sọc, áo vét xám –và mũ quả dưa đen.
“Alfons!” Patricia Hollmann reo lên.
“Chính tôi,” anh nói.
“Chúng ta về nhất, Alfons ạ!” nàng kêu.
“Có thế chứ. Vậy là tôi đã đến trễ, phải không?”
“Anh chẳng bao giờ đến trễ, Alfons,” Lenz nói.
“Sự thật, tôi đến cốt để đem một ít thức ăn cho các bạn. Sườn heo chiên ăn lạnh và cốt lết muối. Cắt sẳn.”
“Đưa cho em, mời anh ngồi, anh quý mến,” Gottfried kêu to. “Chúng em sẽ ăn ngay tức thì..”
Anh mở bọc thức ăn. “Trời ơi,” Patricia Hollman nói, “đủ cho cả một trung đoàn.”
“Không chắc, chừng nào ăn xong mới biết,” Alfons quan sát. “Còn một ít rượu kummel nữa.”
Anh chìa ra hai chai rượu mùi. “Khui sẳn.”
“Thế mới phải, thế mới phải,” cô gái nói. Alfons hiền hậu nháy mắt với cô.
Karl nức nở từ xa chạy đến. Koster và Jupp nhảy ra. Jupp trông như Napoleon thời trẻ, vành tai tươi nhuận hồng hào. Thằng bé ôm một chiếc cúp bạc khổng lồ, thô kệch, xấu xí. “Trong cuộc đua thứ sáu,”Koster cười to và nói, “Chưa bao giờ có một món ngoại hạng nào khác.”
“Chỉ có bình đựng sữa này ư?” Alfons, rất thực tế, hỏi. “Không có tiền thưởng?”
“Có chứ, ” Otto đoan chắc với anh, “có cả tiền mặt.”
“Vậy coi như chúng ta sắp được tiêu xài thoải mái,” Grau nói. “Coi như đêm sẽ rất vui.”
“Ở quán ăn của tôi?” Alfons hỏi.
“Đương nhiên — nhất định phải là thế,” Lenz trả lời.
“Súp đậu hòa lan, tim gan, giò lợn, tai heo” Alfons kể, và ngay cả Patricia Hollman cũng tỏ vẻ nể nang ra mặt. “Dĩ nhiên, tôi thết đãi.” Alfons nói.
Braumuller lại gần, nguyền rủa vận xui của mình, tay cầm một nắm bu-gi lem luốt dầu nhớt.
“Bình tĩnh nào, Oscar,” Lenz nói. “Giải nhất cuộc đua xe đẩy em bé lần tới chắc chắn sẽ thuộc về cậu.”
“Thế cậu có để tôi rửa hận bằng cognac không?” Braumuller hỏi.
“Bằng ly đựng bia, nếu cậu muốn,” Grau nói.
“Đừng mong sẽ thắng, Herr Braumuller,” Alfons nói. “Tôi chưa bao giờ thấy Koster say bí tỉ.”
“Tôi cũng chưa bao giờ thấy Karl trước mặt tôi,” Braumuller mỉa mai, “ngoại trừ hôm nay.”
“Có thua cũng phải giữ tư cách chứ,” Grau nói.”Đây, mời cậu. Chúng ta cạn ly, ghi nhận sự toàn thắng của cơ khí đối với văn hóa.”
Khi chia tay, chúng tôi định đem về phần thức ăn dư. Vẫn đủ cho vài người. Nhưng chỉ còn bao giấy trống rỗng.
“Zum Donnerwetter –” Lenz nói. “À há!” Anh chỉ vào Jupp đang cười ngượng ngập, tay hãy còn cầm một mớ thức ăn và bụng phình to như trống. “Lại thêm một kỷ lục.”
Trong bửa ăn tối ở nhà hàng Alfons’, Pat được ái mộ đến mức tôi không mấy vui. Một lần nữa, tôi bắt gặp quả tang Grau đang nài xin được vẽ tranh cho nàng. Nàng cười, nói rằng nàng không có nhiều thì giờ để ngồi mẫu; chụp ảnh có lẽ sẽ tiện hơn.
“Và như thế càng phù hợp với kỷ năng của anh ấy,” tôi thân ái nói. “Có lẽ anh ấy sẽ dùng ảnh để họa nên tranh.”
“Bình tỉnh đi nào, Bob,” Ferdinand ung dung trả lời, đôi mắt trẻ thơ, xanh lơ, mênh mông của anh đăm đăm nhìn Pat. “Rượu mạnh làm cho cậu bẳn tính — còn tôi, thì nhân bản hơn. Đấy là sự khác biệt giữa hai thế hệ chúng ta.”
“Anh ấy hơn anh có mười tuổi chứ mấy,” tôi xen vào.
“Như thế hiện giờ đã coi như là một thế hệ,” Ferdinand nói tiếp. “Cả một đời cách biệt. Một ngàn năm khác nhau. Các cậu trẻ con biết gì về hiện hữu? Các cậu e sợ cảm giác của chính mình. Các cậu không viết thư — các cậu gọi điện thoại; các cậu không ước mơ — các cậu đi dã ngoại cuối tuần; các cậu lý luận trong tình yêu và điên rồ trong chính trị — một cuộc đua đáng thương.”
Tôi nghe bằng một tai; tai kia, tôi cố lắng nghe những gì Braumuller nói. Đã ngà ngà say, hắn giải thích với Patricia Hollmannn rằng chỉ cần nàng bằng lòng học lái xe với hắn, hắn sẽ chỉ dẫn tất cả mọi mánh khóe.
Khi có dịp, tôi lập tức kéo hắn sang một bên. “Không tốt cho sức khỏe đâu, Oscar, khi một thể tháo gia quan tâm quá đáng đến phụ nữ.”
“Chẳng ăn thua gì tớ,” Braumuller tuyên bố, “tớ có một thể chất tuyệt hảo.”
“Được lắm. Trong trường hợp ấy, tớ nói cho cậu biết một điều, bảo đảm không có lợi cho sức khỏe của cậu — một cái chai rượu sẽ xáng lên đầu cậu.”
Hắn nhăn nhở cười. “Tra gươm vào vỏ đi, nhóc con. Thế cậu có biết làm cách nào nhận ra một hiệp sĩ? Chàng luôn luôn phong lưu rất mực, ngay cả khi say sưa. Và cậu nghĩ tớ là ai, thế hả?”
“Một tên khoe khoang khoác lác,” tôi trả lời và bỏ đi, mặt kệ hắn đứng thộn ở đấy.
Tôi không e ngại một ai trong bọn có ý định làm gì — không hề có chuyện ấy giữa chúng tôi. Nhưng tôi không chắc lắm với nàng — nàng có thể nghĩ rằng, một trong những người ấy xứng hợp với nàng hơn. Chúng tôi chưa hiểu về nhau đủ để tôi có thể biết chắc. Dù sao, có ai chắc chắn được điều gì?
“Chúng ta có nên lẽn đi chỗ khác không?” tôi hỏi nàng.
Nàng gật đầu.
Chúng tôi tản bộ trên đường. Không khí dần dần ẩm ướt. Sương mù, xanh lục và bạc, chầm chậm giăng cao trong thành phố. Tôi cầm tay nàng, ủ bên trong túi áo choàng của tôi. Và cứ thế, chúng tôi đi bên nhau rất lâu.
“Mệt chưa?” tôi hỏi.
Nàng lắc đầu và mỉm cười.
Tôi chỉ vào quán cà phê vừa qua. “Em có muốn ghé vào tiệm nào không?”
“Không. Chưa cần đâu.”
Chúng tôi lại tiếp tục. Và rồi chúng tôi đi đến nghĩa trang. Lá lay xào xạc, không còn nhìn thấy những ngọn cây nữa. Khi sương mù tiếp tục dầy đặc, đèn ở hội chợ bắt đầu bật sáng. Từ những cây đoan, bầy thiêu thân chuyếch choáng bay ra rồi vần vũ lao vào, đập lên những chụp đèn đường ẩm ướt. Sương mù biến đổi tất cả, nâng lên và đưa xa, khách sạn đối diện đã bềnh bồng như một con tàu xuyên đại dương với những căn phòng sáng đèn soi trên mặt gương nhựa đường đen, bóng tối xám của ngôi giáo đường phía sau trở thành một chiếc thuyền ma với những cột buồm cao, mất hút trong ánh đèn đỏ -xám; và những ngôi nhà, giờ đây như một dãy xà lan, dật dờ và bắt đầu chuyển động.
Chúng tôi ngồi bên nhau trong im lặng. Sương mù làm cho mọi thứ trở thành hư ảo –ngay cả chúng tôi. Tôi nhìn cô gái —đèn đường lấp lánh trong đôi mắt mở to của nàng. “Nhích lại,” tôi nói, “nhích gần anh — kẽo sương mù cuốn mất em.”
Nàng quay mặt lại tôi. Nàng đang mỉm cười, môi hé mở; hàng răng bóng, đôi mắt to nhìn về tôi; tuy thế tôi cảm thấy nàng không nhìn tôi một mảy may — như thể nàng đang mỉm cười với, qua khỏi tôi, phía sau tôi, luồng sương xám bạc, như thể nàng đã bị tác động một cách ma mị bởi cơn gió lùa trên đầu những ngọn cây, bởi sương móc rỉ rả lăn trên thân cây; như thể nàng lắng nghe một tiếng gọi mơ hồ, buồn bã ẩn mình sau đám cây, sau thế giới; như thể nàng cần phải đứng lên và bỏ đi lập tức, qua màn sương, vất vưởng nhưng chắc chắn, đi theo nó, theo tiếng gọi bí ẩn, huyền hoặc của trái đất và của cuộc đời.
Tôi sẽ không bao giờ quên gương mặt ấy — không bao giờ quên gương mặt nghiêng nghiêng của nàng, trên đó cảm xúc được tỏ bày, lòng âu yếm và thương cảm lặng lẽ dâng đầy, với sự im lặng sáng láng, như thể nở hoa — sẽ không bao giờ tôi quên đôi môi nàng ghé vào môi tôi, đôi mắt nàng đến gần mắt tôi, chúng ngay sát trước tôi và nhìn tôi, dò hỏi, trang nghiêm, vời vợi, long lanh — rồi chậm rải khép lại như quy hàng…
Sương vẫn trôi chơi vơi. Thánh giá ở các mộ bia nhô xanh xao trên đầu ngọn mù sương, tôi trùm áo choàng ấp ủ cho hai đứa tôi. Thành phố hoàn toàn đắm chìm. Thời gian đã chết.
Chúng tôi ngồi như thế rất lâu. Dần dần gió thổi mạnh hơn và những bóng đen chập chờn trong không gian xám trước mặt. Tôi nghe tiếng chân lao xao và tiếng thì thầm giữa những bước chân. Rồi tiếng Tây Ban Cầm nghèn nghẹn. Tôi ngẩng đầu lên. Những bóng đen tiến gần, hóa ra dáng người, quây thành một vòng tròn. Im như tờ. Rồi tiếng hát thình lình vang lên: “Jesus tìm ngươi –“
Tôi ngồi thẳng lên và lắng nghe. Cái gì thế? Chúng tôi đang ở đâu? Trên cung trăng? Đấy là một ban hợp ca, trời đất! — một ban hợp ca giọng nữ hai bè.
“Kẻ tội đồ, kẻ tội đồ, hãy đứng lên!” âm thanh vang dội khắp nghĩa trang thành nhịp quân hành.
Tôi chằm chặp nhìn Pat. “Em có biết chuyện gì không?” tôi hỏi.
“Hãy đến chốn bao dung –” bài hát tiếp tục với nhịp điệu nhanh.
Thình lình tôi hiểu ra. “Lieber Gott! Đạo Quân Cứu Rỗi!”
“Chớ để cho tội lỗi tràn lan –” những bóng đen thúc dục, âm thanh dồn dập lên cao.
Ánh sáng chập chờn trong đôi mắt nâu của Pat. Môi nàng run giật, đôi vai so lên.
Không thể cưỡng lại, bài hát chuyển sang hùng tráng —
Địa ngục rực lửa và nỗi đau bỏng cháy
là phần thưởng của tội lỗi;
Jesus gọi: — trước khi quá trễ
kẻ hoang đàng, đến đây sám hối.
“Nín đi, trời ơi,” thình lình một giọng nói phẫn nộ trong sương mù hét lên.
Một thoáng im lặng vì bất ngờ. Nhưng Đạo Quân Cứu Rỗi đã quen với những thứ rắc rối. Ban hợp xướng lại bắt đầu hát với một sức mạnh mới.
“Người sẽ làm gì trong thế giới đơn côi –” ban nhạc đồng lọat ca.
“Ôm ấp nhau chứ còn gì nữa,” tiếng nói giận dữ lại oang oang; “Ngay cả nơi đây cũng không được yên thân sao?”
“nơi quỷ kế của Satan sẽ quyến rũ —” một giọng lanh lảnh bất thần đáp lại.
“Đàng ấy có ngon thì quyến rũ đây xem,” từ trong sương mù, ai đó tức thì đáp lại.
Tôi phá lên cười. Và Pat cũng không nhịn nỗi. Chúng tôi cười rũ rượi vì cuộc song đấu trong nghĩa trang này. Đạo Quân Cứu Rỗi biết rằng băng ghế nơi đây là chỗ an trú cho những cặp tình nhân cần sự tỉnh mịch không tìm đâu ra trong thành phố ồn ào. Do đó họ quyết tâm hạ đòn thuyết giảng. Họ hành quân mỗi Chúa Nhật để cứu vớt những linh hồn. Ngoan đạo, cuồng tín và to họng, những giọng hát không chuyên the thé truyền giảng niềm tin của họ, trong lúc tiếng Tây Ban Cầm bập bùng, wumba-wumba.
Nghĩa trang trở nên sinh động. Tiếng cười khúc khích và tiếng hét hò vang lên trong sương mù. Dường như mỗi băng ghế đều có người ngồi. Cuộc nổi loạn đơn độc của tình yêu đã nhận được hậu thuẩn vô hình của những người đàn ông cùng một suy nghĩ khắp nơi. Một ban hợp ca đối lập được dựng nên. Trong số đó, hẳn phải có một cựu chiến binh yêu thích nhạc quân hành — bởi chẳng mấy lúc đã vang lên từ những buồng phổi khỏe mạnh bài ca bất tử: “Tôi đã đến Hamburg và ngắm nhìn thế giới đẹp tươi.”
“Đừng giữ nguyên tấm lòng cứng rắn..,” từ ban hợp xướng khổ hạnh, một lần nữa tiếng hát nheo nhéo lại vang lên, vì Đạo Quân Cứu Rỗi với những chiếc mũ to, vành kẹp cong đang cảnh giác cao độ.
Nhưng cái ác đã thắng. “Em sẽ không cho biết tên, ” — mười mấy cái khí quản cường tráng ngân nga một bài đối nghịch, — “vì em là cô gái ăn sương…”
“Anh nghĩ mình nên ra về thì hơn,” tôi nói với Pat. “Anh biết bài ấy. Lời dài lắm, và mỗi câu về sau lại càng nhảm nhí hơn câu trước. Đi thôi em”
Thành phố lại có mặt với âm thanh huyên náo — tiếng còi xe, tiếng bánh xe lăn trên đường. Nhưng nó vẫn giữ được vẻ duyên dáng. Sương mù biến xe buýt thành những con thú trong thần thoại, xe hơi thành những chú mèo hoang mắt sáng, và cửa sổ trưng bày hàng hóa thành hang động vui mắt của thần đèn Aladdin.
Chúng tôi xuống phố, vòng quanh nghĩa trang, xuyên qua khu công viên giải trí. Những vòng đu quay vươn lên cao trong trời sương mù như những tháp nhạc xoay tròn, bánh xe của quỷ phun ra sắc tím, sắc vàng và những chuỗi cười, và mê cung óng ả ánh lửa xanh.
“Mê cung thiêng liêng!” tôi nói.
“Tại sao?” Pat hỏi.
“Có một lần chúng ta đã vào đấy.”
Nàng gật đầu.
“Anh có cảm tưởng đã lâu vô tận.”
“Vậy bây giờ ta nên trở lại hay không?”
“Không,” tôi nói. “đừng đi nữa. Em có muốn uống gì không?”
Nàng lắc đầu. Trông nàng thật đáng yêu. Sương mù như một thứ nước hoa dịu nhẹ, càng làm nàng thêm xinh đẹp.
“Em không mệt à?” tôi hỏi.
“Không, em chưa mệt.”
Chúng tôi đi qua các quán thẩy vòng. Những ngọn đèn khí đá với ánh sáng sáng trắng, lập lòe treo đàng trước. Pat nhìn tôi. “Không,” tôi nói, “hôm nay anh không thảy vòng. Không thảy cái nào hết. Cho dù có thắng nguyên hầm rượu mạnh của Alexander Đại Đế.”
Chúng tôi tiếp tục đi, băng qua quảng trường và công viên thành phố. “Hẳn có Daphne Indica đâu đây,” Pat nói.
“Vâng, ta có thể ngửi được hương thơm của nó bay qua sân cỏ. Không còn ngờ nữa. Em có nghĩ vậy không?”
Nàng nhìn tôi. “Chắc chắn là thế,” nàng nói.
“Có lẽ đang mùa hoa nở. Khắp thành phố, đâu đâu cũng nghe hương của thứ hoa này.”
Tôi nhìn quanh, tìm một băng ghế trống. Nhưng không biết vì Daphne Indica hay vì hôm nay là Chúa Nhật, hay vì chính chúng tôi, tôi không thấy một cái ghế trống nào. Đâu đâu cũng có người. Tôi nhìn đồng hồ tay. Hơn mười hai giờ.
“Nào,” tôi nói, “về nhà anh — nơi ấy sẽ có một mình chúng ta.”
Nàng không trả lời, nhưng chúng tôi trở về. Ở nghĩa trang, chúng tôi thấy một chuyện bất ngờ. Đạo Quân Cứu Rỗi đã gọi viện binh. Ban hợp ca giờ đây xếp hàng tư: không phải chỉ có các bà, mà còn có hai hàng sư huynh mặc đồng phục hẳn hòi. Tiếng hát không chỉ hai bè và the thé, mà bốn bè, như tiếng phong cầm. Theo điệu luân vũ, “Jerusalem thánh địa vàng” vang dội trầm hùng giữa các mộ bia.
Bên đối phương im phăng phắc. Họ đã bị càn quét tan tành. “Kiên trì,” như ngài hiệu trưởng cũ của tôi thường nói, “kiên trì và cần mẫn còn tốt hơn cả thiên tài và phóng dật.”
Tôi đóng cửa. Suy nghĩ một lúc, tôi lại bật đèn. Hành lang như một cái ống dài hun hút, vàng vọt và xấu xí.
“Nhắm mắt lại đi em,” tôi khẽ nói với Pat. “Đây là cảnh tượng chỉ dành cho những bộ thần kinh vững vàng.” Tôi bế nàng trong tay, và bước bình thường, như thể chỉ có một mình tôi, chậm rãi qua những hòm xiểng và bếp ga, về phòng mình.
“Kinh khủng quá, hở em?” tôi ngượng ngùng nói, nhìn biển nhung mềm trãi dài chào đón. Không còn ghế bành gấm, thảm, và đèn của Hasse.
“Có gì kinh khủng đâu,” Pat nói.
“Có mà,” tôi trả lời, đi đến cửa sổ. “Nhưng ít ra quang cảnh cũng đẹp mắt. Chúng ta kéo ghế bành đến gần cửa sổ nhé.”
Pat đi quanh phòng. “Không tệ lắm đâu. Tuyệt nhất, là phòng rất ấm.”
“Em lạnh ư?”
“Em thích ấm,” nàng nói. “Em không chịu được trời lạnh và mưa.”
“Trời ơi — thế mà chúng ta ngồi ngoài đường dưới sương mù cả đêm –“
“Nhưng như thế lại càng quý hơn khi được ngồi đây.”
Nàng vươn vai, và một lần nữa với dáng đi tuyệt đẹp, dạo một vòng quanh phòng. Tôi hổ thẹn, quan sát thật nhanh — lạy trời, không đến nỗi bừa bãi cho lắm. Tôi nhanh trí đá hậu đôi giày đi trong nhà đã hỏng, vào gậm giường.
Pat đứng trước tủ quần áo, nhìn lên. Trên nóc tủ có một cái va -li cũ Lenz đã cho tôi. Va-li dán đầy nhãn hiệu màu sắc từ những chuyến du lịch của anh. “Rio de Janeiro,” nàng đọc; Manaos — Santiago, Buenos Aires -Las Palmas –“
Nàng đẩy cái va -li vào chỗ cũ và đến gần tôi. “Anh đã đi tất cả các nơi ấy?”
Tôi ấp úng một điều gì đó. Nàng nắm tay tôi.
“Ôi, anh kể cho em nghe với, về tất cả các thành phố ấy, phải tuyệt vời lắm, được du lịch xa đến thế –“
Và tôi? Trước mặt tôi là nàng, đẹp, trẻ, mong chờ, một cánh bướm tình cờ lạc vào căn phòng tồi tàn xơ xác của tôi, vào cuộc đời vô nghĩa tầm thường của tôi, với tôi và tuy thế chưa hẳn đã với tôi –chỉ một hơi thở cũng có thể làm nó tỉnh dậy và vỗ cánh bay đi… Cứ đổ lỗi, cứ kết tội tôi, nhưng tôi không thể, tôi không thể nào nói Không, không thể nào nói rằng tôi chưa bào giờ đến đấy; chưa kịp đến…
Chúng tôi đứng bên cửa sổ, sương mù ép lại và vỡ thành từng đợt sóng vỗ vào ô kính — và tôi cảm thấy ẩn nấp đàng sau đó những bí mật, những thứ bị lấp liếm, những thứ đã qua, những ngày kinh hoàng ẩm ướt, những hoang phế điêu tàn, những nhơ nhớp bẩn thỉu, những mảnh vụn của cuộc đời bị hủy hoại, những phức tạp, những lãng phí sức mạnh do hướng dẫn sai lầm trong một cuộc sống vô mục đích; nhưng ở đây, trước mặt tôi trong bóng tối, gần bên tôi đến mức choáng váng, là hơi thở nhẹ nhàng, là sự hiện diện không thể nào hiểu — một sinh vật ấm áp, trong sáng — tôi phải giữ lấy, tôi phải chiếm được.
“Rio — ” tôi nói. “Rio de Janeiro — một hải cảng như trong truyện thần tiên. Biển lấn cong bẩy chỗ chung quanh vịnh và thủ đô nằm trên cao, trắng và sáng chói…” Tôi bắt đầu nói về những thành phố nóng bức, những cánh đồng vô tận, thủy triều vàng của những trường giang hùng vĩ, những hòn đảo lung linh, những cá sấu, những con đường xâm lấn núi rừng, tiếng gầm của một con báo trong đêm, khi thuyền trên sông trôi êm trong sự thối rữa ngột ngạt, thơm mùi vanilla và phong lan của bóng đêm. Lenz đã kể cho tôi nghe tất cả những chuyện ấy, nhưng giờ đây hầu như chính tôi đã có mặt tại chỗ, thật lạ lùng thay sự pha trộn của ký ức và ước muốn vay mượn một chút quyến rũ cho cuộc đời tầm thường, tăm tối không có gì cả của tôi, để không đánh mất gương mặt đáng yêu khôn tả này, hy vọng đột ngột này, sự nở hoa thần diệu này mà chỉ việc ấy mà thôi, tôi cũng chẳng xứng đáng. Sau này tôi có thể giải thích tất cả, sau này khi tôi có nhiều hơn, khi tất cả mọi thứ đều vững chải hơn — sau này, chứ không phải bây giờ.
“Manaos,” tôi nói. “Buenos Aires…” Và mỗi chữ là một cam kết và một ước thề.
Đêm. Bên ngoài mưa bắt đầu rơi. Những giọt mưa nhẹ nhàng, êm ái. Chúng không vỗ lộp bộp như một tháng trước đây khi chạm vào những cành đoan trơ trụi — chúng đang lắt lay những chiếc lá non mềm; ép vào mặt lá và tí tách rơi theo lá, một lễ hội huyền bí và âm thầm xuôi chảy đến rể cây, nơi đó chúng sẽ lại được đưa lên cao và biến trở thành lá, một lần nữa đợi chờ mưa đến trong những đêm xuân vừa chớm.
Không gian yên tỉnh. Tiếng ồn ào của đường phố đã lặng; ngọn đèn đường duy nhất leo lắt soi trên vĩa hè. Những chiếc lá non, chiếu sáng từ bên dưới, hầu như trắng muốt, hầu như trong veo, và ngọn cây là những cánh buồm sáng, long lanh…
“Lắng nghe tiếng mưa rơi, Pat–“
“Vâng,”
Nàng nằm bên tôi. Mái tóc của nàng nổi bật trên nền gối trắng. Gương mặt nàng trông rất xanh xao dưới màu tóc đen thẩm. Một vai của nàng nhô lên, dưới ánh sáng nào đó, óng ả như đồng chạm, và một vệt sáng dài, hẹp rọi trên cánh tay nàng.
“Nhìn đây –,” nàng nói, và đưa hai bàn tay hứng vệt sáng ấy.
“Anh đoán là đèn đường ngoài kia rọi vào,” tôi nói.
Nàng ngồi lên. Giờ đây, gương mặt nàng cũng được chiếu sáng, ánh sáng rơi trên đôi vai và bộ ngực nàng, vàng, như lửa mồi của những ngọn bấc vuốt sáp, thay đổi, tan chảy, chan hòa với nhau, biến thành sắc cam; những vòng tròn xanh biếc nhảy nhót xuyên qua, và rồi bất ngờ một màu đỏ ấm áp hiện lên phía sau nàng như một vầng hào quang, lướt lên cao và lang thang trên trần.
“Đó là đèn của bảng quảng cáo thuốc lá bên đường,” tôi nói.
“Thấy chưa, phòng của anh rất đẹp,” nàng nói.
“Nó đẹp nhờ có em,” tôi nói. “Nó sẽ không bao giờ trở lại như xưa — bởi em đã hiện diện nơi đây.”
Nàng quỳ trên giường, một vùng ánh sáng xanh tái tưới đẩm cả người. “Nhưng,” nàng nói, “bây giờ em sẽ thường đến đây — thường xuyên.”
Tôi nằm im ngắm nàng. Tôi nhìn thấy mọi việc như đang xảy ra trong một giấc mơ dịu dàng, trong sáng — thư giãn, kiên quyết, an bình và rất hạnh phúc.
“Em như thế đẹp làm sao, Pat. Đẹp hơn trong bất kỳ bộ y phục nào.”
Nàng mỉm cười và cúi xuống. “Hẳn là anh yêu em, Robby. Yêu nhiều lắm. Em rất cần tình yêu. Em không biết em sẽ ra sao, nếu không có tình yêu.”
Nàng nhìn tôi không rời mắt. Mặt nàng kề trên mặt tôi. Phấn khích, thẳng thắn, đầy sức mạnh của đam mê.
“Anh hãy ôm em,” nàng khẽ nói, “Em cần một người giữ em trong tay. Em sợ, nếu không em sẽ ngã.”
“Em không có vẻ gì là sợ hãi,” tôi nói.
“Tuy thế lại có đấy. Em chỉ giả vờ không sợ hãi. Em thường hay sợ hãi.”
“Anh sẽ giữ em, Pat,” tôi nói, vẫn còn trong giấc mơ siêu thực nửa mê nửa tỉnh ấy, giấc mơ trong sáng lững lờ ấy. “Anh sẽ giữ em thật chặt, Pat. Em sẽ ngạc nhiên.”
Nàng ấp mặt tôi trong tay nàng. “Thật ư?”
Tôi gật đầu. Đôi vai nàng sáng lục như màu nước sâu. Với tiếng kêu tức tưởi, nàng quăng mình vào, một ngọn sóng, một ngọn sóng lóng lánh, một ngọn sóng có hơi thở mềm mại, nhẹ nhàng dâng lên và dập tắt tất cả mọi thứ.
Nàng ngủ ngoan trong tay tôi. Tôi thường tỉnh giấc và ngắm nàng. Tôi nghĩ, đêm sẽ không bao giờ tàn. Chúng tôi đã trôi dạt tới một bến bờ nào đó của thời gian. Tất cả đã xảy ra rất nhanh, tôi không thể lý giải. Tôi biết, như một người đàn ông, tôi có thể là một chiến hữu tốt; thế nhưng tôi không thể tưởng tượng, tại sao một người đàn bà lại có thể yêu tôi. Tôi nghĩ có lẽ chuyện ấy chỉ xảy ra đêm nay, và tôi tin rằng khi thức dậy, tất cả sẽ chấm dứt.
Đêm đen chuyển thành xám. Tôi vẫn nằm yên. Cánh tay cho Pat gối đầu đã tê dại. Nhưng tôi vẫn để yên. Chỉ đến khi nàng trở mình và tựa vào gối, tôi mới rút tay ra. Tôi rón rén bước xuống giường, đánh răng trong im lặng và cạo râu. Tôi bôi một ít eau de cologne lên tóc và vai. Thật kỳ dị, không một tiếng động trong căn phòng xám, với những ý nghĩ ấy, và những dáng cây đen sẫm bên ngoài.
Khi quay lại, tôi thấy Pat đã mở mắt nhìn tôi. Tôi dừng chân.
“Đến đây” nàng nói.
Tôi đến bên nàng và ngồi xuống cạnh giường.
“Tất cả vẫn là thực?” tôi hỏi.
“Tại sao anh hỏi thế?” nàng nói.
“Anh không biết. Có lẽ, bởi vì buổi sáng.”
Trời sáng hơn.
“Em cần anh đưa dùm em những thứ của em,” nàng nói.
Tôi nhặt những mảnh lụa mỏng trên sàn. Chúng nhẹ tâng và bé xíu. Tôi ôm chúng trong tay. Ngay cả chuyện này cũng đã khác biệt, tôi nghĩ. Người có thể mặc những thứ này hẳn phải khác biệt. Tôi không bao giờ hiểu nổi, không bao giờ.
Tôi đưa nàng những thứ ấy. Nàng quàng tay qua cổ tôi và hôn tôi. Tôi ôm nàng thật chặt. “Pat,” tôi gọi tên nàng.
Rồi tôi đưa nàng về. Chúng tôi không nói với nhau nhiều nữa. Chúng tôi đi cạnh nhau trong bình minh ánh bạc. Xe chở sữa lọc cọc trên mặt đường trải đá và nhật báo đang phân phối. Ông lão ngủ gục trước căn nhà. Hàm đánh cầm cập như không bao giờ ngưng. Những người cởi xe đạp tíu tít với các giỏ bánh mì. Mùi bánh mì mới nướng, thơm ấm tỏa trên đường phố. Tít trên cao, một chiếc máy bay lướt qua nền trời xanh.
“Hôm nay?” bên ngoài cửa, tôi hỏi Pat.
Nàng mỉm cười.
“Khoảng bẩy giờ?” tôi hỏi.
Nàng không có vẻ mệt mỏi. Nàng tươi mát như vừa có một giấc ngủ tròn đầy. Nàng hôn tôi từ giã. Tôi đứng bên ngoài, chờ đến khi đèn của phòng nàng bật sáng.
Rồi tôi quay về. Trên đường, tôi chợt nghĩ ra nhiều thứ đáng lẽ tôi nên nói với nàng, những lời mỹ miều. Tôi lang thang trên đường, suy nghĩ về tất cả những thứ tôi nên nói và nên làm, nếu như tôi là một người khác. Rồi tôi đi ra chợ. Những chuyến xe ngựa chở đầy rau trái, thịt thà và hoa tươi đã có mặt. Tôi biết với cùng một số tiền, tôi có thể mua được nhiều gấp ba lần hoa ở chợ so với ở tiệm bán hoa. Tôi trút tất cả tiền trong túi, mua tulips. Chúng trông tuyệt vời, tươi thắm với những giọt nước còn đọng trong lòng. Tôi được một bó ôm đầy tay. Bà hàng hoa hứa sẽ giao tận nhà Pat vào khoảng mười một giở. Bà cười tôi trong khi hứa, và thêm một bó to violets.
“Cô ấy sẽ có những người bạn này trong nửa tháng là ít,” bà nói. “Chỉ cần thỉnh thoảng thả một viên aspirin vào nước.”
Tôi trao tiền cho bà. Rồi tôi thong thả đi bộ về nhà.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.