Chuông Nguyện Hồn Ai

Chương 3



Họ bước xuống đoạn đường hai trăm thước sau cùng, dè dặt đi trong mát, từ gốc cây này sang gốc cây khác và khi đi tới những cây thông sau cùng của triền đồi dốc đứng, họ trông thấy chiếc cầu cách năm mươi thước. Nắng chiều còn chói lọi trên dãy núi nâu sẫm chiếu sấp bóng xuống chiếc cầu trông mờ tối nằm sát bên khe núi, đó là một chiếc cầu sắt chỉ có một nhịp duy nhất với một chiếc chòi canh ở mỗi đầu. Cầu khá rộng, hai chiếc xe có thể chạy sóng đôi trên đó. Bằng một vòng cung kiên cố nó bắc qua một khe núi sâu, với một vẻ duyên dáng pha trộn với vẻ chắc chắn. Tuốt ở phía dưới là một dòng suối nước trong chảy róc rách qua những kẽ đá, xuôi về phía thác nước từ trên đèo cao đổ xuống.

Robert Jordan bị chói mắt và chỉ nhìn thấy dạng chiếc cầu. Sau đó ánh sáng mờ dần và lịm tắt, nhìn xuyên qua những bóng cây chạy dài về phía đỉnh núi tròn màu nâu thẫm che kín bóng mặt trời lăn phía sau, Robert Jordan thấy cảnh vật mờ hẳn dưới mắt chàng, triền núi nhuộm màu xanh dịu dàng mới lạ và những dấu tuyết cũ hãy còn in trên đỉnh núi cao.

Chàng bắt đầu xem xét chiếc cầu và nghiên cứu cách cấu tạo của nó trong cơn ngưng đọng bất thình lình của ánh sáng. Chuyện phá hủy cây cầu không khó khăn gì. Vừa nhìn ngắm, chàng rút một cuốn sổ tay từ trong túi và vẽ phác vài bức vẽ rất nhanh vào đó. Chàng không cần tính toán sức nặng của những lượng thuốc nổ. Công tác đó chỉ đến sau này. Giờ thì chàng chỉ cần ghi nhận những điểm sẽ đặt chúng để phá vỡ trục chống đỡ vòng cung của cây cầu và kéo đổ một mảnh vòng cung này xuống khe núi. Kết quả này có thể đạt được một cách thong thả, khoa học và chính xác với sáu thỏi cốt mìn đặt cách nào để chúng tuần tự phát nổ, hoặc một cách dữ dội hơn chỉ cần với hai thỏi lớn. Chúng phải thật lớn, đặt ở hai đầu và phát nổ cùng một lúc. Chàng vẽ rất nhanh với một dáng vẻ hài lòng. Sau cùng chàng lấy làm sung sướng được có một vấn đề để giải quyết, sung sướng được đặt hết sự chú tâm của mình vào đó. Đoạn chàng xếp lại cuốn sổ, đẩy cây bút chì vào chiếc bao da ở cạnh bìa, cho cuốn sổ và túi và gài nút cẩn thận.

Trong lúc đó, Anselmo trông chừng con đường, chiếc cầu và những đồn canh. Lão thấy họ quá gần chiếc cầu để được an toàn và khi bức vẽ đã thực hiện xong, lão thở một hơi dài nhẹ nhõm.

Gài xong nắp túi áo, Robert Jordan nằm sấp xuống đất sau một thân cây thông, đôi mắt vẫn chăm chăm nhìn về phía cầu, Anselmo đặt bàn tay vào khuỷu tay của chàng và giơ ra một ngón tay.

Trong chiếc chòi canh đối diện với họ, cao khỏi mặt đường, tên lính đang ngồi, ghì khẩu súng có gắn lưỡi lê giữa hai đầu gối. Hắn đang hút thuốc, đầu đội một chiếc mũ đen và khoác một chiếc áo choàng bằng vải làm mền. Cách xa năm mươi thước, người ta không thể phân biệt được từng đường từng nét của hắn. Robert Jordan cầm lên chiếc ống dòm, dùng lòng bàn tay che kỹ mặt kính, dù không còn ánh sáng mặt trời để phản chiếu vào đó, và chàng thấy hiện ra dưới mắt cái lan can cầu, trông rõ ràng đến nỗi người ta tưởng có thể đưa tay chạm vào nó, khuôn mặt tên lính canh hiện lên rõ ràng đến nỗi Robert Jordan phân biệt được đôi gò má hóp lại của hắn, đầu điếu thuốc cháy đỏ và lưỡi lê lấp lánh. Người đàn ông có khuôn mặt dân quê, đôi má gầy dưới cặp quyền cao, những chân râu tua tủa, đôi mắt lẩn khuất dưới cặp lông mày dày, hai bàn tay to lớn ghì lấy khẩu súng, đôi giày ống nặng nề vượt khỏi những nếp gấp của chiếc áo choàng. Một bầu rượu cũ kỹ bằng da đã ngả sang màu đen, treo lủng lẳng trên vách chòi canh. Người ta còn nhận ra một vài tờ báo, nhưng không thấy điện thoại đặt nơi đâu. Dĩ nhiên là có thể có một máy điện thoại đặt ở một nơi nào kín đáo, nhưng người ta không trông thấy một đường dây nào chuyền ra ngoài cái chòi. Một đường điện thoại chạy dọc theo con đường và những sợi dây của nó chuyền ngang qua cầu.

Ở cửa vào chòi canh có một cái lò than làm bằng cái bình xăng cũ được cắt ra làm đôi và xoi lỗ. Cái lỗ đặt trên hai cục đá nhưng không đun lửa. Vài chiếc lon đồ hộp rỗng cháy đen nằm trong đám tro than.

Robert Jordan đưa ống dòm cho Anselmo đang nằm dài cạnh chàng. Lão già mỉm cười và lắc đầu. Lão dùng ngón tay gõ gõ lên đầu ở sát bên mắt.

– Ya lo veo – Lão nói – Tôi thấy rồi.

Lão nói bằng chót miệng gần như không động đậy tới môi, lão nói thật nhỏ, nhỏ hơn cả tiếng thì thầm. Lão nhìn tên lính canh trong khi Robert Jordan mỉm cười, đoạn lão đưa ngón trỏ của bàn tay trái ra trước mặt lão và dùng ngón trỏ bàn tay mặt chĩa ngang qua cuống họng lão. Robert Jordan gật nhẹ đầu nhưng chàng không mỉm cười nữa.

Chồi canh ở đầu kia của chiếc cầu nhìn từ phía khác ra con đường đang đổ dốc và người ta không thể nhìn thấy phía trong.

Con đường rộng, tráng nhựa, thực hiện công phu, rẽ sang phía trái ở đầu cầu bên kia mất hút trong một khúc quanh chạy về phía tay phải. Ở đây, nó trải ra và nới rộng con đường cũ bằng một dải đất, khoét vào vách đá kiên cố ở bên kia khe núi. Ở mé trái tức về phía Tây từ đèo và cầu ngó xuống, có một dãy đá tảng chạy dọc theo bờ dốc đứng. Ở vào chỗ con suối có chiếc cầu bắc qua đang chảy vào dòng nước lũ từ đèo đổ xuống, cái khe kia trông giống như một cái hố dài.

Robert Jordan hỏi Anselmo :

– Còn đồn canh kia thì sao?

– Cách năm trăm thước ở phía dưới khúc quanh này. Trong một cái chồi của phu lục lộ cất lên bên sườn núi đá.

– Có bao nhiêu người? – Robert Jordan hỏi.

Chàng lại quan sát tên lính canh xuyên qua ống dòm.

Người đàn ông dụi điếu thuốc lên vách chòi bằng ván, đoạn móc từ trong túi ra một bao thuốc bằng da, xé lớp giấy quấn của mẩu tàn thuốc và trút lượng thuốc còn lại vào bao. Hắn đứng dậy, dựng khẩu súng vào vách và vươn vai đoạn hắn cầm khẩu súng lên, bắt lên vai và đi về phía cầu. Anselmo nằm sát xuống mặt đất, Robert Jordan cho ống dom vào túi áo và lách sau thân cây thông.

Anselmo ghé sát vào tai Robert Jordan :

– Có cả thảy bảy người và một tên cai. Tôi được tên du mục cho biết như vậy.

Robert Jordan nói :

– Mình sẽ đi ngay khi hắn đứng im. Mình ở gần quá.

– Đồng chí đã thấy điều đồng chí muốn thấy chớ?

– Phải, tất cả những gì tôi muốn.

Giờ đây hơi lạnh xuống nhanh khi mặt trời đã lặn và ánh sáng yếu đi trong khi những tia nắng sau cùng tắt lịm trên những rặng núi sau lưng hai người.

– Đồng chí thấy thế nào? – Anselmo khẽ lên tiếng hỏi trong khi cả hai đang nhìn tên lính canh băng qua cầu theo hướng chiếc chòi canh bên kia, lưỡi lê ánh lên trong một tia sáng cuối cùng, bóng dáng không hình thù của hắn phủ trong lớp áo choàng.

Robert Jordan đáp :

– Tốt lắm. Tốt lắm.

Anselmo nói :

– Tôi lấy làm hài lòng lắm rồi. Bây giờ mình đi, không còn sợ hắn trông thấy mình nữa.

Tên lính canh đứng quay lưng lại ở đầu cầu bên kia. Từ khe núi vọng lên tiếng nước dội vào đá. Sau đó, xuyên qua tiếng động này, người ta nghe vọng tới một tiếng rú đều đều và họ trông thấy tên lính canh ngửa mặt nhìn lên trời, chiếc mũ của hắn tuột ra sau gáy, và lúc bấy giờ họ cũng quay đầu nhìn lên không, họ trông thấy ba chiếc phi cơ một tầng cánh đang bay theo hình chữ V trên bầu trời chiều. Những chiếc phi cơ xuất hiện trên những độ cao còn được soi sáng bởi mặt trời, trông như những món đồ chơi bằng bạc xinh xắn, chúng bay thật nhanh qua nền trời theo nhịp động cơ đều đều.

Anselmo hỏi :

– Máy bay của phe ta hả?

– Chắc thế.

Robert Jordan nói, nhưng chàng biết rằng ở độ cao như vậy người ta không phân biệt được gì một cách chính xác. Có thể đó là một chuyến bay thám thính thuộc hàng ngũ bên này hay bên kia. Nhưng người ta luôn nói: những chiếc khu trục đó thuộc phe ta, bởi điều đó làm phấn khởi mọi người. Đối với những loại phóng pháo thì đó là việc khác.

Anselmo san sẻ tình cảm này một cách hiển nhiên. Lão nói :

– Của phe ta. Tôi nhận ra chúng mà. Đó là những chiếc Mosca.

Robert Jordan nói :

– Đúng rồi. Tôi cũng thấy đó là những chiếc Mosca.

– Đó là những chiếc Mosca.

Robert Jordan chỉ cần nhìn chúng với ống dòm của mình để tức thì biết ngay một cách chính xác, nhưng chàng tốt hơn là không cần biết chúng thuộc phe nào, và nếu lão già cần nuôi ảo tưởng thì chàng cũng không muốn tước bỏ chúng ra khỏi lão một chút nào.

Tuy nhiên, giờ đây khi mà họ dời bước đi về hướng Ségovie, chúng không còn giống những chiếc phi cơ có cánh thấp, sơn màu đỏ ở hai đầu, những chiếc Boeing P. 32 của Nga đã được cải tiến mà người Tây Ban Nha gọi là những chiếc Mosca. Người ta không phân biệt được màu sắc, nhưng hình thể thì lại khác. Không. Đó là một chiếc phi cơ thám thính của bọn phát xít vừa bay trở về.

Tên lính canh vẫn đứng quay lưng lại cạnh chiếc chòi canh xa nhất.

Robert Jordan nói :

– Ta đi thôi.

Chàng bắt đầu leo ngược dốc, chàng bước dè dặt dưới những cành lá che phủ, Anselmo theo sau chàng khoảng một trăm thước, khi đã chắc chắn rằng họ đã đi khuất khỏi chiếc cầu. Lão già đã theo kịp chàng và bước lên phía trước đi đều bước tới gần đèo, và trong bóng tối lão đang leo lên một cái dốc đứng.

Lão già nói một cách mãn nguyện :

– Phe ta có một không lực phi thường.

– Đúng vậy.

– Và phe ta sẽ thắng. Phe ta phải thắng mới được.

– Đúng vậy. Và khi phe ta thắng trận rồi, đồng chí phải đi săn mới dược.

– Săn cái gì?

– Heo rừng, gấu, chó sói, nai.

– Đồng chí thích đi săn không?

– Thích ác ôn đi! Thích hơn cả mọi thứ. Trong làng tôi mọi người đều đi săn. Đồng chí không thích đi săn à?

– Không – Robert Jordan nói – Tôi không thích giết loài vật.

– Với tôi thì trái lại, tôi không thích giết loài người.

– Không ai thích vậy, trừ những kẻ có bộ óc hư hỏng. Nhưng tôi không chống lại chút nào khi đó là điều cần thiết. Khi nó bảo vệ chính nghĩa.

– Dù sao, đó lại là chuyện khác – Anselmo nói – Trong nhà tôi – khi tôi còn nhà kia, bây giờ thì không còn nữa – có những nanh heo rừng mà tôi đã giết được trong khu rừng phía dưới. Có những bộ da của những con chó sói mà tôi đã giết được. Tôi săn chúng trong tuyết, vào mùa đông. Một con thật lớn, tôi giết được vào lúc ban đêm, ở gần làng, trên đường về nhà vào một buổi chiều tháng Mười một. Có bốn bộ da chó sói trải trên mặt đất trong nhà tôi. Chúng đã cũ lắm rồi, nhưng đó là những bộ da chó sói. Có cặp sừng con nai mà tôi đã hạ được trong vùng núi Sierra, có một con chim ưng được nhồi rơm do một tay thợ chuyên môn ở Avial, với đôi cánh dang rộng và đôi mắt màu vàng, giống hệt đôi mắt của một con chim ưng còn sống. Đó là một vật trông rất đẹp mắt và tôi khoái nhìn tất cả những thứ đó.

– Đúng vậy.

– Tại cửa nhà thờ ở làng tôi người ta đóng dính, ở phía trên, một cái chân của con gấu mà tôi đã hạ vào mùa xuân. Tôi thấy nó trên một ngọn đồi đang dùng chân lật một thanh cây trong tuyết.

– Bao lâu rồi?

– Sáu năm rồi. Và mỗi lần trông thấy cái chân kia giống như một bàn tay người, nhưng với những cái vuốt dài, khô queo bị đóng xuyên qua lòng bàn chân dính vào cánh cửa nhà thờ, điều đó làm tôi khoái trá.

– Đồng chí hãnh diện với nó?

– Hãnh diện được nhớ lại cuộc gặp gỡ với con gấu trong núi vào đầu xuân năm đó. Nhưng hãnh diện được giết một người vốn là một người như ta thì không có gì tốt hết.

– Người ta không thể đóng dính bày tay của hắn nơi cửa nhà thờ.

– Không. Người ta hẳn không dã man thế đâu, tuy vậy bàn tay một người, nó giống cái chân một con gấu.

– Như ngực một người giống ngực một con gấu. Bóc da con gấu đi, có nhiều điểm tương đồng nơi các bắp thịt.

– Đúng vậy. Dân du mục tin rằng gấu là anh em với loài người.

– Dân da đỏ ở Mỹ châu cũng vậy, và khi họ giết một con gấu, họ tạ lỗi bên cạnh nó và xin nó tha thứ. Họ đặt cái sọ của nó trong một gốc cây và xin lỗi nó trước khi bỏ lại ở đó.

– Dân du mục tin rằng loài gấu là anh em với loài người vì nó cũng có một thân thể sau lớp da của nó, bởi nó biết uống bia, nghe nhạc và thích nhảy múa.

– Dân da đỏ có phải là dân du mục không?

– Không. Nhưng họ có cùng một ý tưởng về loài gấu giống như dân du mục.

– Tôi hiểu rồi, dân du mục cũng tin gấu là anh em, bởi nó ăn cắp để nghịch ngợm.

– Bộ đồng chí có máu du mục à?

– Không, nhưng tôi đã gặp họ rất nhiều, dân du mục, và chắc chắn là nhiều hơn từ khi chiến tranh bộc phát. Bọn họ rất nhiều ở trong núi. Đối với họ, giết người ngoài bộ lạc của mình không phải là một cái tội. Họ không thú thật điều dó, nhưng đúng như vậy.

– Như dân Maures.

– Đúng vậy. Nhưng dân du mục họ có nhiều luật lệ mà họ không nói ra. Trong các trận đánh nhau nhiều người du mục trở lại xấu xa như thời xưa.

– Họ không biết tại sao ta chiến đấu.

– Không – Anselmo nói – Họ chỉ biết rằng có chiến tranh và người ta có thể giết người như thời xưa mà tin chắc không bị trừng phạt.

– Đồng chí đã giết người? – Robert Jordan hỏi trong tình thân mật gây nên từ trong bóng tối và từ một ngày sống chung với nhau.

– Đã. Nhiều lần nhưng không vui thích, với tôi, đó là một tội lỗi khi phải giết một người. Ngay cả bọn phát xít mà người ta phải giết. Với tôi có một sự khác biệt lớn lao giữa một con gấu và con người, và tôi không tin ở sự khoác lác của dân du mục về tình huynh đệ với loài vật, không, tôi chống mọi hình thức giết người.

– Tuy nhiên đồng chí đã giết người.

– Đúng vậy, và tôi còn giết nữa. Nhưng nếu sau đó mà tôi còn sống, tôi sẽ cố sống không làm hại ai, sống bằng cách nào để được tha thứ.

– Bởi ai?

– Biết đâu! Bởi ta không còn Thượng đế ở đây nữa, cũng không còn con của Ngài, cũng không còn Thánh Linh, ai tha thứ đây? Tôi không biết.

– Đồng chí không tin Thượng đế nữa?

– Không. Chắc chăn là không, nếu có Thượng đế, Ngài không đời nào cho phép những điều tôi đã thấy tận mắt tôi. Thượng đế, người ta có thể để Ngài cho bọn họ.

– Họ vẫn đòi hỏi điều đó.

– Chắc chắn là tôi cần Ngài vì tôi là một kẻ được nuôi dưỡng trong tôn giáo. Nhưng bây giờ một người phải trách nhiệm đối với chính mình.

– Vậy thì chính đồng chí sẽ tha thứ cho đồng chí về tội đã giết người.

– Có lẽ. Bởi vì đồng chí đã nói điều đó một cách rõ ràng như vậy, tôi tin rằng điều đó phải đúng. Nhưng mà có hay không có Thượng đế, tôi tin rằng giết người là một cái tội. Tôi sẽ giết khi cần phải giết nhưng tôi không thuộc dòng giống của Pablo.

– Muốn thắng một trận giặc, người ta phải giết kẻ địch. Bao giờ cũng thế.

– Dĩ nhiên! Trong chiến tranh, người ta phải chém giết nhưng tôi lại có những ý nghĩ rất kỳ lạ. – Anselmo nói. Bây giờ thì hai người đang đi gần sát bên nhau trong bóng tối. Anselmo nói rất khẽ, thỉnh thoảng quay đầu lại trong khi vẫn leo dốc – Tôi sẽ không giết ngay cả một ông giám mục. Tôi sẽ không giết một nghiệp chủ. Tôi sẽ buộc họ làm việc mỗi ngày, như người ta vẫn làm việc ngoài đồng và như người ta vẫn làm củi trên núi, và cứ như vậy trong suốt quãng đời còn lại của họ. Họ phải ngủ nơi ta ngủ, họ phải ăn như ta ăn. Nhưng cần nhất là họ phải làm việc. Điều đó có thể giúp họ học hỏi.

– Và họ sẽ sống sót để rồi họ sề áp bức đồng chí.

– Giết họ, điều này không dạy bảo họ được gì. Người ta không thể khử trừ tất cả bọn họ được, người ta càng giết họ thì họ lại càng sinh sôi nảy nở thêm, và luôn luôn họ trở nên căm hận hơn. Tù ngục, cái đó cũng không ích lợi gì. Tù ngục chỉ làm nên từ lòng thù hận. Phải để cho tất cả những kẻ địch của ta tự giáo hóa lấy họ.

– Vậy mà đồng chí đã giết người.

– Đúng. Nhiều lần rồi, và tôi lại sẽ tiếp tục. Nhưng không hứng thú gì và tôi xem đó là một tội lỗi.

– Và tên lính canh? Đồng chí nghĩ rằng phải giết nó, và đồng chí đã dùa.

– Đúng, tôi đã đùa và tôi sẽ giết tên lính canh. Đúng, chắc chắn như thế, và với tấm lòng trong sạch khi nghĩ tới công việc của ta. Nhưng không hứng thú.

– Ta nhường lại cho những ai thích việc đó. Có tám và năm người. Vậy là có mười ba người cho ai thích việc đó.

– Có nhiều người thích việc đó – Anselmo nói trong bóng tối – Ta có nhiều người loại đó. Nhiều hơn là những kẻ đắc dụng trong một trận đánh.

– Đồng chí đã từng tham dự một trận đánh?

– Không. Bọn tôi đã đánh nhau tại Ségovie từ những ngày đầu của phong trào và bọn tôi đã bỏ trốn. Tôi cùng chạy với những người khác. Thực ra bọn tôi không hiểu điều bọn tôi làm cùng với cách thế bọn tôi phải làm. Kế đó, tôi chỉ có độc một khẩu súng lục với những túi đạn chì nhỏ li ti con những tên guardias civiles 1 thì có những khẩu súng Mauser. Tôi không thể bắn chúng với những thỏi chì nhỏ li ti cách xa một trăm thước và bọn chúng ở cách xa ba trăm thước chúng giết bọn tôi như giết thỏ, đúng theo ý muốn. Chúng bắn nhiều và bắn giỏi, và bọn này chẳng khác gì những con trừu trước mặt chúng – Lão im tiếng, đoạn hỏi – Đồng chí nghĩ liệu có một trận đánh nhau trên cầu không?

– Có thể.

– Tôi chưa bao giờ thấy đánh nhau mà không tìm đường lẩn trốn – Anselmo nói – Tôi không biết mình sẽ xoay sở ra làm sao. Tôi già rồi và tôi tự hỏi…

– Tôi chịu trách nhiệm với đồng chí.

– Con đồng chí, đồng chí đã trải qua nhiều trận đánh rồi chớ?

– Nhiều.

– Và đồng chí nghĩ gì về vụ cây cầu này?

– Trước hết tôi nghĩ về cây cầu. Đó là nghề của tôi. Phá hủy cây cầu không phải chuyện khó. Vậy thì chúng ta sẽ đi tới quyết định về phần còn lại… về những khái niệm. Tất cả sẽ được ghi chép rõ ràng.

– Có rất ít người biết đọc chữ.

– Mọi người sẽ đọc trên chữ viết những gì họ phải làm và do đó sẽ nắm vững vấn đề, nhưng đồng thời những giải thích cũng sẽ được nêu ra rõ ràng rành mạch.

– Tôi sẽ làm điều gì người ta bảo tôi làm – Anselmo nói – Nhưng khi tôi nhớ cuộc chạm súng ở Ségovie, nếu xảy ra một trận đụng độ hay có quá nhiều tiếng súng, tôi muốn được biết rõ ràng điều mình phải làm trong mọi trường hợp. Bởi vì nó như vậy đó, có thể tôi không tìm cách lẩn trốn, như ở Ségovie. Ở Ségovie tôi luôn có ý co giò lủi chạy.

– Ta sẽ ở chung bên nhau – Robert Jordan nói với lão – Tôi luôn luôn cho đồng chí biết mình phải làm gì.

– Vậy thì không có gì rắc rối. Tôi có thể làm bất cứ điều gì người ta dặn dò tôi làm.

– Về phần ta, cây cầu và trận đánh, nếu trận đánh xảy ra. – Robert Jordan nói và khi thốt lên những lời này trong bóng tối, chàng cảm thấy mình hơi cải lương một chút, nhưng nói bằng tiếng Tây Ban Nha thì nghe nó kêu lắm.

– Vụ này sẽ có tầm lợi ích vô cùng. – Anselmo nói và khi nghe lão ta nói thế một cách đứng đắn, rõ ràng và không ngập ngừng, không có cái vẻ kín đáo giả vờ của người Anh, cũng không có cái vẻ khiêu khích của người La tinh, Robert Jordan nghĩ rằng chàng may mắn lớn được có lão già này bên chàng, giờ đây khi chàng đã trông thấy cây cầu, đã nghiên cứu và giản lược vấn đề hẳn sẽ bao gồm trong việc đột kích đồn canh và hoàn tất việc hủy diệt cây cầu một cách bình thường, chàng bắt đầu bất mãn với những mệnh lệnh của Golz và với tính cách tất yếu của chúng. Chàng bất mãn với chúng vì những hậu quả mà chúng có thể gây ra cho chàng và cho lão già kia. Đó là những mệnh lệnh quá đỗi xấu xa cho những kẻ thừa hành.

Chàng nhủ thầm, đó không phải là một cách suy nghĩ, suy nghĩ về những gì có thể xảy ra cho mày và cho kẻ khác, điều này vô nghĩa, cả mày lẫn lão già kia không là gì cả. Chúng mày chỉ là những công cụ của bổn phận. Có những mệnh lệnh tất yếu mà chúng mày vô phương cưỡng chống lại có một cây cầu, và chiếc cầu này có thể là điểm từ đó, tương lai loài người có thể rẽ sang một đường hướng khác.

Cũng như bất luận một biến cố nào của cuộc chiến này. Mày chỉ có một điều phải làm và một điều thôi. Một điều thôi? Mẹ khỉ! Chàng nghĩ thầm. Nếu chỉ có một điều thôi thì mọi sự sẽ diễn ra như trên những bàn ru lết. Thôi đủ rồi thằng oắt con. Đừng bận tâm với nó, chàng nhủ thầm với chính mình. Hãy nghĩ tới điều khác đi.

Sau đó, chàng nghĩ tới Maria với làn da, mái tóc, và đôi mắt đều cùng một màu nâu ngon rực rỡ. Tóc cô gái trông có phần sẫm hơn cả, nhưng hẳn chúng sẽ trở nên rực rỡ hơn, trong khi làn da nàng sẽ đen sạm hơn, làn da dịu dàng với lớp vàng nhạt phủ lên trên một màu hung tối tăm hơn. Dịu dàng, hẳn nàng phải dịu dàng với tất cả tấm thân của nàng. Nàng cử động một cách thẹn thùng, như một cái gì nơi nàng hay ở chung quanh làm cho nàng áy náy khó chịu, một cái gì không chỉ hiện hữu trong trí nàng. Nàng đỏ mặt khi chàng nhìn vào nàng, nàng ngồi, hai bàn tay chập trên gối, chiếc sơ-mi hở cổ, đôi gò vú phồng lên dưới lớp vải. Robert Jordan thấy cổ họng mình nghèn nghẹn và thấy mình đi đứng khó khăn. Anselmo và chàng cùng im lặng mãi cho đến lúc lão già lên tiếng: “Giờ đây mình bước xuống giữa những tảng đá này để về trại đi”.

Và khi họ bước xuống giữa những tảng đá trong bóng tôi âm u thì có một giọng nói quát về phía họ.

– Đứng lại, ai đó?

Họ nghe rõ hai tiếng súng lách cách mở chốt và lên đạn.

– Đồng chí đây mà. – Anselmo nói.

– Đồng chí nào?

– Đồng chí của Pablo. Đồng chí không nhận ra bọn này à?

– Nhận ra chớ. Nhưng đây là lịnh, các người có mật hiệu không?

– Không! Bọn này từ phía dưới lên đây mà.

– Tôi biết – Người đàn ông trong bóng tối nói – Các người từ phía cầu tới. Tôi biết hết rồi. Không phải tôi ra lịnh. Các người phải biết nửa câu sau của mật hiệu.

– Nửa trước là gì? – Robert Jordan hỏi.

– Tôi quên rồi – Người đàn ông trong tối nói, và hắn cười – Đồng chí hãy lo ba cái cốt mìn quỷ yêu của đồng chí.

– Đó là cái người ta gọi là kỷ luật du kích đó – Anselmo nói – Đồng chí có vô đạn súng đồng chí không?

– Nó có đạn rồi. Nhưng tôi ghì nó lại bằng ngón cái và ngón trỏ.

– Đồng chí sẽ làm như thế nào vào một ngày gần đây với một khẩu Mauser không có mấu lẫn khóa an toàn và nó vẫn khạc đạn?

– Nhưng mà đây chính là một khẩu Mauser. Tôi chỉ cần ghìm chặt ngón cái và ngón trỏ là hơn cả. Tôi luôn ghì nó như vậy.

– Súng đồng chí nhắm vào đâu đó? – Anselmo hỏi trong bóng tối.

– Vào đồng chí. Luôn luôn như thế từ phút đầu. Và khi đồng chí vô tới trại, đồng chí nhớ nói ai đó tới đây thay tôi bởi vì tôi đói run và tôi đã quên mật hiệu mất mẹ nó rồi.

– Đồng chí tên gì? – Robert Jordan hỏi.

– Angustin. Tôi tên Angustin và tôi buồn đến chết rũ trong cái xó này.

– Chúng tôi sẽ làm theo lời đồng chí dặn. – Robert Jordan nói và chàng nghĩ rằng tiếng aburrimiento của Tây Ban Nha có nghĩa là buồn chán, là một tiếng mà không một người nông dân nào dùng trong một thứ tiếng nào khác. Đó lại là một trong những tiếng thông thường nhất nơi cửa miệng một người Tây Ban Nha thuộc bất cứ một giai cấp nào.

– Đồng chí đợi tôi với. – Angustin nói và tiến lại gần, đặt bàn tay lên vai Robert Jordan. Đoạn, hắn bật quẹt máy, giơ lên cao và thổi ở đầu ngọn bấc để nhìn khuôn mặt người thanh niên dưới ánh sáng ngọn lửa.

– Đồng chí trông giống người kia lắm – Hắn nói – Không hẳn vậy, tuy nhiên đồng chí nghe đây, nghe đây… – Hắn hạ thấp chiếc quẹt máy và đứng dậy, cầm lấy khẩu súng – Đồng chí nói cho tôi biết chuyện người ta kể có đúng không? Chuyện cây cầu ấy?

– Cây cầu làm sao?

– Người ta sắp giựt tung cây cầu chó đẻ và phải chuồn khỏi vùng này phải không?

– Tôi không biết.

– À! Đồng chí không biết à? Đồ hạng bét! Vậy thì cốt mìn của ai vậy?

– Của tôi.

– Và đồng chí không biết nó để làm gì à? Đừng có nói phét với tôi.

– Tôi biết nó để làm gì chớ, đồng chí cũng sẽ biết khi đến lúc – Robert Jordan nói – Nhưng mà bây giờ thì chúng tôi đi vô trại đây.

– Vậy thì đồng chí đi vào cái trại chết bầm và đồng chí liệu mà xoay xở lấy một mình. Nhưng đồng chí có muốn tôi nói với đồng chí một điều gì có thể giúp ích cho đồng chí không?

– Muốn, nếu không phải là điều chó đẻ. – Robert Jordan nói, chàng dùng cái tiếng thô lỗ vẫn thường trở lại trong những câu chuyện của Angustin. Người đàn ông này nói chuyện với một giọng điệu bẩn thỉu, tanh hôi, bằng cách ghép sự tục tằn vào mỗi danh từ thay cho tiếng hình dung từ, đoạn dùng nó như một tiếng động từ đến nỗi Robert Jordan tự hỏi không biết hắn có thể xướng lên một câu nói thích hợp được hay không. Angustin cười trong bóng tối khi nghe tiếng đó. Hắn nói :

– Đó là một cách nói của tôi. Có thể nó vô duyên. Biết đâu! Mỗi người một cách mà. Đồng chí nghe tôi nói này. Cây cầu nó không ăn nhậu gì tới tôi. Cây câu hay cái gì khác. Lại nữa, tôi chán chết trong vùng núi này. Nếu phải chuồn thì cứ chuồn chớ. Những hòn núi này không nghĩa lý gì với tôi hết. Nên đi phứt cho rồi. Nhưng tôi muốn nói với đồng chí một điều, đồng chí hãy giữ kỹ những cốt mìn của đồng chí.

– Cám ơn – Robert Jordan nói – Giữ kỹ đối với đồng chí à?

– Không. Với những người trang bị ít hơn tôi kìa.

– Rồi sao?

– Đồng chí biết tiếng Tây Ban Nha mà – Angustin nói, lần này một cách đứng đắn – Đồng chí hãy coi chừng những cốt mìn chó đẻ của đồng chí.

– Cám ơn.

– Không. Đừng cám ơn mất công. Hãy coi chừng vật liệu của đồng chí.

– Có cái gì xảy ra cho nó à?

– Không, hoặc tôi sẽ không mất thì giờ để nói với đồng chí điều đó.

– Vẫn cám ơn đồng chí. Bây giờ chúng tôi đi vào trại đây.

– Được rồi. Và bảo họ phái ra đây một người nào biết mật hiệu nhé!

– Sẽ gặp đồng chí trong trại chớ?

– Đúng đấy, ông bạn… hẹn chốc nữa.

– Thôi mình đi. – Robert Jordan nói với Anselmo. Họ bước dọc theo một đồng cỏ phủ một màn sương xám. Cỏ mềm dưới chân họ qua thảm lá thông, và sương thấm vào dép họ. Trước mặt họ, trong đám mây, Robert Jordan trông thấy một vùng ánh sáng tỏa ra nơi cửa vào hang.

Anselmo nói :

– Angustin là một người rất khá. Hắn ăn nói rất thô lỗ và luôn khoác lác, nhưng đó là một người rất đàng hoàng.

– Đồng chí biết rõ hắn hả?

– Biết. Từ lâu. Tôi rất tin nơi hắn.

– Và nơi điều hắn nói nữa à?

– Đúng vậy. Tên Pablo kia thì chả có danh giá gì. Đồng chí có thể biết rõ điều đó.

– Và mình phải làm gì đây?

– Luôn luôn phải canh chừng.

– Ai?

– Đồng chí. Tôi. Người đàn bà. Và Angustin, bởi vì hắn biết rõ sự nguy hiểm.

– Đồng chí nghĩ rằng ở đây sự việc sẽ xảy ra tệ hại đến như vậy không?

– Không – Anselmo nói – Sự việc xấu đi thật nhanh. Nhưng mình phải tới đây. Đây là đất của Pablo và của El Sordo. Trong vùng của họ, mình phải thỏa thuận với họ khi mình không thể hành động riêng rẽ được.

– Và El Sordo thì sao?

– Tốt. Tên kia xấu bao nhiêu thì hắn tốt bấy nhiêu.

– Đồng chí tin quả thật hắn đáng nghi ngờ à?

– Suốt buổi xế tôi đã nghĩ tới điều đó và giờ đây khi mình đã nghe được những gì mình đã nghe, tôi tin rằng phải. Đúng như vậy.

– Tốt hơn ta có nên bỏ đi, viện cớ phải lo vụ một cây cầu khác và xin người ở các nhóm khác không?

– Không. Đây là vùng của hắn. Đồng chí không thể cựa quậy mà hắn không biết. Nhưng mình phải cựa quậy với rất nhiều dè dặt.
— —— —— —— ——-

1 Dân vệ..


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.