Thứ Bảy, 4 tháng Sáu
Blomkvist mất hai mươi lăm phút đổi tuyến và đi về các hướng khác nhau trên xe điện ngầm. Cuối cùng anh xuống xe bus ở Slussen, nhảy lên thang máy Katarina tới Mosebacke rồi đi đường bao quanh đến số 9 Fiskargatan. Anh mua bánh mì, sữa và phomát ở một siêu thị mini gần tòa Hội đồng Thành phố rồi cất ngay vào tủ lạnh. Rồi anh mở máy tính của Salander.
Suy nghĩ một lúc anh cũng mở di động Ericsson T10 của anh. Anh lờ đi điện thoại di động bình thường của anh vì anh không muốn nói chuyện với bất cứ ai không dính líu đến câu chuyện Zalachenko. Anh thấy anh đã lỡ sáu cuộc gọi trong hai mươi tư giờ qua: ba của Cortez, hai của Eriksson và một của Berger.
Ðầu tiên anh gọi Cortez đang ở một quán cà phê tại Vasastad, bàn với anh ta vài chi tiết nhưng không gấp gáp.
Eriksson chỉ gọi nhắc anh giữ liên lạc.
Anh mở nhóm Yahoo [Ðạo phái Ngu], tìm thấy bản cuối cùng của lời khai có tính tự thuật của Salander. Anh mỉm cười, in tài liệu đó ra rồi đọc ngay tức khắc.
o O o
Salander mở máy tính Palm T3 của cô. Cô bỏ một giờ ra chui vào và lập sơ đồ mạng nội bộ ở SMP bằng tài khoản của Berger. Cô không xử lý bằng tài khoản của Peter Fleming vì không cần đến hết quyền hạn của người quản trị. Cô chỉ chú ý đi vào các hồ sơ nhân sự của SMP. Tài khoản của Berger hoàn toàn vào được các hồ sơ này.
Cô thành thật mong Blomkvist có đủ lòng tốt tuồn trộm chiếc máy tính BookPower có bàn phím thực sự và màn hình l7 inch vào cho cô, thay vì chiếc Palm để trong lòng bàn tay. Cô tải xuống một danh sách tất cả những người làm việc ởSMP rồi bắt đầu xem xét họ. Có 223 nhân viên, trong đó 82 là phụ nữ.
Đầu tiên cô dập đi tất cả phụ nữ. Cô loại bỏ phụ nữ ra không phải là dựa vào chỗ họ không thể làm được các trò rồ này, mà vì các thống kê đã cho thấy tuyệt đại đa số kẻ quấy rối phụ nữ là đàn ông. Như vậy còn lại 141 người.
Theo thống kê thì phần đông các nghệ sĩ dùng cây bút ác độc là ở vào lứa tuổi mười mấy hoặc trung niên. Do SMP không có nhân viên mười mấy tuổi, cô vẽ ra một đường cong biểu đồ, loại đi hết những ai trên năm mươi lăm và dưới hai mươi lăm. Như thế còn lại 103.
o O o
Cô nghĩ một lúc. Cô không còn nhiều thì giờ. Có lẽ không đến nổi hai mươi tư giờ nữa. Cô bèn quyết đoán. Loại đi một nhát tất cả nhân viên trong các bộ phận phát hành, quảng cáo, tranh ảnh, bảo dưỡng và công nghệ thông tin. Tập trung vào một nhóm nhà báo và biên tập, bốn mươi tám người ở quãng giữa hai mươi sáu và năm mươi tư tuổi.
Rồi cô nghe thấy tiếng chùm chìa khóa lách cách. Cô tắt chiếc Palm, dúi nó vào trong chăn, ở giữa hai đùi. Đây sẽ là bữa ăn trưa cuối cùng của cô ở Sahlgrenska. Cô nhẫn nhịn với món bắp cải hầm. Sau bữa trưa, cô biết có một lúc cô không thể làm việc yên ổn được. Cô cất chiếc Palm vào cái hộc đằng sau bàn đầu giường, chờ hai người phụ nữ hút bụi gian phòng và thay chăn gối khăn trải giường xong.
Một người phụ nữ tên là Sara. Mấy tháng qua, chị vẫn đều đặn mang lén thuốc lá Marlboro nhẹ vào cho Salander. Chị còn cho cô một bật lửa hiện giấu ở sau bàn đầu giường. Salander biết ơn nhận lấy hai điếu thuốc, cô dự định đêm sẽ hút ở bên cửa sổ thông gió.
Chưa tới 2 giờ chiều mọi sự lại yên tĩnh ở trong phòng cô. Cô lấy Palm ra, vào lại mạng Internet. Cô định vào ngay quản trị mạng của SMP nhưng cô cũng cần phải giải quyết các vấn đề của bản thân mình. Cô làm công việc rọi quét hàng ngày, bắt đầu với nhóm Yahoo [Ðạo phái Ngu]. Thấy ba ngày qua Blomkvist không đưa lên một cái gì mới, cô nghĩ anh đang bận chuyện gì đây. Cái tên mất gốc này chắc đang mải đến những quanh quẩn với mấy cô nàng nở nang giỏi chài giai đây.
Rồi cô vào nhóm Yahoo [Các Hiệp sĩ], tìm xem Dịch Bệnh có cho thêm gì vào không.
Không.
Rồi cô tìm các ổ cứng của Ekstrom (vài ba thư từ quen thuộc về phiên tòa) và Teleborian.
Mỗi lần vào ổ cứng của Teleborian cô lại thấy thân nhiệt của mình tụt đi mất mấy độ.
Cô thấy hắn đã viết xong báo cáo pháp y về bệnh tâm thần của cô, dù rõ ràng là người ta chỉ yêu cầu hắn viết khi nào hắn đã thăm khám cho cô. Hắn đã chải chuốt chữ nghĩa nhưng không có gì mới lắm. Cô tải bản báo cáo xuống, gửi nó đến [Ðạo phái Ngu]. Cô kiểm tra thư điện tử của Teleborian trong hai mươi tư giờ qua, xem hết cái này đến cái khác. Suýt nữa cô để mất mất tin nhắn cộc lốc này:
Thứ Bảy, 3 giờ ở Đài Vòng Tròn của Ga Trung tâm. Jonas.
Cứt. Jonas. Tên này đã được nhắc đến trong nhiều thư từ với Teleborian. Ðã dùng một tài khoản hotmail. Chưa được nhận diện.
Salander liếc nhìn đồng hồ số để ở trên bàn đầu giường. 2 giờ 28 phút. Cô lập tức gọi ICQ của Blomkvist. Không trả lời.
o O o
Blomkvist in 220 trang bản thảo đã viết xong ra. Rồi anh đóng máy tính, cầm bút chì biên tập ngồi vào bàn bếp nhà Salander.
Anh hài lòng với bản thảo. Nhưng vẫn có một lỗ hổng to tướng. Làm sao tìm ra được chỗ còn lại những điều chưa biết về Bộ phận đây? Có lẽ Eriksson đúng: không thể hoàn thành nổi chuyện tìm kiếm này. Anh đang cạn thời gian.
o O o
Salander thất vọng chửi thề rồi gọi Dịch Bệnh. Anh cũng không trả lời nốt. Cô lại nhìn đồng hồ. 2 rưỡi.
Cô ngồi lên mép giường cố tìm Cortez rồi Eriksson. Thứ Bảy. Ai cũng nghỉ cả. 2 giờ 32.
Rồi cô thử túm lấy Berger. Đen. Mình đã bảo chị ấy về nhà mà.
Cô có thể gửi tin nhắn vào di động của Blomkvist… nhưng nó bị nghe trộm. Cô bĩu dài môi ra.
Cuối cùng hết đường cô bấm gọi hộ lý.
o O o
2 giờ 35 thì cô nghe thấy tiếng chìa tra vào ổ khóa và cô hộ lý Agneta nhòm vào.
– Chào. Cô ổn không?
– Bác sĩ Jonasson có trực không?
– Cô thấy không khỏe à?
– Tôi khỏe. Nhưng tôi cần nói với ông ấy một lát. Nếu được.
– Lúc nãy tôi vừa thấy ông ấy. Chuyện gì thế?
– Tôi chỉ là cần nói với ông ấy thôi.
Hộ lý Agneta cau mày. Nếu không bị đau đầu dữ hay vấn đề gì đó nghiêm trọng tương tự thì Lisbeth Salander hiếm khi bấm chuông gọi hộ lý. Cô không vô cớ quấy quả hộ lý và trước đây chưa hề đề nghị nói chuyện với một bác sĩ đặc biệt nào. Nhưng hộ lý Agneta để ý thấy bác sĩ Jonasson đã dành thì giờ ra với bệnh nhân đang bị bắt, nếu không thì cũng có vẻ như đã lui ra khỏi cuộc đời này. Có lẽ ông bác sĩ đã có một kiểu quan hệ nào đó.
– Để tôi xem ông ấy có thì giờ không nha, – hộ lý Agneta dịu dàng nói rồi đóng cửa lại. Và khóa. Là 2 giờ 36 và rồi đồng hồ tích tắc nhảy sang 2 giờ 37.
Salander đứng lên khỏi mép giường đi ra cửa sổ. Mắt vẫn cứ liêng liếc đồng hồ. 2 giờ 39, 2 giờ 40.
Lúc 2 giờ 44, cô nghe thấy tiếng chân trong hành lang và tiếng chùm chìa khóa của người gác lách cách. Jonasson dò hỏi nhìn cô. Và thấy cái vẻ chán nản của cô ông dừng lại giữa chừng.
– Xảy ra chuyện gì thế?
– Ðang xảy ra ngay lúc này. Ông có máy di động theo không?
– Gì cơ chứ?
– Di động. Tôi cần gọi.
Jonasson ngoái lại đằng cửa nhìn.
– Anders, tôi cần máy di động. Ngay!
Nghe cái giọng đường cùng của cô, ông vục ngay tay vào túi áo trong lấy chiếc Motorola ra đưa cho cô. Salander giật chộp lấy nó. Cô không thể gọi cho Blomkvist vì anh không cho cô số máy Ericsson T10 của anh. Anh không nghĩ đến và cũng không cho rằng ở trong cảnh bị biệt lập cô lại còn có thể gọi cho anh. Cô ngập ngừng chừng một phần mười giây rồi bấm số Berger. Bíp ba lần thì Berger trả lời.
o O o
Berger đang trên chiếc BMW cách nhà ở Satsjobađen nửa dặm thì di động đổ chuông.
– Berger đây.
– Salander. Không có thì giờ giải thích. Chị có số máy di động thứ hai của Blomkvist không? Cái không bị nghe trộm ấy.
– Có.
Hôm nay cô ấy đã cho chị một phen sững sờ ra rồi đây.
– Gọi anh ấy. Ngay! Teleborian đang gặp Jonas. Ðài Vòng Tròn ở Ga Trung tâm. 3 giờ.
– Gì vậy mới được chứ?
– Hỏa tốc. Teleborian. Jonas. Đài Vòng Tròn Ga Trung tâm. Anh ấy còn có mười lăm phút.
Salander tắt ngay máy để cho Berger không có làm uổng đi mất mấy giây quý báu vì muốn hỏi vài ba câu ú ớ. Berger đưa xe ra bên rìa đường. Chị với lấy quyển địa chỉ trong túi đeo, tìm số Blomkvist đã cho chị cái đêm họ gặp nhau ở nhà hàng Chảo Đại của Samir.
o O o
Blomkvist nghe thấy di động bíp. Anh đứng lên khỏi bàn bếp, đi đến phòng làm việc của Salander nhặt điện thoại ở bàn lên.
– Vâng?
– Erika.
– Chào.
– 3 giờ Teleborian gặp Jonas ở Đài Vòng Tròn Ga Trung tâm. Anh chỉ còn có được vài phút thôi.
– Cải gì? Cái gì? Cái gì?
– Teleborian…
– Anh nghe thấy rồi. Sao em biết?
– Thôi vặn với vẹo đi. Làm ngay.
Blomkvist liếc đồng hồ. 2 giờ 47.
– Cảm ơn. Gặp lại.
Anh vồ lấy máy tính xách tay, lao xuống cầu thang thay vì chờ thang máy. Vừa chạy anh vừa gọi Cortez bằng chiếc T10 của mình.
– Cortez đây.
– Cậu đang ở đâu đấy?
– Ở hiệu sách Hàn làm.
– Teleborian sẽ gặp Jonas ở Ðài Vòng Tròn Ga Trung tâm lúc 3 giờ. Tôi đang đến đó nhưng cậu ở gần hơn.
– Ô, ông anh. Tôi đang lên đường đây.
Blomkvist rảo cẳng xuôi xuống Gotgatan, đi gấp lên đến phía Slussen. Khi tới Slussplan, anh đã tưởng đứt hết cả hơi. Có lẽ Figuerola đã đúng ở một điểm. Anh chẳng có tập tành gì sất. Anh nhìn kiếm một taxi.
o O o
Salander trả lại di động cho bác sĩ Jonasson.
– Cảm ơn nhiều.
– Teleborian đấy hả?
Ông không thể để lọt tai không nghe thấy cái tên này. Cô bắt gặp con mắt ông.
– Teleborian thực sự là một tên khốn nạn xấu xa. Ông không biết đâu.
– Ðúng, nhưng tôi có thể thấy là ngay trong lúc này đây, chuyện gì đó đã xảy ra khiến cô khích động hơn cả những lẫn tôi từng chứng kiến trong suốt thời gian chăm sóc cho cô. Tôi hy vọng cô hiểu cái việc cô đang làm.
Salander méo miệng mỉm cười với ông.
– Ông sẽ sớm biết câu trả lời thôi, – Cô nói.
o O o
Rời hiệu sách Hàn lâm, Cortez chạy như một gã điên. Anh hàng qua Sveavagen trên cây cầu cạn tại Master Samuelsgatan rồi xộc thẳng xuống Klara Norra, ở đây anh vòng tắt cầu cạn Klaraberg và qua Vasagatan. Anh lao qua Klarabergsgatan ở giữa một xe bus và hai xe con, một trong ba người lái giận dữ đấm vào kính chắn gió, rồi anh xông qua các cửa của Ga Trung tâm vừa lúc đồng hồ nhà ga chỉ đúng vào 3 giờ.
Anh nhảy cầu thang ba bậc một xuống sảnh chính bán vé, rảo cẳng qua hiệu Sách Bỏ Túi rồi chậm dần lại cho thiên hạ khỏi chú ý. Anh tia mặt từng người đang đứng hay đi gần Ðài Vòng Tròn.
Anh không thấy Teleborian hay người đàn ông Malm đã chụp ảnh ở bên ngoài quán Cà phê Copabacana mà họ tin là Jonas. Anh quay lại nhìn đồng hồ. 3 giờ 1 phút. Anh thở hổn hển như vừa chạy xong một chuyến maratông.
Anh nhào hú họa qua gian sảnh, qua cửa lên tuốt tới Vasagatan. Anh đứng lại nhìn quanh, xem xét hết khuôn mặt này đến khuôn mặt kia trong tầm mắt nhìn thấy được của mình. Không Teleborian. Cũng chẳng Jonas.
Anh quay trở vào nhà ga. 3 giờ 03. Khu vực Đài Vòng Tròn gần như vắng ngắt.
Thế rồi anh ngửng lên và trong chớp nhoáng nhác thấy chiều nghiêng bộ mặt rạc rài cùng chòm râu dê của Teleborian khi hắn ở trong cửa hàng Pressbyran đi ra, bên kia gian sảnh bán vé. Tích tắc sau, người ở bức ảnh Malm chụp cũng hiện ra nguyên hình ở cạnh Teleborian. Jonas. Hai người đi qua phòng chờ lớn và qua cửa phía bắc đi về phía Vasagatan.
Cortez nhẹ hẳn người khoái trá. Anh đưa mu bàn tay lên gạt mồ hôi trên lông mày rồi đi ra đuổi theo hai người kia.
o O o
Taxi của Blomkvist đến Ga Trung tâm lúc 3 giờ 7 phút. Anh đi vội vào sảnh bán vé. Nhưng không trông thấy Teleborian cũng như bất kỳ ai nom có vẻ là Jonas. Cả Cortez cũng không.
Anh sắp gọi Cortez thì di động T10 trong tay anh đổ chuông.
– Tôi vớ được họ rồi. Họ đang ngồi trong quán Tre Remmare trên đường Vasagatan, gần cầu thang xuống tuyến xe điện ngầm Akalla.
– Cảm ơn lắm, Henry. Cậu ở đâu?
– Tôi ở trong quầy bar. Uống chầu bia buổi chiều. Tôi đáng được thế mà.
– Rất hay. Họ biết mặt mũi tôi cho nên tôi sẽ ở xa. Tôi cho rằng cậu không có cơ hội nghe thấy họ nói gì với nhau đâu.
– Không hy vọng. Tôi chỉ thấy lưng Jonas và tên tâm thần học kia lầm bầm khi hắn nói, cho nên tôi cũng chả nhìn thấy được môi hắn mấp máy gì nữa.
– Mình hiểu.
– Nhưng chúng ta có thể có một vấn đề.
– Gì chứ?
– Jonas để ví và di động ở trên bàn. Và hắn để chìa xe ở trên ví.
– OK. Tôi sẽ xử lý được.
o O o
Nhạc di động của Figuerola chơi nét nhạc chủ đề của Ngày xưa có một lần ở miền Tây. Cô để quyển sách về Thượng đế thời cổ đại xuống.
Xem vẻ như cô sẽ chẳng bao giờ có thể đọc xong được nó.
– Chào. Mikael đây. Cô đang làm gì?
– Tôi đang ngồi nhà xếp lại các sưu tập ảnh của tôi về các cha người yêu cũ. Sáng sớm hôm nay tôi đã sa ngã đáng ghét.
– Cô có để xe gần nhà không?
– Lần cuối cùng tôi xem thì nó ở bãi đỗ xe ngoài kia.
– Cô có thích một buổi chiều ở khu trung tâm không?
– Không đặc biệt thích. Có chuyện gì vậy?
– Một bác sĩ tâm thần tên là Teleborian đang bia bọt với một nhân viên có vỏ bọc – bí danh là Jonas – ở mạn dưới đường Vasagatan. Và do tôi đang cộng tác với nền quan liêu mang phong cách Stasi 1 của cô, nên tôi nghĩ nếu bám vào chuyện này cùng tôi thì có lẽ cô sẽ thấy thú vị.
Figuerola đứng ngay lên, với tay lấy chìa xe.
– Không phải là đùa nhau tí ti đấy chứ hả?
– Khó đùa đấy. Jonas để chìa xe của hắn ngay trên bàn trước mặt.
– Tôi đến đây.
o O o
Eriksson không trả lời điện thoại nhưng Blomkvist gặp may, vớ được Karim đang ở nhà bách hóa Ahlens mua quà sinh nhật cho chồng. Anh đề nghị cô hãy đến ngay lập tức – tính làm thêm giờ – quán cà phê yểm trợ cho Cortez. Rồi anh gọi Cortez.
– Kế hoạch thế này nhà. Năm phút nữa tôi sẽ có xe ở đấy. Nó đổ trên đường Jarnvagsgatan, bên dưới quán cà phê. Vài phút nữa Lottie sẽ đến giúp sức với cậu.
– Hay.
– Khi chúng rời đi, cậu bám đuôi Jonas. Báo tin cho tôi bằng di động. Hễ thấy hắn sắp lên một cái xe nào, chúng ta phải biết. Lottie sẽ theo Teleborian. Nếu chúng tôi không đến kịp, thì cậu ghi lại biển số đăng ký.
– OK.
o O o
Figuerola đỗ xe ở cạnh khách sạn Ánh sáng phương Bắc, gần sân ke Tàu tốc hành Arlanda. Lát sau, Blomkvist mở cửa của người lái.
– Chúng vào quán cà phê nào?
Blomkvist nói cho cô biết.
– Tôi cần gọi yểm trợ.
– Theo tôi không nên. Chúng ta đã được anh em bọc lót. Quá nhiều đầu bếp có thể làm hỏng bét cả món ăn.
Figuerola nghi ngờ nhìn anh.
– Sao anh biết là sắp có cuộc gặp này?
– Tôi phải bảo vệ nguồn tin của tôi. Xin lỗi.
– Anh có tình báo chết toi của riêng anh ở Millennium à? – Cô nổ ra.
Blomkvist nom vẻ thú vị. Cần bình tĩnh để làm được giỏi hơn Sapo ở ngay chính lĩnh vực nghiệp vụ của nó. Thực ra anh chả tài nào hiểu nổi tại sao thình lình Berger lại gọi bảo anh về cuộc gặp này. Từ đầu tháng Tư chị đã không can dự vào công việc biên tập của Millennium. Chị biết Teleborian, chắc thế, nhưng Jonas thì mãi đến tháng Năm mới ló mặt vào trong khung cảnh. Như anh biết, Berger còn không biết cả rằng hắn có sống ở trên đời này, chưa nói biết hắn đang là trung tâm chú ý ghê gớm của cả Sapo lẫn Millennium.
Anh cần nói chuyện với Berger.
o O o
Salander mím môi lại nhìn màn hình chiếc máy tính để gọn trong bàn tay. Dùng xong di động của Jonasson, cô gạt hết sang một bên mọi ý nghĩ về Bộ phận, tập trung vào vấn đề của Berger. Sau khi suy nghĩ cẩn thận, tiếp theo, cô loại đi tất cả đàn ông thuộc nhóm tuổi từ hai mươi sáu đến năm mươi tư mà đã có vợ. Cô làm kiểu lướt đại trà, điều cô rất thành thạo. Cách chọn này ít dựa vào một cơ sở hợp lý có tính thống kê, xã hội học hay khoa học nào. Bút Thuốc độc dễ có thể là một người đã có vợ và năm con cùng với một con chó. Hắn có thể là một người làm việc ở bộ phận bảo dưỡng. Thậm chí “hắn” có thể là một phụ nữ.
Cô chỉ cần lược bỏ đi một số tên trong danh sách, bây giờ nhóm này từ bốn mươi tám tên tụt xuống còn có mười tám. Danh sách này gồm phần lớn các phóng viên tên tuổi hơn, những người ở vị trí điều hành, quản lý trạc tuổi ba mươi lăm hay già hơn. Nếu chưa tìm được điều gì lý thú hơn ở trong nhóm này, cô sẽ lại có thể nới rộng tấm lưới ra.
4 giờ, cô vào Cộng hòa Tin tặc, tải lên cho Dịch Bệnh danh sách này. Mấy phút sau, anh gọi cô.
<Mười tám cái tên. Gì đây?>
<Tí việc ngoài rìa ấy mà. Coi như bài tập đi.>
<OK… Ðể tớ đoán.>
< Một đứa ở trong đó là một kẻ bày trò gây sự. Tìm hắn đi. >
<Thời hạn thế nào?>
<Phải làm nhanh. Mai chúng nó xiết tôi lại rồi. Cần tìm ra trước đó. >
Cô mô tả qua về tình hình Bút Thuốc độc.
<Có lợi lộc gì trong chuyện này không?>
<Có. Tôi sẽ không đến được đầm lầy phóng hỏa vào nhà anh. >
<Thế thật cơ à?>
<Lần nào nhờ anh làm gì tôi đều trả công. Lần này không phải cho tôi. Xem như là nộp một món thuế trời ơi đi.>
<Cô bắt đầu cho thấy đã có những dấu hiệu về ý thức xã hội rồi đấy. >
<Ô, thế đấy hả?>
Cô cho anh mã khóa vào phòng biên tập của SMP rồi tắt ICQ.
o O o
4 giờ 20 thì Cortez gọi.
– Có dấu hiệu chúng đang rời đi.
– Bọn mình sẵn sàng đây.
Im lặng.
– Ra ngoài quán, chúng đi riêng rẽ. Jonas lên phía bắc. Teleborian xuống phía nam. Lottie đang theo hắn.
Blomkvist giơ một ngón tay lên chỉ khi Jonas vút thoáng qua họ trên đường Vasagatan. Figuerola gật đầu mở máy. Vài giây Sau Blomkvist cũng trông thấy Cortez.
– Hắn đang băng qua Vasagatan, đi lên mạn Kungsgatan, – Cortez nói trong di động.
– Giữ khoảng cách kẻo hắn nhận ra cậu.
– Ít người ra đường lắm.
Im lặng.
– Hắn rẽ về phía bắc lên Kungsgatan.
– Phía bắc lên Kungsgatan, – Blomkvist nói.
Figuerola sang số quay xe lên Vasagatan. Bị đèn đỏ, họ dừng lại.
– Hắn hiện ở đâu? – Blomkvist nói khi họ rẽ lên Kungsgatan.
– Ðối diện nhà bách hóa PUB. Hắn đi bộ nhanh. Ấy, hắn rẽ lên Drottninggatan, theo phía bắc.
– Drottninggatan theo hướng bắc, – Blomkvist nói.
– Rõ, – Figuerola rẽ phạm luật lên Klara Torra rồi hướng đến Olof Palme Gata. Cô rẽ và phanh đỗ ở bên ngoài tòa nhà SIF. Jonas đi qua Olof Palme Gata rồi rẽ lên phía Sveavagen. Cortez ở lại bên kia phố.
– Hắn rẽ về phía đông…
– Chúng tôi trông thấy cả hai cậu.
– Hắn rẽ xuống Hollandargatan. Xin chào… Xe Audi đỏ.
– Xe, – Blomkvist nói, ghi lại biển đăng ký xe Cortez vừa đọc cho anh.
– Hắn quay mặt về đường nào? – Figuerola nói.
– Quay về phía nam, – Cortez báo tin. – Hắn đang đi về trước mặt các bạn, trên Olof Palme Gata… nào.
Monica đã cho xe chạy và qua Drottninggatan. Cô nháy đèn vượt lên hai người đi bộ đang cố len qua cho dù đèn của cô đang bật đỏ.
– Cảm ơn, Henry. Từ đây bọn mình sẽ trông coi hắn.
Chiếc Audi đỏ rẽ về phía nam trên đường Sveavagen. Vừa lái Figuerola vừa mở di động bằng tay trái và bấm số.
– Tôi có thể biết người sở hữu chiếc Audi đỏ được không? – Cô đọc thoắng một lèo số xe.
– Jonas Sandberg, sinh năm 1971. Ông nói gì? Helsingorsgatan, Kista. Cảm ơn.
Blomkvist ghi lại cái thông tin.
Họ theo chiếc Audi đỏ qua Hamngatan đến Strandvagen rồi thẳng tuốt tới Artilerigatan. Jonas đỗ cách Armemuseum một khối nhà. Hắn đi bộ qua đường vào qua cửa trước của một tòa nhà cao tầng xây từ năm 1890.
– Hay đấy, – Figuerola nói, quay sang Blomkvist.
Jonas Sandberg vào một tòa nhà cao tầng cách căn hộ mà Thủ tướng mượn cho cuộc gặp riêng của ông chỉ có một khối nhà.
– Làm ăn tinh vi đấy, – Figuerola nói.
Thì chính lúc ấy Karim gọi bảo họ rằng Teleborian đã đi lên Klarabergsgatan qua các thang máy ở Ga Trung tâm rồi từ đấy đến Sở Chỉ huy cảnh sát trên đường Kungsholmen.
– Sở Chỉ huy cảnh sát lúc 5 giờ chiều thứ Bảy à?
Figuerola và Blomkvist nhìn nhau ngờ ngợ. Monica nghĩ một lúc về việc câu chuyện chuyển ra thành thế này. Rồi cô nhặt di động gọi thanh tra hình sự Jan Bublanski.
– Chào, đây là Monica ở SIS. Chúng ta trước đây một dạo đã gặp nhau ở Norr Malarstrand.
– Cô muốn gì?
– Cuối tuần này chỗ ông có ai trực không đấy?
– Modig, – Bublanski nói.
– Tôi muốn được giúp đỡ. Ông có biết liệu chị ấy có ở Sở Chỉ huy không?
– Tôi không chắc. Ðẹp trời và là chiều thứ Bảy mà.
– Ông có thể tìm chị ấy hay ai đó ở toán điều tra mà có thể nhòm giúp cho một cái vào hành lang của công tố viên Ekstrom… để xem liệu có phải ở đấy hiện đang có một cuộc họp được không?
– Họp gì chứ?
– Tôi chưa thể nói rõ. Tôi chỉ cần biết hiện chính lúc này ông ấy có đang họp với bất cứ một ai đó không thôi. Nếu có thì là ai?
– Cô muốn tôi do thám một công tố viên thế nào lại là cấp trên của tôi đó sao?
Figuerola nhếch lông máy lên. Rồi cô nhún vai.
– Vâng, tôi muốn thế ạ.
– Làm gì được thì tôi sẽ làm, – nói đoạn ông đặt máy.
o O o
Sonja Modig ở gần Sở Chỉ huy cảnh sát hơn là Bublanski tưởng. Cô đang uống cà phê với chồng trên ban công nhà một người bạn tại Vasastaden. Vợ chồng chị đưa con đi chơi ngày cuối tuần và họ có kế hoạch làm một cái gì đó cũ kỹ như là ăn một món gì đó rồi đi xem phim.
Bublanski nói rõ lý do cuộc gọi.
– Và nếu vồ phải Ekstrom thì tôi lấy cớ gì ra mà nói đây chứ nhỉ? – Modig hỏi.
– Hôm qua tôi hứa cập nhật cho ông ấy về Niedermann nhưng trước khi về tôi quên gửi đến văn phòng ông ấy. Nó ở trên bàn làm việc của tôi đấy.
– OK, – Modig nói.
Chị nhìn chồng và các bạn.
– Em phải đến Sở Chỉ huy. Em sẽ đi xe và may ra thì em sẽ quay lại trong vòng một giờ.
Chồng chị thở dài. Các bạn chị thở dài.
– Cuối tuần này tôi trực. – Modig nói để cáo lỗi.
Chị đỗ xe ở đường Bergsgatan, đi thang máy lên văn phòng Bublanski, nhặt ba trang A4 gồm có một ít kết quả còm về công việc tìm kiếm Niedermann của họ. Không nhiều để mà đem treo lên cây thông Noel, chị nghĩ.
Chị đi cầu thang lên tầng tiếp, dừng lại ở cửa hành lang. Các sở chỉ huy gần như đều vắng ngắt vào buổi chiều hè này. Chị thật sự không cần phải nhẹ chân nhẹ cẳng. Chị cứ đi rất êm ả. Chị đứng lại ở bên ngoài cánh của phòng Ekstrom đóng kín. Chị nghe thấy những tiếng nói và thình lình bao nhiêu can đảm của chị thế là vụt biển mất. Chị cảm thấy mình là một con ngốc. Bình thường thì chị sẽ gõ cửa, đẩy nó ra và nói: “Chào, vậy là ông vẫn còn ở đây ư?” rồi dong buồm re thẳng vào luôn. Bây giờ sao xem ra thì hỏng toét tòe loe hết.
Chị nhìn quanh.
Tại sao Bublanski gọi chị? Họp về chuyện gì đây?
Chị liếc ngang qua hành lang. Ðối diện với văn phòng Ekstrom là phòng họp, đủ rộng cho mười người. Bản thân chị đã ngồi ở đây trong suốt một số cuộc họp. Chị vào trong phòng đóng cửa lại. Mành chớp đã buông xuống và tấm kính ngăn với hành lang thì được che rèm. Gian phòng tối. Chị kéo ghế ngồi xuống, rồi mở hé rèm để có thể nhìn thấy hành lang.
Chị cảm thấy không thoải mái. Nếu ai đó mở cửa, chị sẽ khó mà giải thích nổi chị làm gì ở đây. Chị lấy di động ra xem giờ. Ðúng 6 giờ. Chị bấm tắt chuông báo rồi ngả ra sau ghế, nhìn vào cửa buồng Ekstrom.
o O o
7 giờ, Dịch Bệnh gọi Salander.
<OK. Tôi là đang giữ quyền quản trị mạng của SMP.>
<Ở đâu?>
Anh gửi đi một URL, địa chỉ trong mạng nội bộ.
<Chúng ta không làm được trong 24 giờ. Dù có địa chỉ thư điện tử cho tất cả 18 người thì cũng phải mất nhiều ngày mới lọt được vào PC, máy tính cá nhân ở nhà cửa họ. Đêm thứ Bảy có lẽ phần lớn không trực tuyến.>
<Tập trung vào các PC ở nhà và tôi sẽ lo cho những PC ở SMP. >
<Tôì đã nghĩ đến chuyện đó. Palm của cô hơi bị hạn chế. Cô có muốn tôi tập trung vào một cái gì đó không?>
<Không. Hãy cứ thử chúng đi. >
<OK. >
<Dịch Bệnh?>
< Hử?>
<Nếu ngày mai chúng ta không tìm ra cái gì, tôi muốn anh cứ để ý đến việc này.>
<OK. >
<Diễn biến thế nào tôi cũng sẽ trả công anh. >
<Dẹp đi. Cho vui ấy mà.>
Cô thoát ra và đi đến URL, địa chỉ mạng nội bộ, ở đấy Dịch Bệnh đã tải lên tất cả các quyền hành của người quản trị SMP. Ðầu tiên cô tìm xem Fleming đang trực tuyến hay đi làm. Không đi làm. Vậy cô mượn căn cước của anh ta đi vào máy chủ thư điện tử của SMP. Cách này cho cô nhìn thấy được mọi hoạt động trong hệ thống thư, kể cả những thư từ lâu đã bị xóa khỏi các tài khoản cá nhân.
Mở đầu cô tìm Ernst Teodor Billing, một trong những biên tập viên làm đêm ở SMP, bốn mươi ba tuổi. Cô mở hộp thư của ông, bắt đầu bấm lùi lại vừa đúng lúc. Cô mất cho mỗi thư hai giây, đủ lâu để hiểu được người gửi đi là ai và nói cái gì. Sau một lúc, cô tìm ra kiểu thư quen thuộc dưới hình thức ghi nhớ hàng ngày, kế hoạch công việc và các thứ vô bổ khác. Cô bắt đầu lướt xem các cái này.
Cô lần lượt đọc kỹ từng thư trong ba tháng. Rồi cô nhảy qua từng tháng để chỉ đọc các dòng chủ đề, chỉ mở thư ra nếu nó là một cái gì đó làm cho cô chú ý. Cô thấy hộp thư này không có gì lạ. Cô biết Billing đang ra ngoài với một phụ nữ tên là Sofia và hắn nói với chị ta bằng một cái giọng không hay. Cô thấy cái này không có gì là lạ, vì khi viết thư cho phần lớn mọi người – phóng viên, họa sĩ trình bày báo, v.v… – hắn vẫn dùng cái giọng không hay ấy. Tuy vậy, cô nghĩ thấy kỳ cục là một người đàn ông lại có thể thường xuyên nói với bạn gái hắn bằng những câu chữ như con béo hay đéo, hay ả ngố thích đéo.
Sau một giờ tìm tòi, cô đóng địa chỉ của Billing, dập hắn khỏi danh sách. Cô chuyển sang Lars Orjan Wollberg, một phóng viên kỳ cựu năm mươi mốt tuổi đang phụ trách mục pháp lý.
o O o
Edklinth đi vào Sở Chỉ huy cảnh sát lúc 7 rưỡi tối thứ Bảy. Figuerola và Blomkvist đang chờ ông ở đấy. Họ ngồi ở cái bàn họp mà hôm trước Blomkvist đã ngồi.
Edklinth nhắc mình nhớ rằng ông đang ở một thế dễ bị đổ và một loạt các nội quy đã bị vi phạm khi ông cho Blomkvist vào trong hành lang này. Dứt khoát hơn cả là Figuerola không có quyền mời anh ta vào đây theo thẩm quyền của cô. Ngay đến vợ các bạn đồng nghiệp của ông cũng không được phép vào hành lang của SIS, nếu họ đến gặp chồng, người ta bảo họ chờ ở chiếu nghỉ. Và càng nổi bật lên hơn nữa, Blomkvist là nhà báo. Từ nay Blomkvist sẽ chỉ được phép vào văn phòng tạm thời ở Fridhemsplan.
Nhưng với lời mời đặc biệt, người ngoài đã được phép vào hành lang. Khách nước ngoài, các nhà nghiên cứu, các viện sĩ hàn lâm, các vị tư vấn tự do… ông xếp Blomkvist vào loại người tư vấn tự do. Muốn gì thì tất cả cái sự vớ vẩn về xếp hạng an ninh này cũng chỉ có hơn lời nói gió bay một chút nào đó mà thôi. Một ai đó quyết định cho một số người được hưởng một mức sử dụng thông tin đặc biệt. Và Edklinth đã định nếu bị phê bình, ông sẽ nói cá nhân ông đã cho Blomkvist quyền sử dụng thông tin.
Nếu như có chuyện rắc rối thì sẽ là thế đấy. Ông ngồi xuống nhìn Figuerola.
– Cô làm sao tìm ra được cuộc họp?
– Quãng 4 giờ Blomkvist gọi tôi, – cô mỉm cười hài lòng nói.
Edklinth quay sang Blomkvist.
– Còn anh thì sao lại biết được về cuộc họp?
– Một nguồn tin mách.
– Tôi liệu sẽ có kết luận rằng anh đang tổ chức một kiểu kiểm soát nào đó với Teleborian không đây?
Figuerola lắc đầu.
– Lúc đầu tôi cũng nghĩ như thế, – cô nói sôi nổi, tựa như không có Blomkvist ở trong phòng. – Nhưng cái đó không ăn nhập. Dù có ai theo dõi Teleborian cho Blomkvist thì người đó cũng không thể biết trước được rằng hắn đang trên đường đi gặp Jonas Sandberg.
– Vậy… thì là gì khác được vào đây? Nghe trộm bất hợp pháp hay là cái gì? – Edklinth nói.
– Tôi có thể bảo đảm với ông, – Blomkvist nói để nhắc hai người rằng trong phòng còn có cả anh, – rằng tôi không có làm cái việc nghe trộm ai hết. Xin hãy thực tế. Nghe trộm bất hợp pháp chính là lĩnh vực của các quyền uy của Chính phủ.
– Vậy anh sẽ không cho chúng tôi biết làm sao mà anh có tin về cuộc họp này chứ?
– Tôi đã bảo ông rằng tôi không thể tiết lộ. Một nguồn tin đã mách tôi. Nguồn tin thì được bảo vệ. Sao ông không tập trung vào cái điều ông vừa phát hiện ra đi chứ nhỉ?
– Tôi không thích lòng thòng rắc rối, – Edklinth mới. – Nhưng OK. Anh tìm thấy gì đây?
– Tên hắn là Jonas Sandberg, – Figuerola nói. – Ðược huấn luyện làm người nhái hải quân và rồi theo học ở Học viện cảnh sát, đầu những năm 90. Ban đầu làm việc ở Uppsala rồi ở Sodertalje.
– Cô cũng ở Uppsala.
– Vâng, nhưng chúng tôi không thấy nhau vào khoảng một năm. Hắn được Phản gián của SIS tuyển năm 1998. Ðược tái bổ nhiệm đến một nhiệm sở ở nước ngoài năm 2000. Theo tài liệu của chúng ta, hắn ở Ðại sứ quán tại Madrid. Tôi đã kiểm tra chỗ Ðại sứ quán. Họ không có sổ sách nào về một Jonas Sandberg trong số nhân viên của họ.
– Y như Martensson. Ðược chính thức điều đến một chỗ mà hắn lại không tồn tại ở đó. Người duy nhất làm được kiểu bố trí này là Chánh văn phòng.
– Trong các trường hợp bình thường thì mọi cái sẽ bị coi như là chuyện giấy tờ quan liêu rắc rối để rồi cho qua. Chỉ có chúng ta để ý đến vì chúng ta đang đặc biệt tìm kiếm nó. Và nếu ai mà bắt đầu hỏi một câu phiền phức thì họ sẽ nói đó là bí mật hay chuyện này dính dáng đến bọn khủng bố.
– Ðể kiểm soát chỗ này phải có một ít ngân sách công tác.
– Trưởng ban Ngân sách à?
– Có thể.
– Còn gì khác không?
– Sandberg sống ở Sollentuna. Không vợ nhưng có một đứa con với một cô giáo ở Sodertalje. Không điểm đen trong hồ sơ. Giấy phép sở hữu hai súng lục. Chu đáo, kị rượu. Ðiều duy nhất không phù hợp lắm là hình như hắn theo hệ phái Phúc Âm và là thành viên của Lời lẽ cuộc đời trong những năm 90.
– Cô tìm đâu ra những thông tin ấy?
– Tôi hỏi sếp cũ ở Uppsala. Ông ta nhớ khá rõ Sandberg.
– Một người nhái Thiên chúa giáo với hai khẩu súng và con ở Sodertalje. Còn gì nữa không?
– Chúng tôi mới tìm căn cước hắn cách đây có ba giờ. Làm thế là nhanh đấy, ông phải công nhận như thế đi.
– Khá đúng. Cô biết gì về tòa nhà ở đường Artillerigatan?
– Chưa nhiều. Stefan đi lùng một ai đó ở trên văn phòng Chung cư Thành phố. Chúng tôi có sơ đồ tòa chung cư. Một khối nhà tập thể cho các hộ thuê từ hồi những năm 1890. Sáu tầng với tổng số hai mươi hai căn hộ, cộng tám căn hộ ở một nhà nhỏ trong sân. Tôi đã xem đến những người thuê nhưng không thấy cái gì nổi bật cả. Hai người trong chung cư có tiền án tiền sự với cảnh sát.
– Là ai vậy?
– Lindstrom ở tầng hai, sáu mươi ba tuổi. Tù vì gian lận tiền bảo hiểm hồi những năm 70. Wittfelt ở tầng bốn, bốn mươi bảy. Hai lần tù vì đánh người vợ trước. Ngoài ra thì vẻ như là lớp tiêu biểu của giới trung lưu Thụy Ðiển. Nhưng có một căn hộ gợi ra một dấu hỏi.
– Gì đây?
– Trên tầng thượng. Mười một phòng và có vẻ là một ổ điếm sang. Thuộc về một công ty có tên là Liên doanh Bellona.
– Họ khai là kinh doanh gì?
– Có trời biết. Họ phân tích tiếp thị và có doanh thu hàng năm khoảng ba chục triệu krona. Tất cả chủ sở hữu đều sống ở nước ngoài.
– Á à…
– Ả à cái gì?
– Chả có gì. “Á à” thế thôi. Kiểm tra thêm đám Bellona.
Lúc ấy viên sĩ quan mà Blomkvist chỉ biết tên là Stefan đi vào phòng.
– Chào sếp, – ông chào Edklinth. – Làm cái này thật tài ba. Tôi đã tìm ra câu chuyện ở đằng sau căn hộ Bellona.
– Là gì thế? – Figuerola nói.
– Liên doanh Bellona thành lập hồi những năm 70. Họ mua căn hộ của chủ sở hữu bất động sản trước đây, một phụ nữ tên là Kristina Cederholm, sinh năm 1917, lấy Hans Wilhelm Francke, khẩu đại bác bắn bừa bắn bãi từng cãi nhau với P.G. Vinge lúc thành lập SIS.
– Tốt, – Edklinth nói. – Rất tốt, Monica, chúng ta cần kiểm soát căn hộ này suốt ngày đêm. Tìm xem họ có những điện thoại gì. Tôi muốn biết ai vào ai ra, xe thả ai xuống cái địa chỉ ấy.
Edklinth quay sang Blomkvist. Ông nom như muốn nói gì đó nhưng rồi kìm lại. Blomkvist nhìn ông, chờ đợi.
– Anh có hài lòng với lưu lượng thông tin này không? – Cuối cùng Edklinth nói.
– Rất hài lòng. Ông có hài lòng với đóng góp của Millennium không?
Edklinth ngập ngừng gật đầu.
– Anh cần biết vì chuyện này tôi có thể bị chìm nghỉm xuống đáy.
– Không phải vì tôi đâu nhé. Tôi coi thông tin tôi nhận đây là nguồn tin được bảo vệ. Tôi sẽ tường thuật sự việc nhưng không nói tôi lấy đâu ra và lấy thế nào. Trước khi đưa bài đi nhà in tôi sẽ chính thức phỏng vấn ông. Nếu có cái gì ông không muốn trả lời, ông chỉ cần nói “Miễn bình luận”. Hoặc ông có thể nói chi tiết về những điều ông nghĩ về Bộ phận Phân tích đặc biệt. Cái này do ông quyết định.
– Ðúng thế, – Edklinth nói.
Blomkvist vui. Trong có vài giờ đồng hồ, Bộ phận đã lộ hình thù. Ðúng là một cửa đột phá.
o O o
Modig rất ngán ngẩm vì cuộc họp trong Văn phòng Edklinth kéo quá dài. Nhờ trời ai đó đã để lại một chai nước khoáng đầy nguyên ở trên bàn hội nghị. chị đã hai lần nhắn tin bảo chồng chị còn phải ở lại, hứa cho anh biết ngay khi nào chị có thể về nhà. Chị bắt đầu bồn chồn và cảm thấy mình y như một kẻ lẻn trộm vào nhà người ta.
Mãi 7 rưỡi cuộc họp mới tan. Chị hoàn toàn bất ngờ khi cửa mở và Faste đi ra. Rồi bác sĩ Teleborian. Sau họ là một người đàn ông già hơn, tóc bạc mà Modig trước đây chưa trông thấy bao giờ. Cuối cùng công tố viên Ekstrom, mặc jacket vào khi ông tắt đèn và khóa cửa văn phòng lại.
Modig để di động vào giữa khe hở ở các tấm rèm, chụp hai bức ảnh cái nhóm người đang đứng ngoài cửa văn phòng Ekstrom. Mấy giây sau họ đi ra khỏi hành lang.
Chị nín thở cho đến khi họ đã ở cách một quãng. Mồ hôi lạnh vã ra lúc chị nghe thấy cửa vào lòng giếng cầu thang đóng lại. Chị đứng lên, đầu gối bủn rủn muốn khuỵu.
o O o
Đúng 8 giờ Bublanski gọi Figuerola.
– Cô muốn biết Ekstrom họp gì không phải không?
– Đúng.
– Vừa mới xong. Ekstrom họp với bác sĩ Peter Teleborian với nguyên đồng nghiệp thanh tra hình sự Faste của tôi và một quý ông già hơn chúng tôi không nhận ra.
– Khoan cho một tí, – Figuerola nói. Cô bịt tay che máy nói, quay về những người khác. – Teleborian đến thẳng chỗ Ekstrom.
– Này, cô còn đấy không?
– Xin lỗi. Có thể tả người đó ra cho chúng tôi được không?
– Còn hơn nữa. Tôi gửi cho cô một bức ảnh.
– Ảnh ư? Chúng tôi nợ ông một khoản mất rồi.
– Nếu cô cho chúng tôi biết là đang có chuyện gì thì sẽ giúp ích được.
– Tôi sẽ quay lại với ông.
Họ ngồi im lặng một lúc quanh bàn hội nghị.
– Vậy, – cuối cùng Edklinth nói, – Teleborian gặp Bộ phận rồi đi thẳng tới gặp công tố viên Ekstrom. Tôi sẽ trả nhiều tiền để tìm ra họ nói chuyện gì với nhau.
– Hay ông có thể chỉ hỏi tôi thôi cũng được, – Blomkvist nói.
Edklinth và Figuerola nhìn anh. Rồi họ từ từ gật đầu.
– Ðây là đoán mò, – Edklinth nói. – Trừ phi anh tình cờ có các bản lĩnh tâm linh khác thường.
– Không đoán mò, – Mikael nói. – Họ gặp nhau để bàn về bản báo cáo pháp y của Teleborian về tâm thần của Salander. Teleborian vừa viết xong.
– Vớ vẩn. Ðã khám bệnh cho Salander đâu cơ chứ.
Blomkvist nhún vai, mở máy tính.
– Tên này không xá gì đâu. Ðây là bản báo cáo viết mới nhất. Có đề ngày giờ như các vị nhìn thấy nhá, tuần mở phiên tòa đã được quy định.
Edklinth và Figuerola đọc hết bản báo cáo trước cả những người kia. Cuối cùng họ liếc nhìn nhau rồi nhìn Blomkvist.
– Thế quỷ nào mà anh nắm được thứ này cơ chứ? – Edklinth nói.
– Ðây là của cái nguồn mà tôi cần bảo vệ, – Blomkvist nói.
– Blomkvist… chúng ta có thể tin tưởng nhau. Anh đang nắm giữ thông tin. Trong ống tay áo anh còn có gì kinh ngạc nữa không đây?
– Có. Dĩ nhiên tôi phải có các bí mật chứ. Như tôi đã được thuyết phục rằng không cần phải có giấy phép carte blanchecủa các vị để được xem mọi cái các vị có ở Sapo.
– Hai việc khác nhau.
– Chính xác là một việc. Chuyện chúng ta xếp đặt với nhau là có dính đến cộng tác. Tự ông đã nói: chúng ta phải tin tưởng lẫn nhau. Tôi không găm lại bất cứ cái gì giúp ích được cho việc điều tra của ông về Bộ phận hay rọi ánh sáng vào các vụ án mạng đã từng xảy ra. Tôi đã đưa bằng chứng về Teleborian gây nên tội ác với Bjorck năm 1991 và tôi đã bảo ông rằng bây giờ hắn sẽ lại được thuê làm lại cái điều tương tự. Đây là tài liệu chứng tỏ tôi đúng.
– Nhưng anh vẫn nắm tài liệu cốt yếu.
– Thường tình thôi, ông có thể hoặc đình chỉ sự cộng tác của chúng ta lại hoặc sống chung với nó.
Figuerola giơ một ngón tay ngoại giao lên.
– Thứ lỗi cho tôi, nhưng thế này có nghĩa là Ekstrom làm việc cho Bộ phận đấy nhỉ?
Blomkvist cau mày.
– Cái này tôi không biết. Cảm nghĩ của tôi là hắn còn hơn cả một thằng ngu hữu ích bị Bộ phận sử dụng. Hắn tham vọng nhưng tôi nghĩ hắn thật thà, nếu không nói là có chút ngu xuẩn. Một nguồn tin bảo tôi rằng khi đang còn săn đuổi Salander thì bản thân hắn ta trong một cuộc trình bày các báo cáo cũng đã nuốt phải phần lớn những điều Teleborian mớm cho về Salander.
– Vậy anh không nghĩ để sai khiến hắn thì phải mất nhiều công sức hay sao?
– Ðúng. Thanh tra hình sự Faste là một đứa ngu chân chất tin rằng Salander là người đồng tính nữ theo trường phái Satan.
o O o
Berger ở nhà. Chị cảm thấy tê liệt, không thể tập trung vào bất cứ công việc nào. Lúc nào chị cũng chờ người gọi báo cáo bức ảnh của chị đã bị đưa lên một địa chỉ nào đó trên mạng.
Chị bất chợt mình luôn nghĩ đến Salander, tuy chị nhận thấy phần lớn các hy vọng được cô giúp đỡ đều có vẻ hão huyền. Salander bị nhốt ở Sahlgrenska. Cô ấy không được tiếp khách và thậm chí không được phép đọc báo chí. Nhưng cô ấy là một phụ nữ trẻ đa tài đến mức quái dị. Tuy bị biệt lập cô ấy vẫn xoay ra cách liên hệ với Berger bằng ICQ và rồi bằng điện thoại. Hai năm trước cô ấy đã một mình đơn độc hủy diệt đế chế tài chính của Wennerstrom và cứu Millennium.
8 giờ Linder đến gõ cửa. Berger giật bắn như có ai nã một phát súng vào phòng khách vậy.
– Chào Erika. Bà ngồi trong tối nom buồn thế.
Berger gật rồi bật đèn.
– Chào. Tôi đặt ít cà phê…
– Không. Ðể tôi làm việc ấy. Có gì mới không?
Chị có thể nói lại chuyện ấy được đấy. Lisbeth Salander đã tiếp xúc với tôi và kiểm soát giúp máy tính của tôi. Rồi cô ấy gọi đến nói rằng Teleborian và một ai đó tên là Jonas đang gặp nhau ở Ga Trung tâm chiều hôm nay.
– Không. Không có gì mới, – chị nói. – Nhưng tôi có một cái tôi muốn thử trao đổi với cô.
– Bà cứ thử đi.
– Cô nghĩ có bao nhiêu khả năng đây không phải là một kẻ bám gái mà là một ai đó tôi quen nhưng muốn quấy phá tôi.
– Thì khác gì nhau chứ nhỉ?
– Theo tôi, một tay bám gái là người tôi không quen biết nhưng rồi thế nào bị ám ảnh về tôi. Đằng này thì lại là một người vì những lý do cá nhân mà đâm ra muốn có những kiểu trả thù hay phá hoại cuộc sống của tôi.
– Bà nghĩ hay đấy. Tại sao lại nghĩ ra thế chứ?
– Hôm nay, tôi bàn tình hình của tôi với một người. Tôi không nói tên cô ấy ra với cô được, nhưng cô ấy gợi ý ra rằng đe dọa của một tay bám gái chính cống thì nó khác. Cô ấy nói một tay bám gái sẽ không bao giờ viết thư điện tử cho gái ở trên mặt bằng văn hóa sất cả. Xem vẻ như chuyện đó chệch hoàn toàn.
Linder nói:
– Có một cái gì trong chuyện này. Bà biết là tôi không đọc thư điện tử bao giờ. Tôi có thể xem các thư ấy của bà được không?
Berger để máy tính của chị lên bàn bếp.
o O o
Figuerola đi cùng Blomkvist ra ngoài Sở Chỉ huy cảnh sát lúc 10 giờ tối. Họ lại dừng lại tại cũng chỗ như hôm qua ở quảng trường Kronoberg.
– Chúng ta lại ở đây đây. Anh sắp biến đi để làm việc hay muốn đến nhà tôi lên giường với tôi?
– Ờ…
– Ðừng cảm thấy bị ép, Mikael. Nếu cần làm việc thì cứ đi đi.
– Nghe này Figuerola, cô đang quen với cái nết lôi thôi rồi đấy.
– Còn anh thì không muốn phụ thuộc vào bất cứ cái gì… Anh sắp nói như thế chứ gì?
– Không. Tôi không sắp nói như thế. Nhưng tối nay tôi cần nói chuyện với một người. Cô sẽ thiếp đi mất trước khi tôi có thể làm lụng được.
Cô nhún vai.
– Lại gặp.
Anh hôn má cô rồi đi đến bến xe bus trên đường Fridhemsplan.
– Blomkvist, – Cô gọi.
– Gì thế?
– Sáng mai tôi cũng vẫn rảnh. Nếu được thì đến ăn điểm tâm nhé.
Chú thích
1 Cơ quan an ninh và tình báo Ðông Ðức.