THỨ SÁU, 16 THÁNG NĂM
THỨ BẢY, 31 THÁNG NĂM
Thứ Sáu, 16 tháng Năm, Mikael Blomkvist ra khỏi nhà tù Rullaker sau hai tháng được nhận vào đó. Cũng hôm anh vào đây, anh đã làm, chả có mấy lạc quan, bản cam kết giữ kỷ luật nhà tù. Lý do nào đứng ở sau việc tha anh, điều ấy anh không bao giờ hiểu hết nhưng nó có thể liên quan gì đó tới việc anh không hề xin nghỉ phép tới việc danh sách tù nhân là bốn mươi hai mà số giường lại có ba mươi mốt. Muốn gì thì người coi tù- Peter Sarowsky, một người Ba Lan lưu vong bốn mươi tuổi- mà Blomkvist cánh hẩu với, chắc đã viết nhận xét nên rút ngắn hạn tù của anh đi.
Thời gian ở trong tù anh không bị căng thẳng mà còn khá vui. Sarowsky cho hay nhà tù được thiết kế cho đám gây gổ phá quấy và những dân lái xe say rượu chứ không phải cho đám tội phạm hình sự lõi nghề. Nề nếp thường ngày khiến anh nhớ đến lúc sống ở một ký túc xá thanh niên. Các bạn tù, một nửa là những thế hệ dân nhập cư thứ hai, nhìn Blomkvist như một loài chim lạ ở trong bầy. Anh là người tù duy nhất xuất hiện trong bản tin truyền hình, điều đã cho anh một địa vị nhất định nào đó.
Ngày đầu tiên, anh được gọi đến nói chuyện và được tổ chức Khôngmvux chữa bệnh, chỉ bảo hay tạo cho cơ hội học hành dành cho người lớn tuổi cũng như tư vấn nghề nghiệp. Anh không cảm thấy có chút nhu cầu rèn cặp nào để trở lại với xã hội, anh nghĩ anh đã được học hành và có nghề nghiệp rồi. Mặt khác, anh đề nghị được giữ iBook ở trong xà lim để anh có thể tiếp tục làm quyển sách đã nhận viết cho người ta. Yêu cầu của anh được thỏa mãn không khó khăn. Sarowsky còn thu xếp mang đến cho anh một chiếc tủ khóa để cất máy tính ở trong xà lim. Không phải vì một bạn tù nào có thể lấy cắp hay phá hay một chuyện gì đại loại mà với anh, họ luôn giữ một con mắt bảo vệ. Cứ kiểu đó Blomkvist qua hai tháng làm việc chừng sáu giờ một ngày cho quyển biên niên của gia đình Vanger, công việc chỉ bị ngừng lại chút ít để làm vệ sinh và giải trí hàng ngày. Blomkvist và hai người khác, một ở Skhôngvde đến và một gốc rễ tận Chile, được phân công quét dọn nhà thể dục thể thao mỗi ngày. Giải trí thì có xem tivi, đánh bài hay tập vật. Blomkvist phát hiện mình là một tay chơi poker khá nhưng ngày nào anh cũng bị thua một ít tiền. Nội quy cho phép đánh ăn tiền nếu tổng số tiền đánh không quá năm curon. Trước ngày được tha một hôm anh mới được báo. Sarowsky gọi anh đến văn phòng và hai người đụng cốc rượu aquavit mừng với nhau.
Blomkvist đi thẳng về căn nhà gỗ nhỏ ở Hedestad. Khi đi tới bậc tam cấp anh nghe thấy tiếng meo meo và con mèo nâu đỏ đã hộ tống anh.
– OK, mày có thể vào,- anh nói,- Nhưng tao không còn sữa đâu nhá.
Anh dỡ đồ khỏi túi. Tựa như anh đang nghỉ lễ và anh thấy thật tình nhớ những ngày tháng gần gũi với Sarowsky và các bạn tù. Có vẻ như phi lý song quả là anh đã sống vui vẻ ở Rullaker, việc phóng thích anh đến quá đột ngột khiến anh không kịp cho ai hay biết.
Vừa sau 6 giờ tối. Anh vội đến Khôngnsum để mua thực phẩm đồ dùng e nó đóng cửa. Khi về nhà, anh gọi Berger. Một tin nhắn nói hiện thời cô không có mặt. Anh bảo cô ngày mai gọi anh.
Rồi anh đi đến nhà người mướn anh. Anh thấy ông già ở tầng trệt. Trông thấy Mikael, ông già ngạc nhiên nhướng lông mày lên.
– Trốn ư?
– Tha sớm.
– Lạ đấy.
– Lạ cả với tôi.
Hai người nhìn nhau một thoáng. Rồi ông già làm Blomkvist ngạc nhiên khi ông dang tay ra ôm lấy anh.
– Tôi sắp sửa ăn đây. Đi với tôi.
Anna mang lên nhiều bánh kếp nhân thịt và dâu rừng. Họ ngồi trong phòng ăn chuyện trò gần hai giờ, Blomkvist cho biết anh làm biên niên gia đình đã đến đâu và vẫn có những lỗ thủng và khoảng cách. Họ không nói gì đến Harriet nhưng Vanger đã kể hết với anh chuyện về Millennium.
– Chúng tôi đã có một cuộc họp tòa soạn. Cô Berger và đối tác Malm của anh khá tốt nên đã đến đây họp hai lần còn Dirch thì thay mặt tôi dự một cuộc họp ở Stockholm. Tôi thật lòng mong trẻ hơn vài tuổi nhưng thật là đi xa thì quá mệt với tôi. Tôi sẽ cố đi xuống dưới đó mùa hè này.
– Chả có lý do nào mà phải họp ở trên này. – Blomkvist nói. – Vậy làm chủ sở hữu một phần tạp chí rồi thì ông thấy sao?
Henrik mỉm cười giễu.
– Bao nhiêu năm rồi mới có một điều thú vị nhất ấy. Tôi đã ngó vào tài chính, thấy khá là sòng phẳng. Tôi sẽ không phải bỏ nhiều tiền vào như tôi nghĩ, khoảng cách giữa thu và chi đang co hẹp lại.
– Tôi đã nói chuyện với Erika tuần này. Cô ấy nói số đối tác thuê quảng cáo đã tăng lên.
– Đã bắt đầu chạy đều nhưng còn phải cần thời gian. Thoạt tiên là các công ty của Tập đoàn Vanger mua một loạt các trang quảng cáo. Nhưng hai đối tác thuê quảng cáo trước kia- điện thoại di động và đại lý du lịch – đã trở lại. – Ông cười toét. – Chúng ta cũng đang chen lên chút ít với từng đứa một trong đám kẻ thù của Wennerstrom. Và tin tôi đi, danh sách này dài đấy.
– Ông có trực tiếp thấy gì từ phía Wennerstrom không?
– À, thật sự thì không. Nhưng chúng tôi xì ra câu chuyện Wennerstrom đang tổ chức một cuộc bao vây Millennium. Cái này chắc sẽ làm cho lão lộ mặt đê tiện ra. Nghe nói một phóng viên ở DN đã liên hệ được với lão và bị lão hằm hằm trả lời.
– Ông thú chuyện này, đúng không?
– Chữ thú không trúng. Tôi nên dấn chân vào chuyện này nhiều năm trước rồi mới phải.
– Giữa ông và Wennerstrom có chuyện gì đấy?
– Đừng có cố mà moi. Cuối năm nay anh sẽ thấy thôi.
9 giờ khi Blomkvist rời nhà Henrik, trong không khí có một cảm giác rõ rệt tiết xuân. Bên ngoài trời tối, anh do dự một lát. Rồi anh trở lại cung đường quen thuộc đến gõ cửa nhà Cecilia Vanger.
Anh không ngờ tới điều anh sắp thấy. Cecilia mở to mắt và lập tức nom không thoải mái khi để anh vào nhà. Hai người đứng đó, thình lình không cầm chắc được về nhau. Chị cũng hỏi anh vượt ngục phải không và anh nói rõ sự thể.
– Tôi chỉ đến chào. Tôi có làm công việc bị ngắt không?
Chị tránh mắt anh. Mikael thấy ngay là chị không đặc biệt vui khi gặp anh.
– Không…không, vào đi. Anh muốn cà phê không?
– Muốn.
Anh theo chị vào bếp. Chị quay lưng lại anh trong khi đổ nước vào máy pha cà phê. Anh đặt một tay lên vai chị, chị cứng ngay người lại.
– Cecilia, xem vẻ chị không muốn mời tôi cà phê đâu.
– Tôi không chờ anh, tưởng một tháng nữa cơ, – Chị nói. – Anh làm tôi ngạc nhiên.
Anh quay người chị lại để nhìn được vào mặt chị. Họ đứng lặng một lúc. Chị vẫn không nhìn vào mắt anh.
– Cecilia, quên cà phê đi. Có chuyện gì thế?
Chị lắc đầu, thở dài.
– Mikael, tôi muốn anh đi đi. Đừng hỏi. Cứ đi đi thôi.
Đầu tiên Mikael về căn nhà gỗ nhỏ, nhưng dừng lại ở cổng ngoài, phân vân. Thay vì vào nhà, anh lại qua cầu đi xuống bờ nước, ngồi lên một tảng đá. Anh hút một điếu thuốc, soát lại các ý nghĩ của mình và nghĩ cái gì đã có thể thay đổi được thái độ của Cecilia đối với anh ghê gớm đến thế.
Đột nhiên anh nghe thấy tiếng máy nổ và trông thấy một con tàu to màu trắng lướt vào eo biển bên dưới cây cầu. Khi nó đi qua, Mikael trông thấy Martin đứng cầm lái, mắt chăm chú nhìn để tránh đá ngầm dưới nước. Đây là tàu động cơ đi biển gần mười lăm mét, một vật mang sức mạnh đáng nể. Anh đứng lên đi vào con đường bờ biển. Anh phát hiện thấy nhiều tàu đã đang ở các bến khác nhau trong vùng nước, một mớ lẫn lộn những tàu buồm và tàu máy. Cô nhiều tàu Petersson, ở một bên là một du thuyền yatch loại IF đang dập dềnh theo lằn nước. Những tàu khá là những chiếc lớn hơn, đắt tiền hơn. Anh để ý thấy một chiếc Hallberg-Rassy. Các con tàu cũng chỉ ra sự phân chia hơn kém của của bến du thuyền ở Hedestad – không nghi ngờ gì là Martin Vanger có con tàu lớn nhất và lộng lẫy nhất.
Anh dừng lại trước cửa nhà Cecilia Vanger, liếc trộm lên cửa sổ thắp sáng ở tầng trên cùng. Rồi về nhà pha cà phê cho mình. Anh vào phòng làm việc chờ cà phê ngấm.
Trước khi tự tìm đến trình diện ở nhà tù, anh đã trao lại tất cả tư liệu về Harriet. Khôn ngoan ra thì không để chúng ở lại tại một căn nhà trống không. Nay các giá sách nom trần trụi. Trong kho các báo cáo, anh chỉ có năm sổ tay của chính Henrik Vanger còn những cái anh mang theo đến nhà tù thì nay anh đã thuộc lòng. Anh để ý thấy ở trên giá trên cùng một quyển album anh để quên ở đó, anh mang nó ra bàn nhà bếp. Anh rót cà phê và bắt đầu xem quyển album. Đó là những ảnh chụp ngày Harriet mất tích. Bức đầu tiên là cái ảnh cuối cùng của Harriet, trong cuộc diễu hành Ngày trẻ con ở Hedestad. Rồi có vài ảnh rất rõ về hiện trường vụ xe đâm nhau trên cầu. Trong nhiều dịp trước kia, anh đã xem xét từng chiếc bằng cả kính phóng lớn. Nay anh gần như lơ đãng lật giở các trang; anh biết anh sẽ chẳng tìm ra được một bức nào mà anh chưa từng xem qua. Anh chợt cảm thấy bận tâm thật tình đến vụ mất tích không thể giải thích của Harriet Vanger và đóng sập quyển album lại.
Bồn chồn anh đến bên cửa sổ nhà bếp nhìn vào bóng tối.
Rồi anh đảo mắt về lại quyển album. Anh không giải thích được cái cảm giác nhưng một ý nghĩ vụt lướt qua đầu anh tựa như anh vừa phản ứng lại với một cái gì anh mới trông thấy. Nó giống như một tạo vật vô hình nào vừa thì thào bên tai anh khiến tóc gáy anh dựng đứng.
Anh mở quyển album. Anh xem kỹ từng trang, xem từng chiếc ảnh về cây cầu. Anh nhìn tấm ảnh về Henrik Vanger trẻ hơn đang hót dầu và một Harald trẻ hơn, một người mà anh chưa hề gặp. Thành lan can cầu gẫy, các cao ốc, các cửa sổ và những xe cộ nhìn thấy trong các tấm ảnh. Anh không nhận ra được Cecilia hai mươi tuổi ở giữa đám người đứng xem. Cô mặc cái váy liền áo màu sáng và một jacket thẫm màu, hầu như có mặt ở trong ít nhất hai chục tấm ảnh.
Anh cảm thấy mình đang vừa mới bị kích động, qua nhiều năm Blomkvist đã học được là hãy tin ở bản năng của mình. Các bản năng này đang phản ứng lại với một cái gì đó trong quyển album nhưng anh không thể nói ra nó là cái gì.
11 giờ anh vẫn ở bên bàn bếp xem kỹ từng bức ảnh một thì nghe tiếng cửa mở.
– Tôi vào được không?
Đó là Cecilia Vanger. Không chờ trả lời, chị ngồi xuống đối diện anh ở bên kia bàn. Blomkvist có một cảm giác là lạ về một điều gì anh từng quen quen. Chị mặc một váy liền áo mỏng, suông và sáng màu cùng một jacket lơ xám, các thứ gần như giống với váy áo chị mặc trong các bức ảnh từ 1966.
– Anh thành vấn đề mất rồi đấy.- Chị nói.
Blomkvist nhướng lông mày.
– Xin lỗi, hồi tối anh đến gõ cửa đã làm tôi ngạc nhiên. Nay tôi khổ tâm quá không ngủ nổi.
– Tại sao chị khổ tâm?
– Anh còn không biết sao?
Anh lắc đầu.
– Anh hứa là tôi nói ra thì không cười nhé.
– Hứa.
– Mùa đông vừa rồi tôi quyến rũ anh là đã làm một việc ngu ngốc, bốc đồng. Tôi chỉ muốn hưởng thụ, có thế thôi. Đêm đầu tôi uống rượu khá say và hơn nữa, tôi không định bắt đầu một cái gì lâu dài với anh. Rồi hóa ra khác. Tôi muốn anh biết rằng trong đời tôi những tuần cùng anh, người tình thoảng qua, là sung sướng nhất.
– Tôi cũng nghĩ nó hay.
– Mikael, tôi nói dối anh và cả với tôi. Tôi không hề thanh thản về tình dục. Tôi đã có năm bạn tình. Một là khi tôi hai mươi mốt và lần đầu có chuyện. Rồi với chồng tôi, tôi gặp ông ta năm hai mươi lăm và ông ta quay ra là một kẻ xấu. Rồi một ít thời gian với ba người mà tôi gặp riêng rẽ trong vài năm một. Nhưng anh đã khơi lên ở trong tôi một cái gì. Đơn giản là tôi không thể thỏa mãn. Có một cái gì đó liên quan đến việc anh không quá đòi hỏi.
– Cecilia, không cần phải…
– Suỵt, chớ chặn lời, nếu không tôi không nói được với anh điều này.
Blomkvist ngồi im.
– Hôm anh đi tù, tôi vô cùng thảm hại. Anh đi, cứ y như anh chưa từng tồn tại bao giờ. Nhà khách đây tối om. Giường tôi trống không và lạnh. Và tôi, một mẹ nạ dòng năm mươi sáu.
Chị im lặng một lát rồi nhìn vào mắt Blomkvist.
– Mùa đông vừa rồi tôi phải lòng anh. Tôi không muốn nhưng nó đã xảy ra. Và rồi tôi đánh giá lại và hiểu ra là anh ở đây cũng chỉ tạm bợ thôi, một ngày nào đó anh sẽ bỏ đi mãi mãi còn tôi thì ở lại đây suốt đời. Tôi đau khổ quá cho nên quyết định không cho anh vào nhà nữa khi anh ở tù ra.
– Tôi xin lỗi.
– Không phải lỗi của anh. Hồi nãy khi anh đi, tôi ngồi khóc. Tôi mong có cơ hội lại sống được cuộc đời mình. Rồi tôi quyết định một điều.
– Là gì?
Chị nhìn xuống bàn.
– Chỉ vì một ngày nào đó anh bỏ đây đi mà thôi anh thì tôi điên lên mất. Mikael, chúng ta có bắt đầu lại được không? Anh có thể quên chuyện xảy ra hồi đầu hôm không?
– Đã quên rồi. – Anh nói. – Nhưng cảm ơn vì đã nói với tôi.
Chị vẫn nhìn xuống gầm bàn.
– Nếu anh còn muốn tôi thì chúng ta hãy cùng nhau.
Chị lại nhìn anh. Rồi chị đứng lên đi đến phòng ngủ. Chị vứt jacket xuống sàn, vừa đi vừa kéo váy lên qua đầu.
Blomkvist và Cecilia Vanger thức dậy khi cửa chính mở ra và một ai đó đang đi qua bếp. Họ nghe thấy tiếng một vật gì nặng buông xuống gần lò bếp. Rồi Berger đứng ở ngưỡng phòng ngủ mỉm cười, nhưng nụ cười mau chóng biến ra thành bàng hoàng.
– Ôi trời. – Cô lùi lại một bước.
– Chào, Erika, – Blomkvist nói.
– Chào, tôi rất xin lỗi. Tôi xin lỗi nghìn lần vì đã xộc vào như thế này. Tôi lẽ ra phải gõ cửa.
– Bọn này lẽ ra phải khóa cửa chính. Erika, đây là Cecilia Vanger. Cecilia, Erika Berger là Tổng biên tập của tạp chí Millennium.
– Chào. – Cecilia nói.
– Chào. – Berger nói. Trông cô lúng túng như không dứt khoát được là lịch sự bắt tay hay bỏ đi. – Ơ…, tôi có thể đi bộ một lúc.
– Không đi bộ mà đi chuẩn bị cà phê có được không? – Blomkvist nhìn đồng hồ báo thức trên bàn đầu giường. Đã quá trưa.
Berger gật đầu rồi đóng cửa buồng ngủ lại. Blomkvist và Cecilia nhìn nhau. Chị nom bối rối. Họ đã làm tình và trò chuyện đến 4 giờ sáng. Rồi Cecilia nói chị nên ngủ lại và rồi mai đây có dân ba lăng nhăng nào biết chị đã ngủ với Mikael Blomkvist thì chị cũng cứ là tỉnh khô. Chị đã quay lưng lại anh còn anh thì hai tay ấp lấy chị.
– Nghe nhé, – anh nói. – Eriaka đã có chồng và không phải bạn tình của tôi. Thỉnh thoảng bọn này gặp nhau nhưng chúng ta có gì thì cô ấy cũng không bận tâm gì hết…Bây giờ chắc cô ấy đang cảm thấy ngượng.
Một lát sau khi họ vào bếp, Erika đã bày ra cà phê, nước quả, mứt chanh, pho mát và bánh mì nướng. Trông đã thấy ngon. Cecilia đi thẳng đến Erika chìa tay ra.
– Tôi ở đây bất ngờ quá. Chào.
– Cecilia thân mến, tôi xin lỗi là đã đâm xầm vào như một con voi. – Erika nói với vẻ rất ngượng.
– Hãy quên đi vì Chúa. Mà thôi, ăn sáng với nhau đi đã.
Sau điểm tâm, Berger xin lỗi nói phải đi chào Henrik Vanger, để hai người ở lại. Cecilia dọn bàn, quay lưng lại Mikael. Anh đã đi đến ôm lấy chị.
– Bây giờ thì thế nào đây? – Cecilia nói.
– Chả thế nào. Là thế đấy – Erika là bạn tốt nhất của tôi. Hai chục năm nay bọn này vẫn cứ lúc thân sơ với nhau và chắc vẫn cứ như thế trong hai chục năm nữa. Tôi hy vọng như vậy. Nhưng bọn này chưa bao giờ là một đôi và cũng không bao giờ thọc vào chuyện tình tang của nhau.
– Cái chúng ta đang có đây là gì? Tình tang chứ?
– Tôi không biết là gì nhưng xem ra chúng ta ăn ý với nhau.
– Tối nay cô ấy ngủ đâu?
– Chúng ta sẽ tìm một chỗ nào đó cho cô ấy. Một trong những phòng để không của Henrik. Muốn gì thì cô ấy cũng sẽ không ngủ ở giường tôi cơ mà.
Cecilia nghĩ một lúc.
– Không biết tôi có xử lý được không. Anh và cô ấy thì có thể nhưng tôi thì không biết… tôi không… – Chị lắc đầu. – Tôi về lại chỗ của tôi, tôi cần nghĩ về chuyện này một lát.
– Cecilia, từ đầu chị đã hỏi và tôi đã nói với chị về quan hệ của tôi với Erika. Với chị, việc cô ấy không có gì đáng ngạc nhiên ghê gớm đến thế.
– Đúng. Nhưng chừng nào cô ấy ở Stockholm, xa tít tận dưới kia thì tôi còn có thể lờ cô ấy đi được.
Cecilia mặc jacket vào.
– Cảnh này nhố nhăng. – Chị mỉm cười nói. –Tối nay đến ăn tối, mang Berger đến, tôi nghĩ tôi bắt đầu thích cô ấy.
Erika đã giải quyết chuyện ngủ ở đâu. Trước đây trong các dịp đến Hedeby thăm Vanger cô đã ở một trong những buồng để không của ông và cô đã hỏi thẳng là có thể mượn của ông được không. Henrik khó giấu được vui mừng, ông cam đoan với cô là bất cứ lúc nào cô đều được hoan nghênh.
Các thủ tục này không còn là vấn đề, Blomkvist và Berger đi bộ qua cầu, vào ngồi ở sân trời của quán Cà phê & bánh đầu cầu Susanne ngay trước giờ đóng cửa.
– Em thật là ngu, – Berger nói. –Lái xe từng ấy đường đất lên để mừng anh trở về với tự do thì lại thấy anh trên giường với người đàn bà định mệnh của thị trấn.
– Anh xin lỗi.
– Anh với quý bà ấy đã bao lâu… -Berger ngoáy ngoáy ngón tay trỏ.
– Khoảng từ lúc Henrik Vanger thành chủ chung.
– À…à…
– À à là thế nào?
– Tò mò thôi.
– Cecilia là người tốt. Anh thích chị ấy.
– Em không phê phán, em chẳng qua là ngu thế thôi. Mỡ đến mồm thì lại bỏ đi ăn chay. Tù sao?
– Như một kỳ nghỉ lễ bình an vô sự. Công việc ở tạp chí thế nào?
– Tốt lên. Lần đầu tiên trong năm, thu nhập về quảng cáo tăng. Năm ngoái chúng ta tụt dốc thì nay đã thay đổi, nhờ Henrik. Nhưng lạ là khách hàng đặt mua báo cũng tăng lên chứ.
– Có vẻ họ đang dao động.
– Ở mọi mặt. Nhưng trong quý vừa rồi chúng ta có được những ba nghìn khách hàng đặt mua báo. Mới đầu em nghĩ chỉ là may nhưng các khách hàng đặt mua mới cứ tiếp tục tăng thêm. Xưa nay trong chuyện đặt mua báo thì đây là cú nhảy vọt lớn nhất. Đồng thời các khách hàng vẫn đặt mua cũng đang qua ban biên tập mà thường xuyên đổi mới tạp chí. Không ai trong chúng ta hiểu được chuyện này. Chúng ta không mở lấy một chiến dịch quảng cáo nào. Christer bỏ cả tuần ra làm sơ đồ chấm điểm xem ở mục này loại khách hàng nào xuất hiện. Thứ nhất, họ đều là những khách hàng mới toe đặt mua báo. Thứ hai, 70 phần trăm trong đó là phụ nữ. Thường là khác đấy. Thứ ba, có thể nói các khách hàng đặt mua báo này đều là viên chức có thu nhập trung bình ở ngoại thành: giáo viên, tầng lớp quản lý bậc trung, viên chức dân sự.
– Nghĩ xem, tầng lớp trung lưu nổi lên chống tư sản gộc nhỉ?
– Em không biết. Nếu đà này duy trì thì có nghĩa là diện mạo người đặt mua báo có thay đổi lớn. Hai tuần trước họp ban biên tập bọn này quyết định bắt đầu mở các mục mới trên tạp chí. Em muốn có nhiều hơn những vấn đề về công ăn việc làm gắn với TCO, Hội liên hiệp những Người làm thuê có tay nghề, cũng như các phóng sự điều tra về các vấn đề của phụ nữ, đại khái là vậy.
– Đừng thay đổi quá nhiều, – Blomkvist nói. – Nếu có nhiều người đặt mua báo hơn lên thì có nghĩa họ thích cái chúng ta đang làm ở trên báo rồi đó.
Cecilia mởi cả Henrik Vanger ăn tối, có thể là để tránh bớt nguy cơ một số đề tài chuyện trò dễ gây rắc rối. Chị làm món nai om.
Berger và Henrik bỏ khá nhiều thời gian bàn việc phát triển Millennium và các khách hàng đặt mua báo mới, nhưng chuyện trò đã chuyển dần sang các vấn đề khác. Đến một lúc, Berger bỗng quay sang Blomkvist hỏi công việc anh ra sao.
– Tôi tính một tháng nữa thì xong bản thảo về biên niên gia đình để Henrik Vanger xem.
– Một biên niên theo tinh thần của gia đình Addams. – Cecilia nói.
– Nó cũng có một vài khía cạnh lịch sử nhất định đấy. – Blomkvist nhượng bộ.
Cecilia liếc sang Vanger.
– Mikael, Henrik không thật sự quan tâm đến biên niên gia đình đâu. Thật ra chú ấy muốn anh giải đáp bí mật vụ Harriet mất tích.
Blomkvist không nói không rằng. Từ khi bắt đầu quan hệ với Cecilia anh nói với chị khá công khai về Harriet. Cecilia đã suy luận đó mới là công việc giao cho anh cho dù anh chưa bao giờ chính thức thừa nhận. Chắc chắn anh không bao giờ nói với Henrik rằng anh và Cecilia đã bàn tới chuyện này.
Cặp lông mày chổi xể của Henrik hơi rúm lại, Erika im lặng.
– Chú Henrik thân mến, – Cecilia nói. – Cháu không ngu. Cháu biết chú với Mikael đã thỏa thuận gì cho nhau nhưng anh ấy ở đây là về Harriet. Có đúng không?
Vanger gật đầu và liếc nhanh Blomkvist.
– Tôi đã cảnh báo anh là lưỡi cô ấy bén mà. – Ông quay sang Berger. – Tôi cho rằng Blomkvist đã nói rõ với cô việc anh ấy đến làm ở Hedeby đây.
Cô gật đầu.
– Và tôi cho rằng cô thấy đó là một việc vô nghĩa. Không, cô không cần trả lời. Đây là một nhiệm vụ ngớ ngẩn và vô nghĩa. Nhưng tôi cần phải tìm cho ra.
– Tôi không có ý kiến về chuyện này. – Berger trả lời xã giao.
– Với cô dĩ nhiên là có đấy. – Ông quay sang Blomkvist. – Bảo xem anh đã tìm ra được một cái gì có thể đưa chúng ta tiến lên chưa.
Blomkvist tránh cái nhìn của Henrik. Anh lập tức nghĩ tới cái sự quả quyết lạnh băng, dẫu chưa thể phân xử sai đúng mà anh đã có đêm qua. Cảm giác ấy theo anh suốt ngày nhưng anh không có thì giờ để làm theo cách của anh qua quyển album nữa. Cuối cùng anh ngước lên nhìn Vanger rồi lắc đầu.
– Tôi chưa tìm ra cái gì đặc biệt cả.
Đôi mắt lục lọi của ông già nhìn rọi vào anh. Ông kìm lại không bình luận.
– Các bạn trẻ, tôi không hiểu các bạn. – Ông nói. – Nhưng với tôi thì đã đến giờ đi nằm. Cảm ơn bữa ăn, Cecilia. Chúc ngủ ngon, Erika. Mai gặp tôi trước khi đi nhé.
Vanger đóng cửa chính lại rồi, tất cả đám họ đều chìm trong im lặng. Cecilia nói trước tiên.
– Mikael, tất cả là về chuyện gì thế nhỉ?
– Nghĩa là Henrik nhạy cảm với các phản ứng của con người như một cái máy đo địa chấn vậy. Hôm qua lúc chị đến tôi, tôi đang xem kỹ một tập album.
– Thế à?
– Tôi nhìn thấy một cái gì đó nhưng tôi chưa biết đó là cái gì. Nó là một cái gì gần như đã thành ra một ý nghĩ nhưng tôi đã để lọt mất.
– Vậy anh đã nghĩ đến cái gì?
– Tôi thật không thể nói được. Chị đến đúng lúc ấy.
Cecilia đỏ mặt. Tránh mắt Berger nhìn mình, chị đi ra pha cà phê.
Đó là một ngày nắng ấm. Những mầm xanh mới đã ló và Blomkvist bất chợt nhận thấy mình đang khẽ ư ử bài hát xưa về mùa xuân. Thời hoa nở đang đến. Hôm nay thứ Hai và Berger đã đi sớm.
Giữa tháng Ba lúc anh đi tù, tuyết còn phủ kín đất. Nay đã trở lại xanh và thảm cỏ quanh căn nhà gỗ của anh mơn mởn. Lần đầu tiên anh có cơ hội nhìn thấy tất cả đảo Hedeby xa gần. 8 giờ anh đến mượn Anna một phích nước nóng. Anh nói qua qua với Vanger cũng vừa mới dậy và được ông đưa cho tấm bản đồ đảo của ông. Anh muốn nhìn thật sát hơn căn nhà gỗ của Gottfried. Henrik bảo anh căn nhà này thuộc sở hữu của Martin Vanger nhưng quanh năm thường không có người ở đây. Thỉnh thoảng họ hàng có mượn đến nó.
Blomkvist túm được Martin trước khi anh đi làm. Anh hỏi liệu có mượn chìa khóa được không. Martin cười vui vẻ:
– Tôi cho rằng biên niên đang đến chương về Harriet.
– Tôi chỉ là muốn nhòm một cái…
Martin trở lại sau một phút với chiếc chìa khóa.
– Thế này OK chưa?
– Chừng nào tôi còn có liên quan thì nếu cần anh cứ đến đây. Phiền là nó nằm ở đầu đằng kia của đảo. Đúng nó là một điểm đẹp hơn cái căn nhà gỗ anh đang ở kia thật.
Blomkvist làm cà phê và bánh kẹp. Anh lấy đầy một chai nước trước khi đi, nhét bữa ăn trưa của anh vào ba lô. Anh đi theo một lối mòn hẹp cỏ mọc um tùm mất một phần chạy men theo vịnh biển ở trên mạn bắc đảo Hedeby. Căn nhà gỗ củ Gottfried ở một mũi đất cách làng một dặm rưỡi và anh ung dung cất chân đến đó mất có một nửa giờ.
Martin Vanger nói đúng. Khi Blomkvist đến khúc quành của con đường mòn hẹp, một vùng bóng râm cây cối mở ra ở cạnh biển. Có một cảnh quan tuyệt vời về cái phá con con của sông Hede, bến du thuyền Hedestad ở bên trái và bến công nghiệp ở bên phải.
Anh ngạc nhiên thấy không ai nghĩ đến chuyện vào nhà Gottfried. Đó là một kiến trúc thô sơ làm bằng những súc gỗ ố đen nằm ngang với một mái ngói và một khung màu xanh cùng một cổng có mái ở trước cửa ra vào chính. Người ta đã quên trông coi căn nhà gỗ. Sơn ở cửa và cửa sổ đã bong thành mảng và chỗ chắc từng là thảm cỏ thì nay cỏ dại cao đến nửa mét. Dọn dẹp nó cũng phải mất một ngày làm bở hơi tai.
Blomkvist mở cửa và tháo đinh ốc các cánh cửa chớp ở mặt trong cửa sổ ra. Nhà có vẻ là một kho chứa cũ không tới 400 mét vuông. Bên trong bằng ván gỗ, gồm có một buồng với các cửa sổ to hướng ra mặt nước ở hai bên cửa ra vào. Một cầu thang dẫn lên gác xép để ngủ không che kín ở cuối căn nhà và cái gác xép này trùm lên một nửa không gian căn nhà. Dưới cầu thang là một khoang có lò ga, một quầy bar và một chậu rửa. Đồ đạc cơ bản cần thiết, ẩn trong tường ở bên trái cửa ra vào, có một cái ghế dài, một bàn làm việc ọp ẹp và bên trên là một giá sách với các ngăn bằng gỗ tếch. Dưới xa hơn ở cùng bên là một tủ quần áo rộng. Ở bên phải cửa là một bàn tròn với năm chiếc ghế gỗ; một lò sưởi đứng ở giữa bức tường hông nhà.
Căn nhà không có điện; thay vì có mấy cây đèn dầu hỏa. Trên bậu một cửa sổ có một cái radio bán dẫn Grunding cũ. Ăng ten gẫy rời. Blomkvist bấm nút mở máy nhưng pin đã hết.
Anh lên cầu thang hẹp nhìn khắp cái gác xép. Có một giường đôi với tấm đệm trần, một bàn đầu giường và một tủ ngăn kéo.
Blomkvist để một lúc lục lọi kỹ căn nhà gỗ. Bàn làm việc trống rỗng trừ vài cái chiếc khăn tay và vải thoang thoảng mùi mốc. Trong tủ quần áo có vài bộ quần áo lao động, một đôi áo khoác, ủng cao su, một đôi giày tennis cũ nát và một lò đốt bằng dầu hỏa. Trong các ngăn kéo bàn làm việc là giấy viết, bút chì, một cỗ bài và vài cái gài đánh dấu trang sách. Trong tủ bếp có đĩa, cốc vại, cốc thủy tinh, nến và vài gói muối, vài túi trà. Trong ngăn kéo bàn có các dụng cụ bếp núc.
Anh tìm thấy những dấu vết duy nhất cho thấy sự quan tâm đến tri thức ở trên bàn làm việc. Mikael bắc một cái ghế để ngó lên giá sách. Ở ngăn dưới cùng có mấy số Se, Recordmagasinet, Tidsfordriv và Lektyr từ cuối những năm 50 và đầu 60. Có vài tờ báo hàng ngày từ 1965 và 1966, Matt Livs Novell, và một vài truyện tranh: Số 91, Những người ma và Những người Digan. Anh mở một tờ Lektyr từ 1964 rồi tủm tỉm cười thấy các cô gái gợi dâm nom trinh trắng quá.
Chừng một nửa sách là bìa thường thuộc xe ri Manhaltan của Wahlstrom: Mickey Spillane với các đầu đề như Hôn em đi, Chết người với các bìa kinh điển của Bertil Hegland. Anh tìm thấy hơn chục sách của Kitty, bộ năm tiểu thuyết nổi tiếng của Enid Blyton, và Bí mật Tàu điện ngầm của Sivar Ahlrud. Anh tủm tỉm nhận ra chốn quen thuộc. Ba quyển của Astrid Lindgren: Những đứa con của Ngôi làng huyên náo, Kalle Blomkvist và Rasmus, và Pippi Tất dài. Ngăn trên cùng có một quyển sách hướng dẫn nuôi chim, một sách với tên Đế chế Xấu xa, một quyển về Chiến tranh Mùa đông của Thụy Điển, sách giáo lý của Luther, Sách về các Thánh ca, và Kinh thánh.
Anh mở Kinh thánh, đọc trang bên trong: Harriet Vanger, 12 tháng Năm, 1963. Đây là Kinh thánh Xác chứng của cô gái. Anh bùi ngùi đặt nó trở về ngăn giá.
Đằng sau căn nhà có một lán gỗ và dụng cụ với một lưới hái, cào, búa và một thùng to những cưa, bào và nhiều dụng cụ khác. Anh đem một chiếc ghế đến cổng có mái rồi rót cà phê ở trong phích ra. Anh châm một điếu thuốc lá và nhìn suốt vịnh Hedestad qua tấm màn che của những bụi cây thấp cằn.
Căn nhà gỗ của Gottfried xuềnh xoàng hơn là anh tưởng. Đây là nơi mà Harriet và bố của Martin rút về khi hôn nhân của ông với Isabella đang tới đoạn cuối hồi những năm 50. Ông đã lấy căn nhà gỗ này làm nhà và ở đây ông đã rượu chè say sưa. Ông chết đuối dưới kia, gần cầu tàu. Sống ở căn nhà gỗ về mùa hè hẳn là dễ chịu, nhưng khi nhiệt độ tụt xuống dưới âm đóng băng thì chắc chắn phải lạnh buốt. Theo lời Henrik, Gottfried tiếp tục làm việc cho Tập đoàn Vanger cho tới năm 1964 – thời kỳ này thường bị gián đoạn vào những lúc ông say xỉn. Việc ông có thể ít nhiều vừa thường xuyên sống trong căn nhà gỗ này mà vẫn xuất hiện ở chỗ làm việc với râu ria cạo nhẵn, tắm rửa sạch sẽ, xúng xính trong áo jacket và cà vạt cũng đã cho thấy ông là người nghiêm khắc với bản thân mình tới mức nào. Và đây cũng là nơi Harriet thường hay ở đến mức họ đã đến đây tìm cô trước tiên. Vanger đã bảo anh rằng trong năm cuối cùng của mình, Harriet hay đến căn nhà gỗ, có vẻ để được yên tĩnh trong những ngày nghỉ lễ hay cuối tuần. Trong mùa hè cuối cùng, cô đã sống ba tháng ở đây tuy hàng ngày có vào làng. Anita Vanger, em của Cecilia, sống sáu tuần với cô ở đây.
Khi chỉ có một mình ở đây thì cô đã làm gì? Các tạp chí Mitt Livs Novell và Người Digan cũng như một số sách về Kitty chắc phải là của cô. Có thể cả quyển vở nháp cũng là của cô. Và cuốn Kinh thánh của cô thì vẫn còn ở đây.
Phải chăng cô muốn ở gần với ông bố đã khuất – có thể đó là thời kỳ tang lễ mà cô cần trải qua đầy đủ chăng? Hay có liên quan gì đến những suy ngẫm về tôn giáo của cô? Căn nhà gỗ đạm bạc – cô có ý sống ở trong một tu viện sao?
Blomkvist đi theo bờ biển xuống phía đông nam nhưng đường luôn bị các khe núi cắt quãng và những bụi bách xù mọc đầy không thể vượt qua. Anh quay lại căn nhà gỗ và bắt đầu quay trở về Hedeby. Theo bản đồ thì có một đường mòn qua rừng đi đến một chỗ gọi là Pháo đài. Anh phải mất hai mươi phút để tìm thấy nó ở trong những bụi cây rậm rạp. Pháo đài là cái gì còn lại của tuyến phòng thủ bờ biển trong Đại chiến Thế giới thứ hai; những boong ke xi măng với những đường hào tỏa ra ở xung quanh một tòa nhà chỉ huy. Cỏ dày đặc và các bụi cây mọc trùm lên tất cả.
Anh theo một con đường mòn xuống tới nhà tàu. Cạnh nhà tàu anh tìm thấy xác một con tàu Petersson bị đắm. Anh quay lại Pháo đài, theo một đường mòn đi đến một hàng rào – anh đã đến Ostergarden từ lối bên kia. Đường mòn khó đi – có những vạt xâm xấp nước buộc phải đi vòng. Cuối cùng anh đến một đầm lầy và qua đó là một nhà kho. Như mắt anh nhìn thấy thì con đường mòn chấm hết ở đó, cách đường đi Ostergarden chừng non trăm mét.
Quả đồi Soderberget nằm ở bên kia đường. Blomkvist đi lên một con dốc dựng đứng và ở đoạn cuối thì phải trèo. Đỉnh đồi Soderberget là một vách đá tương đối thẳng đứng chiều đi xuống. Anh theo gờ đất quay về Hedeby và dừng lại bên những căn nhà gỗ nghỉ hè để thưởng thức cảnh bến cá cổ và nhà thờ cùng căn nhà gỗ của chính anh. Anh ngồi lên một tảng đá phẳng và rót chỗ cà phê âm ấm còn lại ra.
Cecilia Vanger giữ khoảng cách. Anh không muốn phiền nhiễu cho nên chờ một tuần mới đến nhà chị. Chị để anh vào.
– Chắc anh nghĩ tôi khá là rồ, một bà hiệu trưởng đáng kính, năm mươi sáu tuổi mà hành động như đứa con gái mười mấy.
– Cecilia, chị là một phụ nữ trưởng thành. Chị có quyền làm những gì mà chị muốn.
– Tôi biết nên tôi đã quyết định sẽ không gặp anh nữa. Tôi không chịu nổi…
– Xin chị mà, chị không nợ tôi một giải thích nào hết. Tôi hy vọng chúng ta vẫn là bạn.
– Tôi muốn chúng ta là bạn. Nhưng quan hệ với anh thì tôi không xoay sở nổi. Tôi vẫn vốn không được tốt trong các quan hệ. Tôi thích anh để cho tôi được yên tĩnh một thời gian.