THỨ 7, NGÀY 12, THÁNG BẢY
THỨ 2, NGÀY 14 THÁNG BẢY
5 giờ sáng, Blomkvist giật mình tỉnh dậy, quờ quờ lên cổ để dứt cái thong lọng đi. Salander nắm lấy tay anh rồi giữ cho yên. Anh mở mắt ra lờ đờ nhìn cô.
Anh không biết là em chơi golf.– Anh nói, lại nhắm mắt lại. Cô ngồi với anh cho đến hai ba phút cho đến khi chắc chắn là anh đã ngủ. Trong khi anh ngủ, Salander đã quay về tầng hầm của nhà Martin Vanger, chụp ảnh hiện trường tội ác. Cộng vào với các dụng cụ tra tấn, cô đã tìm thấy một sưu tập tạp chí khiêu dâm hung bạo và một số lớn các ảnh Polaroid chụp lấy liền dán vào các album.
Không có nhật ký. Ngoài ra cô còn tìm thấy hai cặp bìa cứng khổ A4 đựng các ảnh hộ chiếu và các ghi chép tay về phụ nữ. Cô để cái cặp này vào các túi nilong cùng với chiếc máy tính xách tay Dell của Martin mà cô tìm thấy trên cái bàn tại gian sảnh trên gác. Khi Blomkvist ngủ, cô xem xét tiếp máy tính và các cặp bìa cứng của Martin. Sau 6 giờ cô tắt máy tính. Cô châm một điếu thuốc lá.
Cùng với Mikael Blomkvist cô đã bắt tay vào cuộc săn lùng cái điều mà họ ngỡ là một tên sát nhân hang loạt ở thời kỳ trước. Họ đã tìm ra một chuyện khác hẳn đến lạ lùng. Cô khó mà hình dung ra nổi những chuyện kinh hoàng chắc đã phải cho được diễn ra ở bên dưới tầng hầm nhà Martin, tại chính giữa cái chốn thần tiên, tổ chức ngăn nắp này.
Cô cố hiểu.
Martin Vanger đã bắt đầu giết phụ nữ từ những năm 60, mỗi năm một hai người trong suốt mười lăm năm qua. Việc giết người đã được làm bí mật và có kế hoạch chu đáo khiến cho không ai ngờ nổi rằng hiện thời một tên sát nhân hàng loạt đang hành động. Làm sao lại có thể như thế được?
Mấy cái cặp bìa cứng trả lời được một phần.
Các cô gái của hắn thường là người mới đến, các cô gái di cư không bè bạn hay quan hệ xã hội ở Thuỵ Điển. Cũng có cả gái điếm và những cô thất cơ lỡ vận, nghiện ngập ma túy hay vướng các vấn đề khác trong quá khứ của họ.
Nghiên cứu tâm lý học về bạo dâm tính dục, Salander biết rằng kiểu những tên giết người này thường sưu tập những kỷ vật lấy từ nạn nhân. Những kỷ vật này có tác dụng làm thứ gợi nhớ cho tên giết người có thể sử dụng để tái tạo lại cái khoái lạc hắn đã hưởng thụ. Martin Vanger đã phát triển cái nét quái gở này đến nước hắn giữ hẳn một “quyển sách về cái chết”. Hắn đã vào sổ và xếp hạng các nạn nhân. Hắn đã tả lại những nỗi đau đớn của họ. hắn đã quay phim và chụp ảnh việc giết người của hắn để làm tài liệu.
Bạo lực và giết là mục tiêu nhưng Salader kết luận việc săn lùng mới là thích thú đầu sổ của Martin Vanger. Hắn đã tạo ở trong máy tính xách tay một cơ sở dữ liệu với một danh sách của hơn một trăm phụ nữ. Có những nhân viên làm thuê ở tập đoàn Vanger, các nữ phục vụ viên ở các nhà hàng hắn quen đến ăn đều đặn, các nhân viên tiếp tân ở các khách sạn, các thư ký ở các cơ sở bảo hiểm xã hội cũng như các nơi hợp tác kinh doanh và nhiều phụ nữ khác. Tực hồ mọi phụ nữ mà Martin có dịp tiếp xúc đều được hắn đem phân loại xếp hạng và cất giữ trong ngay trongđầu.
Hắn chỉ giết một vài người trong đám phụ nữ này, nhưng bất cứ một phụ nữ nào ở đâu đó ở gần hắn thì đều là nạn nhân tiềm năng của hắn. Việc vào sổ các nạn nhân là một thú vui riêng và thời gian mà hắn dành cho nó chắc phải là không thể đếm xuể.
Ả có chồng hay độc thân? Ả có gia đình hay con cái không? Ả làm ở đâu? Ả sống ở đâu? Ả lái loại xe gì? Học vấn của ả ra sao? Màu tóc? Màu da? Mặt mũi?
Việc thu thập thông tin về cá nhân các nạn nhân tiềm năng hẳn phải là một bộ phận quan trọng ở trong các cuồng ảo tính dục của Martin Vanger. Hắn trước hết là một tên lén lút dõi theo, thứ đến mới là một tên giết người.
Khi đọc xong, cô đã phát hiện ra một chiếc phong bì nhỏ ở một trong hai cái cặp bìa cứng. Cô rút ra hai tấm ảnh Polaroid đã bị cầm lên nhiều lần và phai màu. Trong bức thứ nhất, một cô gái tóc đen đang ngồi ở một chiếc bàn. Cô gái mặc jean nhưng mình trần với hai cái vú nhỏ nhu nhú. Cô quay mặt khỏi máy ảnh, một tay giơ lên như đang trong tư thế tự vệ, tựa như bị chụp bất ngờ. Trong ảnh thứ hai cô hoàn toàn trần truồng. Cô nằm xấp trên một mảnh khăn trải giường màu xanh lơ. Mặt vẫn quay đi khỏi máy ảnh.
Salander nhét chiếc phong bì với hai tấm ảnh vào túi jacket. Sau đó cô mang các cặp bìa cứng ra bếp lò, đánh một que diêm. Khi lửa đã cháy lụi, cô gạt tàn than. Trời trút mưa xuống khi cô ra ngoài đi bộ gần nhà và quỳ xuống như thể buộc lại dây giầy, cô đã kín đáo thả chiếc máy tính xách tay của Martin xuống nước ở dưới cầu.
7 giờ rưỡi sáng hôm ấy khi Frode bước qua cửa để ngỏ đi vào, Salander đang ngồi uống cà phê và hút thuốc lá ở bàn bếp. Mặt Frode xám ngoét, nom vẻ như ông đã qua một đêm hãi hùng.
– Mikael đâu? – ông nói
– Anh ấy còn ngủ.
Frode quăng phịch người xuống chiếc ghế dựa. Salander rót cà phê và đẩy cái tách lại đằng ông.
– Martin… tôi vừa được tin là Martin bị tai nạn xe chết đêm hôm qua.
– Thế thì buồn. – Salander nói, làm một ngụm cà phê.
Frode ngước lên. Thoạt đầu ông đăm đăm nhìn cô, không hiểu. Rồi mắt ông mở to ra.
– Cái gì chứ?
– Ông ấy bị đâm xe. Đáng rầu.
– Cô biết gì về chuyện này?
– Ông ấy cho xe tông thẳng vào mũi một chiếc xe tải. Ông ấy tự sát. Báo chí này, căng thẳng stress này, một đế chế tài chính nghiêng ngả này, chấm, chấm, chấm, quá nhiều thứ cho ông ta. Tôi cho rằng những cái ấy ít nhất cũng sẽ lên các bảng tin.
Frode nom như vừa bị một cơn xuất huyết não. Ông đứng vội lên và đi lảo đảo vào phòng ngủ.
– Để anh ấy ngủ. – Salander quạc.
Frode nhìn vào khuôn mặt đang ngủ. Ông thấy các quầng đen và xanh ở trên mặt Blomkvist và những chỗ bầm sưng ở trên ngực anh. Rồi ông trông thấy một đường đỏ như lửa, nơi thòng lọng đã thắt ở đó. Salander đụng vào tay ông rồi đóng cửa lại. Frode trở ra, sụp xuống chiếc ghế dài trong bếp.
Salander kể vắn tắt lại những chuyện xảy ra đêm qua. Cô tả cho ông gian phòng kinh hoàng của Martin Vanger nom ra sao, cô đã tìm thấy Mikael nằm ở đó, thòng lọng siết ở cổ còn ông cầm đầu tập đoàn Vanger thì đứng ở trước cái thân hình trần truồng như thế nào. Cô bảo ông hôm trước đó cô đã tìm được những gì ở trong tài liệu của công ty và cô đã dựng ra được như thế nào một mối liên hệ có thể có giữa bố Martin với các tên sát nhân của ít nhất bảy phụ nữ.
Frode chỉ cắt ngang có một lần bài đọc thuộc lòng của cô. Khi cô ngừng kể, ông ngồi lặng một lúc rồi mới hít một hơi thở dài và nói:
– Chúng ta sẽ làm gì bây giờ?
– Không phải chuyện tôi phải lên tiếng. – Salander nói.
– Nhưng…
– Như tôi biết thì tôi chưa có đặt chân lên Hedestad bao giờ.
– Tôi không hiểu.
– Muốn thế nào tôi cũng không thích có tên tôi ở trong báo cáo của cảnh sát. Tôi sống là không có dính líu vào bất kỳ một báo cáo nào loại này. Nếu nhắc đến tên tôi vì nó có liên qaun với câu chuyện này thì tôi sẽ chối phăng là tôi không hề ở đấy và tôi sẽ không trả lời bất cứ câu hỏi nào.
Frode thắc mắc nhìn cô.
– Tôi không hiểu.
– Ông không cần hiểu.
– Vậy tôi nên làm gì?
– Ông sẽ tự giải quyết lấy. Miễn là để cho tôi và Blomkvist ở ngoài.
Frode mặt nhợt nhạt như đã chết.
-Ông hãy nhìn chuyện này theo kiểu: ông chỉ biết một điều là Martin Vanger chết vì tai nạn xe cộ. Ông không biết anh ta cũng là một kẻ sát nhân hàng loạt điên loạn, và ông cũng chưa hề nghe nói đến gian hầm tra tấn của anh ta.
Cô để chiếc chìa khóa ở giữa hai người.
– Ông có thì giờ đấy – lúc chưa có ai đến dọn dẹp nhà Martin rồi phát hiện ra cái tầng hầm.
– Chúng ta phải đi báo cảnh sát về chuyện này.
– Không phải chúng ta. Ông thích thì có thể đến cảnh sát.
– Không thể cho chuyện này xuống dưới tấm thảm mà xóa nó đi được.
– Tôi không mách ông nên xóa nó ở đâu, tôi chỉ bảo ông để tôi và Blomkvist ở ngoài câu chuệyn này. Khi tìm ra cái buồng, ông sẽ rút lấy kết luận và tự quyết định nên nói chuyện cái hầm ấy với ai.
– Nếu cô nói đúng sự thật thì có nghĩa Martin đã bắt cóc và giết phụ nữ… chắc có những gia đình thất vọng vì họ không biết là con cái họ ở đâu. Chúng ta không thể…
– Đúng thế. Nhưng khổ là những cái xác đều không còn. Ông có thể tìm các hộ chiếu hay thẻ căn cước ở trong mấy cái ngăn kéo, có thể nhận diện ra vài nạn nhân qua video. Nhưng ông không cần quyết định hôm nay đâu. Hãy nghĩ đến nó đã.
Frode nom hoảng loạn.
– Ôi lạy Chúa. Thế này họa là bằng công ty sập tiệm mất. Hãy nghĩ đến bao nhiêu gia đình sẽ mất kế sinh sống nếu chuyện Martin lộ ra…
Frode đung đưa người, cân nhắc ở trong cái thế lưỡng nan về luân lý.
– Có một vấn đề này. Ông có thấy là sẽ không thích hợp nếu Isabella kế thừa mà lại là người đầu tiên rọi ánh sáng vào trò vui thú riêng của con trai bà không.
– Tôi phải đi xem…
– Tôi nghĩ hôm nay ông nên xa cái gian phòng ấy. – Salander nói như dao chém đá. – Ông có nhiều điều phải chăm lo đến. Ông cần phải đi nói với Henrik và ông cần phải triệu tập một cuộc họp ban giám đốc công ty rồi làm mọi thứ việc mà các cộng sự của ông vẫn làm khi các CEO của họ chết.
Frode nghĩ về điều cô gái nói. Tim ông đập thình thịch. Ông là một luật sư gạo cội của công ty và là người giải quyết vấn đề vốn được chờ đợi và luôn có sẵn một kế hoạch đối phó với mọi tình huống bất trắc nhưng ông lại cảm thấy mình bất lực không thể hành động. Ông đang ở đây nhận lệnh của một đứa trẻ ranh. Như thế nào đó cô gái lại đang kiểm soát tình hình và cho ông những hướng dẫn mà bản thân ông không thể diễn đạt.
– Còn Harriet…?
– Mikael và tôi còn chưa kết thúc. Nhưng ông có thể bảo với Henrik rằng chúng tôi đang sắp giải quyết được chuyện đó.
Việc Martin Vanger bất ngờ chết là tin hàng đầu bảng của buổi tin 9 giờ trên đài phát thanh khi Blomkvist thức dậy. Về các sự kiện hồi đêm, không có thông báo nào khác ngoài việc nói rằng vì lý do gì không rõ nhà công nghiệp lái xe xuống phía nam đã phóng nhanh sang phần đi ngược chiều của quốc lộ E4. Ông chỉ có một mình trong xe hơi.
Đài phát thanh địa phương chạy một tin nói đến nỗi lo âu về tương lai của Tập đoàn Vanger. Và những hậu quả mà cái chết này chắc chắn sẽ đem lại cho công ty.
Hãng tin TT đưa tin về một bữa ăn trưa bố trí vội vã với đầu đề MỘT THỊ TRẤN CHẤN ĐỘNG cũng đã tóm tắt các vấn đề của Tập đoàn Vanger. Nó tránh nêu ra rằng chỉ riêng ở Hedestad thôi, hơn 3.000 người trong số 21.000 cư dân của thị trấn đã là nhân viên của Tập đoàn Vanger, hay nói cách khác, lệ thuộc vào sự thịnh vượng của công ty. CEO của công ty đã chết, vị nguyên CEO thì ốm nặng vì đột quỵ. Không có người thừa kế tự nhiên. Tất cả những điều này xảy ra vào một lúc được coi là gay gắt nhất trong lịch sử công ty.
Blomkvist vẫn có ý định đi đến cảnh sát Hedestad để báo họ những chuyện xảy ra đêm qua nhưng Salander đã làm theo một quá trình của cô. Do anh không lập tức gọi cảnh sát nên nay mỗi giờ qua đi lại càng khó báo với họ hơn. Anh ủ rũ ngồi trên ghế dài trong bếp suốt sáng, im lặng nhìn mưa bên ngoài. Khoảng 10 giờ, mây lại kéo đến nhưng lúc ăn trưa mưa tạnh và gió lặng. Anh đi ra, lau các đồ đạc trong vườn rồi ngồi xuống với một cốc cà phê.
Martin chết, việc ấy cố nhiên phủ bóng lên cuộc sống thường ngày ở Hedeby. Các xe hơi bắt đầu đỗ ở bên ngoài nhà Isabella Vanger khi gia tộc tụ tập lại để chia buồn. Salander dửng dưng quan sát cuộc lễ.
– Anh thấy sao? – cuối cùng cô hỏi.
– Anh vẫn còn bị sốc, – anh nói. – Anh bất lực. Mấy giờ qua anh cầm chắc anh chết. Anh thấy sợ chết và anh thì chả làm được việc gì.
Anh đặt tay lên đầu gối cô.
– Cảm ơn em, – anh nói. – nhưng anh lẽ ra là chết vì em chứ nhỉ.
Salander mỉm cười lấy lệ.
– Dẫu sao… Anh không hiểu sao em lại ngu đến nước tự em một mình đối phó với hắn. anh bị xích bẹp dí xuống sàn, cứ cầu sao em trông thấy cái cảnh này để mà vắt chân lên cổ chạy đi gọi cảnh sát.
– Nếu em đi gọi cảnh sát thì anh chả còn sống đến bây giờ. Em không để cho thằng cha ấy nó giết anh được.
– Tại sao em không muốn nói chuyện với cảnh sát?
– Em không nói chuyện với các nhà chức trách bao giờ.
– Sao lại không?
– Đó là việc của em. Nhưng trong trường hợp anh, em nghĩ để cho rùm beng lên chuyện nhà báo bị Martin Vanger, tên giết người hàng loạt nổi tiếng lột trần lột truồng ra thì cũng sẽ chả nổi đình đám gì được cho sự nghiệp. Nếu anh không thích cái tên “Kalle Blomkvist” thì anh nên phòng hờ đến một biệt hiệu hoàn toàn mới khác. Chỉ là chớ có mà nhận lấy nó để bù vào cho chương này ở trong cái đời anh dũng của anh thôi.
Con mắt anh dò hỏi nhìn cô rồi anh buông vấn đề.
– Chúng ta vẫn còn một chuyện. – Cô nói.
Blomkvist gật:
– Chuyện Harriet.
Salander để hai tấm ảnh Polaroid lên bàn ở trước mặt anh. Cô nói rõ đã tìm thấy chúng ở đâu. Anh xem kỹ chúng một lúc rồi ngửng lên.
– Có thể là chị ấy. – Cuối cùng anh nói. – Anh không dám cam đoan nhưng hình dáng và màu tóc này làm anh nhớ đến một bức ảnh anh đã xem.
Họ ngồi trong vườn khoảng một giờ, ghép các chi tiết lại. Họ phát hiện thấy mỗi chi tiết, đứng riêng rẽ và xem từ ở nhiều phía, đều đã chỉ ra Martin Vanger là cái mắt xích bị mất.
Salander không tìm bức ảnh mà Blomkvist để ở trên bàn bếp. Cô đã đi tới kết luận rằng Blomkvist đã làm một việc thật ngu ngốc sau khi nghiên cứu các bức ảnh của các camera kiểm soát. Cô đã đến nhà Martin Vanger bằng lối bờ biển, đã nhìn vào tất cả các cửa sổ và không thấy một ai. Cô đã thử mở các cửa và cửa sổ ở tầng trệt. Cuối cùng cô leo qua một cửa ban công để ngỏ ở trên gác. Cô đã phải mất một lúc lâu đi lại hết sức thận trọng để tìm kiếm ngôi nhà, từng phòng một. Cuối cùng cô tìm thấy cầu thang xuống tầng hầm. Martin đã cẩu thả. Hắn khép hờ cửa vào gian buồng kinh hoàng của hắn nên cô đã có thể dựng lên được một ấn tượng rõ ràng về tình hình.
Blomkvist hỏi cô có nghe được nhiều những điều Martin nói không.
– Không nhiều. Em vào đó khi hắn đang hỏi anh về chuyện gì đã xảy ra với Harriet, ngay trước lúc hắn treo anh lên bằng cái thòng lọng. Em bỏ đi vài phút rồi quay lại kiếm một vũ khí.
– Martin không biết Harriet đã bị làm sao. – Blomkvist nói.
– Anh có tin không?
– Có. – Blomkvist nói ngay không chút ngập ngừng. – Martin còn nhẹ dạ hơn một thằng bị kim la xắng téng hôi thối – anh lấy được cái ví von này ở đâu đây? – nhưng hắn đã thú thật hết những tội ác của hắn. Anh nghĩ hắn muốn làm cho anh nể phục. Nhưng khi đến Harriet thì như Henrik Vanger, hắn cũng nóng lòng muốn tìm ra chuyện.
– Vậy… cái này đưa chúng ta đến đâu?
– Chúng ta biết Gottgried chịu trách nhiệm về loạt án mạng đầu tiên giữa năm 1949 và 1965.
– OK. Và hắn truyền cho Martin nhỏ.
– Một gia đình bát nháo về chức năng là như thế đấy. – Blomkvist nói. – Thật tình Martin chả có cơ may nào tránh thoát.
Vẻ lạ lẫm, Salander nhìn anh.
– Martin bảo anh là – mặc dù hắn nói lang ba lang bang – bố hắn đã cho hắn học nghề ngay từ khi hắn dậy thì. Hắn có mặt ở đấy, tại vụ giết Lea ở Uddevalla năm 1962. Hắn mười bốn, lạy Chúa. Hắn có mặt ở đấy, tại vụ giết Sara năm 1964 và lần này thì hắn có tích cực góp phần. Khi ấy hắn mười sáu.
– Rồi?
– Hắn nói hắn chưa có đụng vào một người đàn ông nào – trừ bố hắn. Làm cho anh nghĩ rằng… đúng, duy nhất kết luận được là bố hắn đã hiếp hắn. Martin gọi đó là “nghĩa vụ” của hắn. Các xâm hại tính dục chắc đã tiếp diễn một thời gian dài. Hắn được bố hắn giáo dưỡng, có thể nói như thế.
– Cục cứt. – Salander nói, giọng sắc như một lưỡi dao.
Blomkvist ngạc nhiên nhìn cô. Một ánh ương bướng trong mắt cô. Không một chút thiện cảm ở đó.
– Cũng giống như tất cả ai khác, Martin có cơ hội đánh trả lại mà. Hắn giết và hiếp là vì hắn thích thế.
– Anh cũng đâu có nói khác. Nhưng Martin là một thằng con trai bị đàn áp và chịu ảnh hưởng của bố, y như Gottfried cú bố lão ta, một tên Quốc xã vậy.
– Vậy anh cho là Martin không có ý chí của riêng hắn và con người ta được dạy dỗ thế nào thì sẽ thành ra y như vậy à?
Blomkvist cười thận trọng.
– Vấn đề này nhạy cảm ư?
Mắt Salander giận dữ lóe rực lên. Blomkvist vội nói tiếp.
– Anh chỉ nói là anh nghĩ việc giáo dục của một người là có vai trò của nó. Bố của Gottfried đã đánh ông ta hằng năm ròng không thương xót. Cái đó để lại dấu vết.
– Cục cứt. – Salander lại nói. – Gottfried không phải là đứa bé duy nhất bị ngược đãi. Việc đó không cho lão ta cái quyền được giết phụ nữ. Lão ta chọn cho lão cái đó. Với Martin thì cũng như vậy.
Blomkvist giơ tay lên.
– Chúng ta không cãi nhau được không nhỉ?
– Em không cãi. Em chỉ nghĩ lâm li thay là cái bọn sâu bọ này luôn phải có một ai đó khác để mà trách móc.
– Chúng chịu trách nhiệm về cá nhân chúng chứ. Sau này chúng ta sẽ làm rõ ra chuyện này. Điều đáng nói là khi Gottfried chết, Martin mới mười bảy tuổi, hắn chẳng có ai hướng dẫn. Hắn cố đi theo bước chân của bố. Tháng Hai, 1966 ở Uppsala.
Blomkvist với lấy một điếu thuốc của Salander.
– Anh không suy luận về việc Gottfried đã cố thỏa mãn dục lực nào trong lão hay lão đã diễn giải như thế nào những cái lão đang làm. Một nhà phân tâm học có thể hình dung ra đây là một kiểu tập tọng giải nghĩa Kinh thánh nào đó, một cái gì đó liên quan đến trừng phạt và thanh lọc hiểu theo nghĩa bóng. Nó là cái gì thì không quan trọng. Chỉ biết lão là một tên giết người hàng loạt không có gì độc đáo.
– Gottfried muốn giết phụ nữ nhưng bọc hành động của lão vào một trò ba láp giả mạo tôn giáo. Martin lại không thèm có một lý do nào nữa kia. Hắn đã tổ chức và thực hiện có hệ thống việc giết chóc. Hắn cũng lại có tiền để ném vào thú vui riêng này. Và hắn nhát gan hơn bố hắn, Gottfried mỗi phen để lại một cái xác ở đằng sau và đều dẫn đến một cuộc điều tra của cảnh sát cùng với nguy cơ có người mò ra được chính lão, hay ít nhất liên hệ tới những tên giết người khác.
– Martin xây nhà của hắn hồi những năm 70. – Salander nói tư lự.
– Henrik nói là vào năm 1978. Nghe nói hắn sai xây một phòng an toàn để cất các hồ sơ quan trọng hay một vài mục đích gì đó. Hắn đã có một buồng với thiết bị cách âm, không cửa sổ và một cửa ra vào bằng thép.
– Hắn đã có cái buồng này trong hai mươi lăm năm.
Hai người im lặng một lúc trong khi Blomkvist nghĩ biết bao nhiêu điều tàn khốc đã xảy ra ở đây trong một phần tư thế kỷ. Salander chả cần bận tâm đến cái chuyện này; cô đã xem các video. Cô để ý thấy Blomkvist hay bất giác sờ sờ lên cổ.
– Gottfried ghét phụ nữ và cùng với lúc đang dạy con trai ghét phụ nữ thì lão hiếp con trai lão. Nhưng cũng có một thứ ẩn ý nào đó ở đây… Anh nghĩ Gottfried hoang đường mơ tưởng rằng các con lão sẽ chia sẻ với lão cái thế giới quan sa đọa của lão, hãy tạm nói là thế. Khi anh hỏi Martin về Harriet, cô em gái duy nhất của hắn thì hắn nói: Chúng tôi đã cố nói chuyện với nó. Nhưng nó chỉ là một đứa tầm thường. Nó định hót với Henrik.
– Em đã nghe hắn nói. Lúc em sắp xuống dưới tầng hầm. Và như thế có nghĩa là chúng ta biết được cái điều mà trong câu chuyện mà Harriet muốn nói với Henrik nhưng không thành.
Blomkvist nhăn mặt.
– Không đúng. Em hãy nghĩ đến thứ tự thời gian. Ta không biết Gottfried hiếp con trai lần đầu tiên vào lúc nào nhưng lão đưa Martin đi khi lão giết Lea Persson ở Uddevalla năm 1962. Lão chết đuối năm 1965. Trước đó lão và Martin đã định nói với Harriet. Cái đó dẫn chúng ta tới đâu đây?
– Martin không phải là người duy nhất mà lão xâm hại. Lão cũng đã xâm hại cả Harriet.
– Gottfried là ông thầy, Martin là học trò. Vậy Harriet là cái gì? Đồ chơi của hai tay kia à?
– Gottfried dạy Martin làm bậy em gái. – Salander chỉ ngón tay vào tấm ảnh Polaroid.
– Khó mà xác định được thái độ chị ấy từ hai bức ảnh này vì chúng ta không nhìn thấy mặt chị ấy, nhưng chị ấy cố giấu mặt đi khỏi máy ảnh.
– Hãy cứ cho là chuyện này bắt đầu khi chị ấy mười bốn, năm 1964. Chị tự chống đỡ – không thể chấp nhận chuyện ấy, như Martin nói. Chị ấy doạ nói với Henrik chuyện ấy. Trong tương quan này rõ rệt là Martin chả có cái gì để mà nói sất; hắn chỉ làm cái mà bố hắn bảo làm. Nhưng hắn và Gottfried đã hình thành nên một kiểu…hiệp ước nào đó và chúng cố làm Harriet nhập môn luôn.
Salander nói:
-Trong các ghi chép của anh, anh viết rằng Henrik để cho Harriet dọn đến ở nhà của ông vào mùa đông năm 1964.
-Có thể Henrik đã thấy có một chuyện gì không phải ở trong gia đình ông, Ông nghĩ là chuyện cãi vã và xích mích giữa Gottfried với Isabella là nguyên nhân, ông đưa Harriet đến nhà để cho chị ấy được phần nào yên ổn và tĩnh lặng cũng như tập trung học hành.
Một vật cản không ngờ tới trước cho Gottfried và Martin. Chúng không thể dễ dàng đặt tay lên chị ấy hay kiểm soát cuộc đời của chị ấy nữa. Nhưng cuối cùng… các lần xâm hại diễn ra ở đâu nhỉ?
-Chắc là ở căn nhà nhỏ của Gottfried. Em gần như khẳng định rằng hai bức ảnh này là chụp ở đấy – cũng có thể kiểm tra ra thôi. Căn nhà này ở một vị trí hoàn hảo, cách biệt và xa làng. Rồi Gottfried bị say một lần cuối cùng và chết bằng một các vô duyên nhất.
– Vậy là bố Herriet đã toan làm tình với chị ấy nhưng em đoán là lão ấy không vỡ lòng cho chị ấy chuyện giết người.
Blomkvist nhận thấy đây là một điểm yếu. Harriet đã ghi lại tên các nạn nhân của Gottfried, cho chúng đi kèm các câu thơ dẫn của Kinh thánh, nhưng đến những năm cuối cùng chị ấy mới bắt đầu quan tâm đến kinh thánh và lúc ấy thì Gottfried đã chết. Anh ngừng lại, cố đi đến một kết luận lô gích.
-Dần dần Harriet cũng phát hiện ra Gottfried không chỉ là một tên loạn luân mà còn là một kẻ giết người hàng loạt.
-Chúng ta không biết khi nào thì chị ấy phát hiện ra các vụ giết người. Có thể là ngay trước khi Gottfried chết đuối. Cũng có thể là sau nếu như lão ấy có nhật ký hay lưu cắt dán báo về các vụ đó. Một cái gì đó đưa chị ấy vào được lõng của lão ấy.
– Nhưng đó không phải là điều chị ấy doạ nói với Henrik – Blomvist nói.
– Là Martin – Salander nói – bố chị ấy đã chết nhưng Martin vẫn tiếp tục lạm dụng chị ấy.
– Đúng thế.
– Nhưng đó là năm trước khi chị ấy quyết định hành động.
– Em sẽ làm gì nếu em phát hiện bố em là tên giết người và hiếp anh trai em?
– Em giết luôn thằng khốn nạn – Salander nói, cái giọng lạnh lùng khiến cho anh tin.
Anh nhớ lại mặt cô khi đánh Martin Vanger.Anh cười chả vui chút nào.
– OK, nhưng Harriet không giống em.Gottfried chết nhưng chị ấy làm được một cái gì. Như thế cũng có ý nghĩa đấy. Khi Gottfried chết, Isabella cử Martin đi Uppsala. Hắn có thể về nhà dự lễ Noel hay một nghi lễ nào đó nhưng cả một năm sau đó hắn rất ít hay gặp Harriet, chị ấy cũng có thể ở xa hắn phần nào.
– Và bắt đầu nghiên cứu Kinh thánh.
– Và nay trong ánh sáng đó chúng ta biết chị ấy làm việc đó không hề vì một lý do tôn giáo nào cả. Có thể chị ấy chỉ muốn biết bố chị ấy đã đi đến thành ra cái thứ gì. Chị ấy nghiền ngẫm chuyện này cho đến lễ Ngày Trẻ con năm 1966. Rồi thình lình chị ấy thấy anh trai ở Jarnvagsgatan và hiểu ra là hắn đã trở lại.Chúng ta không biết hai anh em có nói chuyện với nhau không hay anh ta đã nói cái gì. Nhưng bất kể xảy ra chuyện gì thì Harriet cũng cảm thấy cần khẩn cấp về nhà nói với Henrik.
– Và rồi chị ấy mất tích.
Sau khi hai người rà lại chuỗi sự kiện thì hiểu ra phần còn lại của bài đố ghép hình chắc phải là như thế nào sẽ không còn khó nữa. Blomkvist và Salander đóng gói vali, ba lô lại trước khi rời đó, Blomkvist gọi Frode bảo ông rằng anh và Salander có việc phải đi một thời gian nhưng anh cần phải gặp Henrik trước khi đi.
Blomvist cần biết Frode đã nói những gì với Henrik. Ông ta có vẻ căng thẳng trong điện thoại quá đến nỗi Blomkvist thấy lo ngại cho ông ta. Frode nói ông mới chỉ báo Henrik là Martin chết vì tai nạn xe hơi.
Sấm lại dậy khi Blomkvist đỗ xe ở bên ngoài bệnh viện Hedestad, và mây đen báo mưa lại một lần nữa đùn đến đầy trời. Anh vội rảo bước qua sân thì trời bắt đầu mưa xuống.
Henrik Vanger khoác một cái áo tắm, ngồi ở một cái bàn bên cửa sổ phòng ông. Bệnh hoạn đã để lại dấu vết nhưng mặt Henrik đã lấy lại đôi chút màu sắc, ông nom như đang ở trên đường hồi phục. Họ bắt tay nhau, Blomkvist đề nghị cô y tá để cho hai người nói chuyện riêng ít phút.
– Anh tránh tôi đấy nha. – Henrik nói.
Mikael gật đầu.
– Theo yêu cầu. Gia đình ông không muốn tôi đến, nhưng hôm nay ai cũng ở nhà Isabella.
– Tội nghiệp Martin.- Henrik nói.
– Henrik, ông trao cho tôi nhiệm vụ đào bới sự thật về chuyện gì đã xảy đến với Harriet. Ông có mong đợi sự thật không đau đớn không?
Ông già nhìn anh.Rồi mắt ông mở to ra.
– Martin?
– Anh ấy là một phần của câu chuyện.
Henrik nhắm mắt lại.
– Nay tôi có một câu muốn hỏi ông. – Blomkvist nói.
– Nói đi.
– Ông vẫn muốn biết điều gì đã xảy ra chứ? Cho dù chuyện đó quay ra lại là đau đớn, thậm chí sự thật lại còn tệ hại hơn cả ông tưởng tượng nữa chứ?
Henrik nhìn Blomkvist hồi lâu, rồi ông nói:
– Tôi muốn biết. Đây là ý của tôi khi trao việc này cho anh.
– OK, tôi nghĩ tôi biết chuyện gì đã xảy ra với Harriet. Nhưng vẫn còn thiếu một miếng cuối cùng của bài đố ghép hình cho nên tôi chưa dám chắc.
– Anh nói tôi xem.
– Không, hôm nay thì chưa được.Cái điều ngay bây giờ tôi muốn ông làm là nghỉ ngơi. Các bác sĩ nói cơn nguy kịch đã qua rồi và tình hình của ông đang khá lên.
– Anh bạn trẻ, chớ cư xử với tôi như một đứa trẻ nha.
– Tôi chưa tìm xong được tất cả câu chuyện. Tôi mới có về lý lẽ thôi. Tôi đang đi tìm miếng hình cuối cùng để ghép vào. Lần sau ông gặp tôi, tôi sẽ bảo ông toàn bộ câu chuyện. Có thể mất một thời gian nhưng xin ông biết cho là tôi sẽ quay lại và ông sẽ biết sự thật.
Salander kéo tấm vải cao su lên che cái xe máy để ở bên phía râm của căn nhà gỗ nhỏ. Rồi cô lên chiếc xe hơi Blomkvist mượn. Cơn dông đã lại bắt đầu dữ dội thêm và ngay ở phía nam của Gavle đã có một trận mưa lớn khiến Blomkvist không nhận được ra đường. Để an toàn, anh cho xe vào một trạm xăng. Chờ mưa tạnh cho nên mãi 7 giờ tối hôm ấy họ mới đến được Stockhom. Blomkvist cho Salander mã khóa bảo hiểm của tòa nhà của anh rồi thả cô xuống giữa đường xe điện ngầm trung tâm. Căn nhà của anh trông không ra chốn quen thuộc.
Anh chạy máy hút bụi rồi lau chùi bàn ghế trong khi Salander đi gặp Dịch bệnh. Cô đến nhà Blomkvist vào quãng nửa đêm và bỏ mười phút ra xem xét các xó xỉnh, khe nứt, vết rạn của căn nhà. Rồi cô đứng một lúc lâu ở cửa sổ, nhìn khung cảnh đối diện với các cửa cổng ở Slussen.
Họ cởi quần rồi đi ngủ.
Trưa hôm sau, họ đổ bộ xuống sân bay Gatwick London. Họ lại gặp mưa. Blomkvist thuê một phòng ở khách sạn James gần quảng trường Hyde Park, một khách sạn khá so với tất cả các chỗ một sao ở Bayswater, nơi trong các chuyến đến London trước đây anh thường đến trọ.
5 giờ chiều họ đứng ở quầy bar thì có một anh chàng đi đến. Gần như hói, bộ râu cằm màu vàng, anh ta mặc quần jean và chiếc jacket to quá cỡ.
– Vò vẽ?
– Chúa Ba Ngôi?- cô nói. Hai người gật đầu với nhau. Anh ta không hỏi tên Blomkvist.
Người đối tác của Chúa Ba Ngôi được giới thiệu là Bob Chó. Anh ta ngồi trong một chiếc xe tải VW đỗ ở gần góc đường. Họ lên xe qua cửa lùa rồi ngồi xuống những chiếc ghế gập chốt chặt vào sườn xe. Trong khi Bob lái thì Vò Vẽ và Chúa Ba Ngôi nói chuyện.
– Dịch bệnh nói cái này là dính đến trò dỏng tai liếc mắt nào đó.
– Nghe lỏm điện thoại và kiểm tra thư điện tử của một máy tính. Có thể làm nhanh hay là mất một hai ngày, tùy theo sức anh ta ép đến đâu.- Lisbeth chỉ trỏ ngón tay cái về Blomkvist- Cậu có làm được không?
– Chó có rận có bọ không?- Chúa Ba Ngôi nói.
Anita Vanger sống trong một ngôi nhà mái bằng ở ngoại ô hấp dẫn của khu Thánh Albans, mạn bắc cách một giờ xe. Trong xe tải, họ thấy chị đi đến nhà mở khóa cửa, quãng sau 7 giờ rưỡi tối hôm ấy. Họ chờ cho chị yên vị, ăn bữa tối nhẹ xong ngồi vào trước tivi rồi Blomkvist mới bấm chuông.
Một bản sao giống gần như đúc với Cecilia Vanger mở cửa, vẻ mặt lịch sự dò hỏi.
– Chào Anita, tôi là Mikael Blomkvist. Henrik Vanger bảo tôi đến gặp chị. Tôi cho là chị đã biết tin về Martin.
Từ ngạc nhiên mặt chị chuyển sang thành cảnh giác. Chị biết đích xác Blomkvist là ai nhưng cái tên Henrik có nghĩa là chị buộc phải mở cửa. Chị đưa anh vào phòng khách. Anh để ý thấy một bức tranh in đá của Anders Zorn ở trên lò sưởi. Gian phòng này có thể nói là đáng yêu.
– Xin lỗi là tôi đã đường đột quấy rầy chị nhưng tôi tình cờ qua khu Thánh Albans và tôi đã cố gọi chị trong ngày.
– Tôi hiểu. Xin cho biết là chuyện gì ạ.
– Chị có định đến dự tang lễ không?
– Không, quả thật là không. Tôi và Martin không thân nhau và muốn sao tôi cũng không thể đi xa vào lúc này được.
Anita Vanger đã ở xa Hedestad ba chục năm. Sau khi bố chị quay về đảo Hedeby, chị hiếm khi đặt chân lên đó.
– Tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra với Harriet Vanger, Anita. Đến lúc nói sự thật rồi.
– Harriet? Tôi không hiểu anh định nói gì.
Blomkvist mỉm cười với vẻ ngạc nhiên giả bộ của chị.
– Chị là người bạn thân nhất của Harriet ở trong gia đình. Chị là người duy nhất chị ấy kể cho nghe câu chuyện hãi hùng của chị ấy.
– Cái điều anh vừa nói ấy, tôi không nghĩ ra nổi đâu. – Anita nói.
– Anita, chị ở trong buồng của Harriet hôm ấy. Tôi có bằng chứng về việc này ở trong ảnh, dù chị đã nói với cảnh sát điều tra Morell như thế nào đi nữa. Ít ngày nữa, tôi sẽ báo cáo với Henrik và ông ấy sẽ nghe ở đây. Tốt hơn là chị bảo tôi chuyện gì đã xảy ra.
Anita Vanger đứng lên.
– Ra ngay khỏi nhà tôi từ phút này.
Blomkvist đứng lên.
– Sớm muộn rồi chị cũng phải nói với tôi thôi mà.
– Bây giờ hay cả sau này nữa, tôi không có gì, không có cái gì hết để nói với anh cả.
– Martin chết rồi. – Blomkvist nói. – Chị không ưa Martin bao giờ. Tôi nghĩ chị chuyển đến London sống không phải chỉ để tránh gặp bố mà còn cả là để cho chị không phải gặp Martin. Như thế có nghĩa là chị cũng biết về Martin và người duy nhất có thể kể với chị là Harriet. Vấn đề là: chị làm gì với cái điều mà chị biết này cơ chứ?
Anita Vanger đóng sầm cửa vào mặt anh.
Salander thỏa mãn mỉm cười bỏ chiếc micro cài ở bên dưới sơ mi của cô ra.
– Cánh cửa vừa duỗi thẳng bản lề ra được mới hai chục giây là chị ta cầm ngay điện thoại lên. – Cô nói.
– Mã Australia, – Chúa Ba Ngôi nói, gỡ chiếc mũ nghe để xuống cái bàn nho nhỏ ở trong xe tải. – Tôi phải dò mã khu vực. – Anh mở máy tính xách tay. – OK. Chị ta gọi con số sau, nó là một điện thoại ở một thị trấn tên là Vũng Tennant, bắc suối Alice ở Lãnh thổ Bắc. Các cậu có muốn nghe câu chuyện không?
Blomkvist gật.
– Bây giờ ở Australia là mấy giờ?
– Khoảng 3 giờ sáng. – Chúa Ba Ngôi cho máy quay đĩa chạy và gắn loa vào đó. Mikael nghe chuông réo tám lần rồi một người cầm máy lên. Câu chuyện nói bằng tiếng Anh.
– Chào, tớ đây.
– Hem, tớ biết tớ là người dậy sớm thế nhưng…
– Tớ đã định gọi từ hôm qua cơ…Martin chết rồi. Hình như anh ta lái xe đâm vào một xe tải ngày hôm kia.
Im lặng. Rồi nghe như có ai dặng hắng nhưng cũng có thể là “Tốt”
– Nhưng chúng ta có một vấn đề. Một tay nhà báo kinh tởm mà Henrik móc được ở cái lỗ nào ra đã gõ vào cửa nhà tớ, ở tại Thánh Albans đây này. Hắn hỏi về những chuyện xảy ra từ 1966. Hắn biết một số.
Lại im lặng.Rồi một cái giọng chỉ huy.
– Anita. Bỏ ngay điện thoại xuống. Chúng mình không liên hệ với nhau một thời gian.
– Nhưng…
– Viết thư.Bảo tớ chuyện gì.
Và câu chuyện hết.
– Con mẹ này ghê gớm phết.- Salander nói.
Họ quay về khách sạn đúng trước 11 giờ. Nhân viên lễ tân giúp họ đặt vé máy bay cho chuyến bay đi Australia sắp tới. Rồi họ mua được vé trên một máy bay rời đây tối mai, hồi 7 giờ 05 đi Melbourne, nghỉ giữa chừng ở Singapore.
Đây là lần đầu tiên Salander thăm London. Buổi sáng họ đi dạo từ Vonvent Garden đến Soho. Họ dừng lại uống café ở phố cổ Compton. Quãng 3 giờ họ về khách sạn để thu dọn hành lý. Trong khi Blomkvist thanh toán tiền khách sạn, Salander mở di động. Cô có một tin nhắn.
– Armansky bảo gọi ngay.
Cô dùng điện thoại ở gian sảnh. Đứng xa cô một chút, Blomkvist để ý thấy cô quay lại phía anh với một bộ mặt lạnh băng. Anh lập tức đến cạnh cô.
– Gì thế?
– Mẹ em chết. Em phải về nhà.
Salander nom đau khổ khiến anh quàng tay ôm quanh người cô. Cô đẩy anh ra.
Họ ngồi ở quầy bar khách sạn. Khi Blomkvist nói có thể hủy vé đi Australia và trở về Stockhom với cô thì cô lắc đầu.
– Không. – Cô nói – Chúng ta không thể bỏ dở công việc bây giờ. Anh cần phải tự đi riêng một mình.
Họ chia tay ở trước khách sạn, người nào đi đến sây bay của người nấy.