Cô Gái Của Bố

CHƯƠNG 32



Nat đứng yên, cảnh tượng làm cô bối rối. Chiếm lĩnh hết căn phòng chờ trong cái văn phòng nhỏ bé của công ty xây dựng này là một tấm chân dung kiểu cũ của một người đàn ông trông rất quen. Ông ta có mái tóc đen và râu mép, và mặc một bộ đồ vét kiểu xưa. Cô đến bên bức tranh và đọc tấm thẻ kim loại bên dưới: Nhà sáng lập của chúng tôi, Joseph Graf, Sr.
Joseph Graf, Sr. ư? Ông này có liên quan gì đến Joe Graf, viên C.O. trong trại giam không? Ông này có phải là cha của anh ta không nhỉ?
“Tôi có thể giúp gì được cho cô, thưa cô?” một người phụ nữ đi ra từ một cánh cửa để mở phía cuối phòng hỏi. Bà ta khoảng chừng trên dưới năm mươi, mắt to, xanh, nụ cười dễ chịu, tóc nâu ngả bạc để dài xuống tới thắt lưng. Bà ta mặc một chiếc áo ấm màu nâu nhạt với dòng chữ FFA, cùng quần jean và giày thể thao.
Nat cố gắng tập trung đầu óc. “Đây là người thành lập công ty, phải không?”
“Là ông Graf ấy, mất nhiều năm trước rồi. Giờ con trai ông ấy là Jim đang điều hành công ty.”
“Buồn cười thật. Ông ấy nhìn y như cái ông trên báo ngày hôm trước ấy. Tôi quên mất mẩu tin ấy là gì rồi.”
“Ồ, vụ lộn xộn trong trại giam ấy mà. Đấy là em trai của Jim, Joe. Anh ta làm việc trong ấy.”
“Ừ nhỉ, đúng rồi.” Nat biết trò cải trang của mình đang có tác dụng. “Mới ngày hôm kia khi lái xe ngang trại giam tôi có nhìn thấy xe moóc của Phoenix.”
“Vâng, đấy là công việc của chúng tôi. Tôi có thể giúp được gì cho cô nào, cô gái?” Người phụ nữ cúi xuống chỉnh đốn lại chồng tạp chí trên bàn khách. “Hôm nay chúng tôi không mở cửa, nhưng tôi vẫn phải đến công ty. Công việc sắp xếp hồ sơ chẳng bao giờ kết thúc được.”
Nat suy nghĩ nhanh lẹ. “Hay nhỉ, tôi đến đây là vì chuyện này đấy. Tôi cần tìm việc, và việc sắp xếp hồ sơ nghe có vẻ hợp với tôi đấy.”
“Thật hả?” người phụ nữ bật cười, rồi chìa tay ra nồng nhiệt bắt lấy tay Nat. “Rất vui được gặp cô. Tôi là Agnes Grady Chesko. Tên cô là gì vậy nhỉ? Tôi thậm chí còn chưa hỏi.”
À ừ. Mắt Nat nhìn xuống đống tạp chí. Tạp chí Car & Driver. “Carr. Pat Carr.”
“À này, Pat này, tôi quản lý công việc trong văn phòng này, quản lý sổ sách, và đảm bảo cho một lô lốc mấy anh chàng điên rồ được trả lương. Tôi là cái loại người mà họ thường gọi là ‘bếp trưởng kiêm nhân viên rửa chai’, nhưng cô còn quá trẻ không hiểu cái tên ấy có nghĩa gì đâu.” Agnes đưa mắt nhìn cô. “Cô còn học trung học phải không?”
“À không. Tôi còn một năm trong trường cao đẳng nữa thôi. Chuyên ngành mỹ thuật.”
“Được đấy. Trường nào thế?”
Ở một nơi nào đó rất xa. “Đại học Wisconsin, nhưng tôi đang nghỉ phép. Trong tuần tôi có làm việc hàng ngày.”
“Cô làm gì?”
Việc gì đó khả dĩ tin được. “Tôi làm việc trong một hiệu sách trong thành phố.”
“Ồ, tôi chưa bao giờ tới Philadelphia. Xa quá, mà tôi ghét phải trả tiền để đậu xe.”
“Tôi có thể làm việc trong ngày thứ Bảy, kiếm thêm tiền mặt.
“Chúng tôi chẳng thể trả cao đâu. Có lẽ chỉ là lương tối thiểu thôi.”
“Bà hãy cho phép tôi thử việc, miễn phí, trong hôm nay. Nếu bà thích những gì tôi làm, thì xin cứ trả tôi lương tối thiểu nhé.”
Mặt Agnes sáng rỡ. “Thế là, cô muốn ‘tiền dằn túi’ à, chúng tôi thường gọi là thế đấy.”
“Chúng tôi gọi đấy là học phí.”
“Gọi hay đấy!” Agnes vỗ vào lưng Nat, làm cô suýt chúi vào tường. “Tôi thích tính khôi hài. Khi thấy đống hồ sơ cần dọn dẹp thì cô phải cần đến nó thôi.”
“Tôi xử lý được mà. Tôi giỏi đọc chữ cái lắm.”
“Amen, có vẻ như những lời khẩn cầu của tôi đã được đáp lời.” Agnes lại cười và đưa hai tay lên trời. “Vào chuồng cu của tôi đi nào, tôi sẽ chỉ cho cô xem đống công việc.”
Tuyệt! Nat thấy rạo rực phấn khởi. Họ đi xuôi một hành lang ngắn qua một văn phòng và một cái nữa bên tay phải. Nat nhìn sang. “Văn phòng của sếp đây à?”
“Ừ, nhưng ông ít khi vào văn phòng lắm. Ông ấy thường xuyên đi ra công trình. Chúng tôi có cả thảy hai mươi ba nhân viên, bao gồm tôi, làm việc toàn thời gian, phần còn lại chúng tôi khoán cho nhân viên hợp đồng. Ổ của tôi đây này.” Agnes chỉ tay vào một văn phòng chật ních chỉ có một cửa sổ và bốc mùi kỳ kỳ. Một chiếc bàn giấy bằng kim loại màu đen chứa tùm lum thứ đồ được kê sát vào bức tường phía sau, và một tủ đựng hồ sơ màu xám đặt dọc bức tường bên trong cùng một chiếc kệ lộn xộn chứa những quyển sổ màu đen ghi chép mã xây dựng. Agnes bước đến bàn của mình, trên bàn đặt một hộp các tông lớn đầy ắp giấy tờ. “Hồ sơ cần sắp xếp ở đây, mất cả năm lận đấy.”
Thấy ghê. “Thấy ghê.” Nat đến bên thùng giấy hé mắt nhìn vào. Trong này phải có hóa đơn từ công ty rác Dumpster ở trại giam. Thực ra thì phải có hồ sơ về công việc trong trại giam ở đâu đó trong văn phòng này, nếu như nơi này vận hành giống như Công ty Xây dựng Greco. “Tôi cho là mỗi một công việc đều có một hồ sơ riêng.”
“Đúng rồi.” Agnes cầm tờ hóa đơn đầu tiên trong đống giấy lên, hóa đơn mang dòng chữ, Nhà John Tayler, đoạn đi đến ngăn kéo lấy ra một bì giấy đựng hồ sơ dán nhãn, Nhà Taylor, John. “Rõ ràng đây là tên của công việc, cho nên cô bỏ hóa đơn vào trong hồ sơ của công việc đó. Chẳng đòi hỏi khoa học cao siêu gì đâu.”
“Tôi biết rồi. Hợp đồng cá nhân được sắp theo chữ cái đầu tiên của tên họ, và những hợp đồng thương mại thì theo chữ cái đầu tiên tên của công ty.”
“Chính xác. Cô nắm bắt nhanh nhạy đấy.”
Là văn bằng luật ở Yale đấy mà.
“Tôi phải làm việc và làm cho kịp bảng phát lương. Có người ở trong này để nói chuyện thật thú vị, nhất là có thêm một cô gái.”
“Tuyệt.” Khỉ thật. Nat đã hy vọng là Agnes sẽ để cô lại một mình với đống hồ sơ. Cô cởi áo khoác ra, đặt áo lên lưng ghế, bưng hộp đựng giấy tờ cần sắp xếp lên, và ngửi thấy một luồng hơi đậm đặc hơn của cái mùi kỳ kỳ ấy. Cô nhìn xuống và xém chút là nhảy dựng lên. Một con chồn sương đang nằm ngửa, trên cái tổ được trải ra trong một chiếc hộp nhựa màu xanh. Hai chân con chồn xoạc tênh hênh trông rất chi là khiêu dâm. “Đây là con chồn sương hả?”
“Xin lỗi nhé, lẽ ra tôi nên giới thiệu hai người với nhau.” Agnes ngồi xuống bên bàn và kéo bàn phím về gần mình hơn. “Đấy là Frankie, cục cưng của tôi đấy. Trông yêu quá phải không?”
“Thật dễ thương.” Nhưng nó có nhanh khép chân lại không hả? Nat bước đến bưng hộp đựng giấy tờ cần sắp xếp lên đặt gần tủ đựng hồ sơ. “Tôi sẽ mang cái này khỏi bàn bà để bà có thể làm việc.
“Ý kiến hay đấy.” Agnes vặn chiếc radio nhỏ đặt trên chiếc tủ lửng sau lưng mình. “Hy vọng cô không ghét mấy cái đài phát nhạc xưa. Tôi nói đến nhạc những năm năm mươi ấy.”
“Không sao đâu,” Nat nói, cho đến khi từ radio phát ra tiếng một người phụ nữ bắt đâu rền rĩ về việc cô ta sẽ chết mất nếu anh nào đó không gọi cho cô ta. Hèn gì mà phụ nữ khổ sở đến vậy. Thật kỳ lạ là chúng ta còn biết đi.
“Tôi rất hâm mộ Frankie Vallie đấy. Ông ấy hát bản ‘Sherry’ và ‘You’re Just Too Good to be true’ phải không nhỉ? Cô biết mấy bài đó không?”
“Có, dĩ nhiên rồi.” Nat lướt qua những tờ giấy ở bên trên. Một hóa đơn khác cho Nhà John Taylor, rồi đến vài đơn đặt hàng gỗ xẻ từ hãng Tague cho công trình cơi nới cho dòng họ Shields. Cô nhặt cả hai hóa đơn lên và đi đến ngăn hồ sơ thích hợp, bắt đầu bằng chữ cái T, đề phòng Agnes đang ngó chừng mình.
“Họ có làm một chương trình về nhóm mình trên sân khấu Broadway ấy. Vở Jersey Boys. Tôi đã đi xem với mấy cô bạn. Ôi, bọn tôi đã rất vui.” Những ngón tay của Agnes bay lượn trên bàn phím, gõ lộp cộp như cơn mưa rào. “Cô bạn Danielle còn quẳng cả áo ngực lên trên sân khấu nữa.”
“Áo ngực của cô ấy à?”
Agnes bật cười, và Nat làm cho cô ta sao nhãng.
“Cái tên Frankie là được đặt theo tên Frankie Vallie đó hả?”
“Cô không phải là thám tử chứ!”
Chỉ hy vọng là thế. “Không, tôi là một thám tử rất tồi. Nhưng tôi lại có thể là một công nhân xây dựng rất cừ đấy. Tôi đã từng nghĩ làm mấy cái việc tháo dỡ thật vui, như là đập nát mấy căn phòng ấy.”
“Ừ, xả hết hằn học ra ngoài.”
“Đúng thế. Ở đây có nhân viên làm việc đó không? Có lẽ tôi có thể xin chuyển sang đó làm.”
“Hả! Thường là chỉ có mấy tên người Mexico làm việc đó thôi. Bọn họ còn không nói được cả tiếng Anh nữa cơ.”
Khỉ thật. “Nhưng nghe vẫn thú vị đấy chứ, ngoại trừ việc dọn dẹp. Họ mang đống phế liệu ấy đi đâu thế? Quẳng nó vào bãi phế liệu của Công ty Dumpster, phải không?”
“Mà này, đấy không phải là công việc cô muốn đâu.”
“Việc đó công ty mình tự làm hay là mướn công ty xử lý rác thải?”
“Chúng tôi mướn công ty khác, bất cứ công ty nào ở trong khu vực lân cận với công trình.”
“Vậy cô nuôi Frankie đuợc bao lâu rồi?” Nat trở lại chiếc hộp, nhặt vài tờ giấy bên trên mặt lên, và giữ chúng gần sát ngực hơn khi cô đi đến những ngăn hồ sơ của chữ cái C, chữ đầu tiên của Nhà tù hạt Chester. Cô muốn tìm thấy hồ sơ của công trình ấy.
“Năm năm, và tôi không nuôi nó. Nó tìm đến tôi đấy chứ.”
Oa. “Tôi từng nuôi mèo, nên tôi hiểu ý cô nói gì.” Nat kiểm tra trong phần hồ sơ chữ C được chứa trong cả hai ngăn tủ, từ CA đến CI và từ CI đến CU. Cô lục đến ngăn tủ dưới cùng. “Tôi không biết rõ lắm về chồn sương. Chỉ cho tôi biết đi.”
“Điều đầu tiên cô phải biết là chồn sương không phải loài gặm nhấm. Chúng cùng loài với chồn, rái cá và chồn hôi.”
Nat trượt mở ngăn tủ hồ sơ cuối cùng của chữ C trong khi Agnes gõ gõ bàn phím và nói chuyện.
“Chồn sương gần giống như là chó vậy, giống chó hơn là giống mèo. Chúng là một giống vật nuôi tuyệt vời. Sự thật khôi hài đây này. Nuôi chồn sương ở California là trái pháp luật đấy nhé.”
“Vì sao thế?” Vì mùi hôi chăng? Nat lật qua những hồ sơ chữ C. Phần cơi nới phòng khiêu vũ hạt Chester, Nhà nuôi thú cưng hạt Chester, Tòa soạn báo cựu quân nhân hạt Chester. Không có hồ sơ về Nhà tù hạt Chester. Tại sao?
“Phân biệt đối xử, đấy là lý do vì sao. Phân biệt đối xử và thông tin sai lệch. Cơ quan pháp quyền bang California tưởng là chồn sương sẽ trở nên hung dữ, nhưng họ đã hiểu sai về giống vật ấy rồi.” Agnes lách cách gõ lướt. “Có có biết việc bị chó cắn làm cho một triệu người phải đi cấp cứu mỗi năm không? Nhưng chó đâu có bị cho là phạm pháp. Chồn sương rõ ràng chỉ là bị phân biệt đối xử thôi.”
“Thật không công bằng.” Nat lại lật qua những tập hồ sơ, tìm kiếm hồ sơ của Nhà tù hạt Chester. Không một cơ may. Cô rà soát phần còn lại trong ngăn hồ sơ thứ hai, phòng trường hợp hồ sơ đó bị bỏ sai chỗ, nhưng vẫn không gặp may.
“Nuôi mèo hoang thì hợp pháp, vậy có mỉa mai không cơ chứ? Đấy là một trong những đề tài tranh cãi của bọn tôi.” Giọng Agnes thêm phần gấp gáp, và bà ta gõ phím càng nhanh hơn. “Tôi là thành viên của Hội yêu thích chồn sương Hoa Kỳ, và chúng tôi đã kiến nghị đến bang California để hợp thức hóa quyền sở hữu chồn sương. Ông thống đốc Schwarzenegger chẳng hề phúc đáp.”
“Tệ thật đấy.” Nat đóng ngăn kéo lại và quay trở lại một đống giấy tờ khác. Tập hồ sơ ấy có thể ở đâu được cơ chứ? Cô nhặt vài tờ giấy lên và lật lướt qua. “Mà này, bà cũng có giữ bản sao của mấy cái hóa đơn ở các công trình chứ nhỉ?”
“Không có, mọi giấy tờ đều ở đây, trong văn phòng này. Để ở công trình thì thất lạc mất. Mấy thằng cha đó đến cả cái đầu mà nếu không gắn vào cổ thì chắc cũng để thất lạc luôn rồi.”
“Mọi công trình sao?”
“Ừm.”
Hừmm. Thế thì hồ sơ công trình trong trại giam sẽ không được giữ trong thùng xe moóc tại trại giam. “Vậy là hợp lý đấy.”
“Nhưng trong văn phòng của Jim lại có hồ sơ của vài công trình đặc biệt. Ông ấy bắt đầu giữ những hồ sơ của những công trình đang tiến hành trong văn phòng, vì ông ấy luôn phải tra cứu đến các hồ sơ ấy. Nếu có giấy tờ nào cần sắp xếp mà cô không tìm thấy hồ sơ công việc ấy, cứ đưa cho tôi và tôi sẽ mang vào văn phòng ông ấy.”
“Được thôi. Tôi chưa gặp giấy tờ nào như thế cả.” Nat cầm đống giấy tờ quay lưng đi. Vậy là câu hỏi đã được trả lời. “Này, bà đang giảng giải cho tôi về chồn sương cơ mà.”
“À, tên La tinh của giống chồn sương nuôi trong nhà là Mustela furo, và chúng không phải động vật hoang dã. Chúng đã được nuôi trong nhà từ rất, rất lâu rồi. Từ hai hay ba nghìn năm gì đó.”
“Thật à?” Nat phân loại những tờ hóa đơn cuối cùng, suy nghĩ làm cách nào để đi vào văn phòng của ông chủ để tìm tập hồ sơ ấy.
“Người ta thường hay nhầm lẫn chúng với anh em họ của chúng, giống chồn sương chân đen Bắc Mỹ, hay còn được gọi là Mustela nigripes.”
Nat kiểm tra đồng hồ: 12.05. Cô nảy ra ý kiến, và đứng thẳng lên. “Mà này, bà ăn trưa chưa? Tôi chưa ăn.”
“Tới giờ rồi phải không nhỉ?” Agnes ngước mặt nhìn lên từ bàn phím, cặp mắt sáng lên. “Hay quá! Chúng ta đi tới tiệm McDonald nào. Tôi sẽ mang theo Frankie trong cái túi Ferret Ferry. Tôi đeo túi qua vai, nhìn y chang như cái ví tay.”
Cá là chẳng giống chút nào đâu. “Có nhiều giấy tờ cần phân loại quá nên tôi không thể ra ngoài ăn trong ngày đầu tiên được. Hoặc là bà có thể đi ra ngoài nếu muốn nghỉ tay một chút, hay là tôi có thể ra ngoài và mang vào cho bà món gì đó.”
“Ôi đúng thật.” Agnes suy nghĩ trong chốc lát. “Tôi phải ở lại đây làm lương, thế nên nếu cô chạy ra ngoài mua đồ ăn vào thì hay hơn. Cô không ngại chứ?”
“Không sao đâu. Tôi là chuột chũi mà.”
“Chuột chũi thuộc họ Geomyidae. Chồn sương là họ Mustelidae. Ở đây chúng ta đều là những người hâm mộ chồn sương.” Agnes cười lớn, và Nat mỉm cười.
“Được rồi, bà thích món nào bên McDonald?”
“Cô có biết nó ở đâu không?”
Không. “Biết.”
“Tốt. Một phần Big Mac và Coca không đường. Cảm ơn nhé.”
“OK. Tôi đãi nhé, vì hôm nay bà đã cho tôi cơ hội.”
“Cô quá dễ thương.” Agnes mỉm cười, và Nat vơ lấy áo khoác với mặc cảm tội lỗi.
“Chờ nhé. Tôi sẽ quay lại ngay.”
“Chúng tôi sẽ sớm gặp lại cô.”
“Chúng tôi á?”
“Tôi và Frankie.”
“À, ừ.” Nat nhìn xuống con chồn. Tứ chi của nó vẫn xoạc tênh hênh. OK, con này thì tôi sẽ không nhớ đâu.
Cô vội đi ra khỏi văn phòng và bước đi ồn ã ra cửa, đoạn mở cửa ra cho chuông cửa reo lên và để cho cánh cửa dập lại thật mạnh, như thể cô vừa đi ra khỏi tòa nhà. Rồi cô nhanh chân quay lại, di chuyển nhẹ nhàng hết mức, và nín thở khi cô lướt qua lối cửa đang mở dẫn vào văn phòng của Agnes.
Cô nhanh chân rẽ trái, lẻn đi đến cuối hành lang, và nhảy vào văn phòng của Jim Graf, tim đập dồn. Cô đưa mắt nhìn qua căn phòng. Bàn giấy, máy tính, ti vi, mã xây dựng. Tủ đựng hồ sơ phía sau bàn giấy. Cô chạy đến đấy, khẽ khàng mở ngăn tủ ra và lật qua những tập hồ sơ đựng trong bì giấy. Nhà Albemarle, phần cơi nới nhà hàng Boston Pizza, Viện cải huấn hạt Chester.
Đây rồi! Nat lôi tập hồ sơ ra, nhét vào dưới áo, đoạn im lặng đóng ngăn tủ lại. Cô chạy ra khỏi văn phòng ông chủ, và vội chạy đến cửa ra vào – đến đây thì cô ngừng bặt, bí bách. Nếu cô chạy ra ngoài, thì chuông cửa sẽ reo lên, Agnes sẽ không mất nhiều thời gian để tìm ra hồ sơ nào bị biến mất, và nếu bà ta liên hệ Nat đến tập hồ sơ về trại giam, thì lớp cải trang với mái tóc nhuộm vàng này sẽ bị lật tẩy. Cô mở cửa ra và đóng ngay lại, để cho chuông cửa reo lên, rồi ồn ào bước về văn phòng của Agnes và thò đầu vào cửa.
“Tôi quên mấy món cô dặn rồi,” cô nói, vờ cau mày.
Agnes ngước mắt khỏi bàn phím. Frankie đang ngủ ngáy ầm ĩ trong tổ, và ai đó trên radio đang mặc một chiếc áo nhung xanh. “Một phần Big Mac và Coca không đường.”
“Nhớ rồi. Xin lỗi nhé. Gặp lại sau,” Nat nói và bỏ đi. Cô nôn nóng ra khỏi nơi đó để đọc tập hồ sơ.
Gần như là Hoàn Hảo Đến Không Tưởng.
Nửa tiếng sau, Nat đỗ chiếc Kia đằng sau tiệm tạp hóa Wawa, nhấp một ngụm cà phê nóng hổi, gặm một hơi nửa khúc bánh mì kẹp thịt gà tây và phô mai xắt lát khi đang mở xấp hồ sơ về trại giam hạt Chester. Xấp hồ sơ dày ít nhất cũng phải ba phân, và những hóa đơn nằm trên cùng là từ XRHC, công ty Xử lý rác thải hạt Chester.
Đúng phóc! Cô đọc qua hết xấp hồ sơ và lôi những hóa đơn của XRHC ra. Có bốn hóa đơn tất cả, và cô dàn chúng ra trên đùi mình. Một hóa đơn được gửi từ tháng Sáu, tháng Chín, tháng Mười Một, và tháng Hai. Tháng này. Ba thùng Dumpsters dược kéo đi đổ, tổng cộng là 1.749 đô la. Thùng rác trong tháng Hai được mang đi một ngày sau vụ bạo động. Cô xem xét chu trình. Bốn tháng đầu cho thùng rác thải đầu tiên. Bốn tháng cho thùng thứ hai. Một tháng đổ thùng cuối cùng. Còn hôi thối hơn cả lũ chồn sương. Cô với tay lấy điện thoại và bấm gọi cho XRHC, nhưng máy trả lời tự động báo là công ty đóng cửa vào cuối tuần.
Nat thở dài, rồi nhận ra một dấu hiệu trên màn hình điện thoại. Có tin nhắn. Cô mở hộp thư thoại ra, rồi nhận ra giọng của người gọi với một chút xao xuyến.
“Natalie à, Angus đây, tôi nhận được tin nhắn của cô đến văn phòng tôi.” Giọng anh nghe khẩn trương lo lắng. “Gọi ngay cho tôi khi nhận được lời nhắn này nhé. Văn phòng biện lý đang truy tìm cô đấy. Người ta đã tìm ra vũ khí giết người trên cánh đồng rồi.”
Nat thấy ruột gan thắt lại.
“Họ muốn cô ra tự thú.”
Nat gom mấy tờ giấy lại, quẳng chiếc bánh mì sang bên, và mở máy.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.