Cô Gái Đùa Với Lửa

CHƯƠNG 17



Chủ nhật Phục sinh, 27 tháng Ba
Thứ Ba, 29 tháng Ba
Sáng Chủ nhật Armansky dậy sớm sau nhiều giờ trằn trọc suốt. Ông rón rén xuống thang, không đánh thứ Ritva dậy, tự pha cà phê và làm bánh sandwich. Rồi mở máy tính xách tay.
Ông mở mẫu báo cáo mà An ninh Milton dùng cho các cuộc điều tra cá nhân. Ông đánh máy hết các điều mà ông nghĩ ra được về nhân cách của Salander. 9 giờ Ritva xuống rót cà phê cho bà. Bà nghĩ ông đang làm việc gì khác kia. Ông trả lời lấy lệ và cứ viết tiếp. Suốt ngày hôm ấy, ông làm một cái việc trời ơi.
Blomkvist hóa ra lại lầm, chắc là tại vì cuối tuần Phục sinh và trụ sở cảnh sát thì vẫn còn tương đối trống vắng. Phải tới sáng Chủ nhật Phục sinh các báo đài mới phát hiện ra chính anh đã tìm thấy Svensson và Johansson. Người đầu tiên gọi là một phóng viên của tờ Aftonbladet, một bạn lâu ngày.
– Chào, Blomkvist, Nicklasson đây.
– Chào, Nicklasson.
– Vậy cậu tìm ra cặp nam nữ ở Enskede đấy à?
Blomkvist xác nhận đúng.
– Nguồn của tớ nói họ làm cho Millennium.
– Nguồn của cậu vừa đúng vừa sai. Dag làm phóng viên tự do cho Millennium còn Mia Johansson thì không làm cho chúng tớ.
– Ô, chàng trai. Chuyện này quỷ thật đấy nhỉ, cậu phải công nhận như thế đi.
– Tớ biết. – Blomkvist nói mệt mỏi.
– Tại sao các cậu không cho ra một tuyên bố?
– Dag là đồng nghiệp và là bạn. Bọn tớ nghĩ ít nhất trước khi bọn mình đưa ra một tin bài nào thì tốt hơn cả là báo họ hàng của cậu ấy và Mia trước chuyện đã xảy ra.
Blomkvist biết câu này của mình sẽ không bị trích dẫn.
– Có lý đấy. Dag đang làm chuyện gì?
– Một chuyện chúng tớ đặt.
– Về gì?
– Các cậu đang định cho kiểu tin giật gân nào ở Aftonbladet đấy?
– Vậy nó là tin giật gân à?
– Thôi dẹp đi, Nicklasson.
– Ô, thôi, Blomman. Cậu nghĩ các vụ án mạng có liên quan tới cái Dag đang viết đấy chứ?
– Cậu gọi tớ là Blomman lần nữa là tớ đặt máy không chuyện trò gì với cậu cho tới hết năm đấy.
– Được, tớ xin lỗi. Cậu có nghĩ Dag bị giết là vì cậu ấy làm việc như một nhà báo điều tra không?
– Tớ không hiểu tại sao Dag lại bị giết.
– Cái cậu ấy viết có cái gì liên quan đến Lisbeth Salander không?
– Không. Không bất cứ cái gì.
– Dag có biết cái đứa rồ ấy không?
– Tớ không biết.
– Dag đã viết một lô những bài báo về tội phạm máy tính mới đây. Kiểu cậu ấy viết cho Millennium có là thế không?
Mày có thôi đi không đấy hả? Blomkvist nghĩ. Anh đang sắp bảo Nicklasson ngậm mỏ lại thì anh chợt ngồi thẳng dậy ở trên giường. Anh vừa nảy hai ý lớn. Nicklasson bắt đầu nói một cái gì đó khác.
– Giữ máy, Nicklasson. Im ở đấy. Tớ quay lại ngay.
Blomkvist đứng lên, lấy tay bịt đằng ống nói lại. Anh thình lình ở trên một hành tinh hoàn toàn khác.
Ngay từ khi xảy ra các vụ án mạng, Blomkvist đã cào bới đầu óc để tìm ra cách liên hệ với Salander. Có một cơ may – cơ may khá tốt – là bất kể ở đâu cô cũng sẽ đọc những cái anh nói trên báo về cô. Nếu anh phủ nhận có biết cô, cô sẽ hiểu thành ra rằng anh đã bỏ cô hay phản cô. Nếu anh bảo vệ cô thì người khác sẽ hiểu thành ra rằng anh biết nhiều hơn là anh nói về các vụ án mạng. Nhưng nếu chỉ tuyên bố theo cách đúng đắn thì anh sẽ có thể khích Salander tìm tới anh.
– Xin lỗi, tớ đây. Cậu vừa nói gì nhỉ?
– Có phải Dag đang viết về tội phạm máy tính không?
– Nếu cậu muốn nhẻm một miếng ra trò của tớ thì tớ cho đấy.
– Nhè ra đi.
– Với điều kiện cậu trích nguyên văn từng lời của tớ.
– Không thế thì sẽ khác như thế nào chứ?
– Tớ không trả lời cậu.
– Vậy cậu muốn nói gì?
– Tớ sẽ email cho cậu mười lăm phút nữa.
– Cái gì?
– Mở xem thư điện tử của cậu đi. – Blomkvist nói và đặt máy. Anh ra bàn làm việc bật máy tính iBook. Anh mở Word, ngồi tập trung hai phút rồi bắt đầu viết:
Tổng biên tập Millennium Erika Berger rất bàng hoàng vì vụ giết Dag Svensson, nhà báo tự do cũng là đồng nghiệp của bà. Bà hy vọng các vụ án mạng sẽ sớm được giải quyết. Chính người phụ trách xuất bản của Millennium, Mikael Blomkvist đã phát hiện ra Dag Svensson và bạn gái của anh bị giết hồi khuya đêm thứ Tư.
“Dag Svensson là nhà báo có biệt tài và là một người mà tôi rất mến. Anh đã đề xuất nhiều ý tưởng cho các bài báo. Trong nhiều việc làm, anh đang tiến hành một điều tra quan trọng vào toàn bộ vấn đề tin tặc trên máy tính”, Mikael Blomkvist nói với Aftonbladet.
Cả Blomkvist lẫn Berger đều không suy đoán ai có thể là thủ phạm của các vụ giết người hay động cơ nào nằm sau chúng.
Blomkvist nhấc điện thoại gọi Berger.
– Chào, Erika, em vừa được Aftonbladet phỏng vấn đấy nhá.
– Nói coi.
Anh đọc chị nghe lời trích.
– Sao ra thế?
– Đúng từng chữ. Dag là người đã mười năm viết tự do và một trong các chuyên đề của anh ấy là an ninh máy tính. Anh đã thảo luận chuyện này với anh ấy nhiều lần và chúng ta đã tính đăng một bài của anh ấy về chuyện này khi nào anh ấy làm xong câu chuyện buôn bán phụ nữ. Em có biết ai khác quan tâm đến tin tặc không?
Berger hiểu ra anh đang thử làm trò gì.
– Thông minh, Mikael. Rất thông minh. OK. Làm đi.
Một phút sau Nicklasson gọi bảo đã nhận được email của Blomkvist.
– Không phải là một miếng nhẻm ngon lắm đâu.
– Cậu chỉ được tất cả có thế thôi, hơn bất cứ tờ báo nào khác rồi. Cậu đăng toàn bộ lời trích hoặc chẳng có gì hết.
Trong khi gửi email cho Nicklasson, Blomkvist đã quay lại với chiếc iBook. Nghỉ ngơi một phút rồi anh viết:
Lisbeth thân mến,
Tôi đang viết thư này và để lưu vào ổ cứng của tôi, biết rằng sớm muộn cô cũng sẽ đọc nó. Tôi nhớ cách cô xâm nhập ổ cứng của Wennerstrom hai năm trước và ngỡ rằng chắc cô cũng đã sục vào máy của tôi.
Rõ ràng là nay cô không muốn còn liên quan gì nữa với tôi. Tôi không có ý hỏi tại sao và cô cũng không cần giải thích.
Các sự kiện vài hôm vừa qua đã gắn chúng ta lại với nhau dù cô có thích như thế hay không. Cảnh sát đang nói cô đã giết hai người mà tôi rất yêu mến. Tôi là người đã phát hiện ra Dag và Mia vài phút sau khi họ bị bắn. Tôi không nghĩ là cô bắn họ. Chắn chắn là tôi hy vọng như thế. Cảnh sát nói cô là kẻ sát nhân bị bệnh tâm thần như thể có nghĩa là tôi đánh giá cô sai hoàn toàn, trong mấy năm vừa rồi cô đã thay đổi khác với tất cả hiểu biết của tôi. Và nếu cô không là kẻ giết người thì cảnh sát đã săn lùng sai người.
Trong tình hình này, chắc là tôi nên giục cô tự mình đi đến gặp cảnh sát nhưng tôi ngờ rằng tôi đã tốn hơi. Sớm muộn người ta sẽ tìm ra cô và lúc đó co sẽ cần đến một người bạn. Cô có thể không muốn còn liên quan gì với tôi nhưng tôi có cô em gái tên là Annika Giannini, một luật sư. Giỏi nhất. Em tôi muốn thay mặt cô nếu cô tiếp xúc với nó. Cô có thể tin em gái tôi.
Do Millennium bị liên đới, chúng tôi đã bắt đầu điều tra xem tại sao Dag và Mia lại bị giết. Việc tôi đang làm hiện nay là ghép lại thành một danh sách những người có lý do muốn bắt Dag im lặng. Tôi không biết đường mình đi có đúng hay không nhưng tôi đang làm kiểm tra mỗi lần một tên người ở trong bản danh sách.
Một vấn đề với tôi là tôi không hiểu tại sao Nils Bjurman lại khớp lọt vào bức tranh. Trong tư liệu của Dag không có bất cứ chỗ nào nói đến ông ta và tôi cũng không mò ra được mối quan hệ nào giữa ông ta với Dag và Mia.
Hãy giúp tôi, làm ơn. Mối liên hệ là gì đây?
Mikael.
T.B. Cô nên kiếm một ảnh hộ chiếu mới. Cái kia làm cho cô oan uổng đấy.
Anh đặt tên cho tư liệu là “Sally”. Rồi anh lập một thư mục có tên , cho nó một biểu tượng ở trên màn hình nền của chiếc iBook.
Sáng thứ Ba Armansky mở một cuộc họp ở buồng giấy ông tại An ninh Milton. Ông triệu ba người đến.
Johan Fraklund, cựu thanh tra hình sự ở cảnh sát Solna, là trưởng đơn vị tác chiếc của Milton. Ông chịu trách nhiệm bao quát về đặt kế hoạch và phân tích. Tuyển chọn ông mười năm trước, Armansky đã đi tới chỗ coi trọng ông, người hiện đang vào tuổi sáu chục, như là một trong những tài sản đáng giá nhất của công ty.
Armansky cũng gọi Sonny Bohman và Niklas Hedstrom đến. Bohman trước đây cũng là cảnh sát viên. Ông được huấn luyện ở đội ứng phó vũ trang Norrmalm những năm 80 rồi chuyển đến đội Tội phạm Bạo hành, ở đây ông đã chỉ đạo hơn một chục cuộc điều tra quan trọng. Trong thời gian đầu những năm 90, tên bắn lén “Người Laser” hoành hành, Bohman đã là một trong những diễn viên chủ yếu và năm 1997, ông chỉ chịu chuyển đến Milton sau một phen bị thuyết phục dài dài và lời mời với đồng lương cao hơn nhiều trông thấy.
Niklas Hedstrom được xem như lính mới. Anh được huấn luyện ở Học viện Cảnh sát nhưng ngay trước cuộc thi mãn khóa thì được biết anh bị khuyết tật bẩm sinh về tim. Như vậy không chỉ đòi phải giải phẫu cơ bản mà cũng còn có nghĩa là sự nghiệp cảnh sát của anh chấm dứt.
Fraklund, từng là người đương thời với bố của Hedstrom, đã gợi ý với Armansky rằng các ông sẽ cho Hedstrom một cơ hội. Do có một chỗ trống trong đơn vị phân tích, Armansky tán thành tuyển người và không bao giờ ông có lý do để ân hận chuyện đó. Hedstrom đã làm được năm năm cho Milton. Anh có thể thiếu kinh nghiệm dã chiến nhưng nổi bật lên là có vốn liếng trí tuệ sắc sảo.
– Xin chào tất cả, các ông hãy ngồi xuống đọc cái này đi. – Armansky nói.
Ông đưa ra ba cặp hồ sơ với cỡ năm chục trang sao chụp các bài báo cắt dán về cuộc săn lùng Salander, cùng với ba trang tóm tắt của Armansky về lai lịch của cô. Đọc xong trước, Hedstrom đặt cặp hồ sơ xuống bàn. Armansky chờ cho hai người kia đọc xong nốt.
– Tôi cho rằng các vị đều có xem các đầu đề báo chí cuối tuần vừa rồi.
– Lisbeth Salander. – Fraklund u uẩn nói.
Bohman lắc đầu. Hedstrom nhìn vào khoảng không, mặt không để lộ ra vẻ gì nhưng mỉm cười buồn.
Armansky nhìn cả ba dò hỏi, ông nói:
– Một trong các nhân viên của chúng ta. Các ông đã biết cô ấy rõ ra sao khi cô ấy làm ở đây.
– Tôi đã thử một lần đùa cô ấy một chút. – Hedstrom nói, lại thoáng mỉm cười. – Không còn ra thế nào cả. Tôi tưởng cô ấy sắp cắn đứt đầu tôi ra đến nơi mất. Cô ấy bẳn tính vào loại nhất hạng, với cô ấy tôi hiếm khi nói đến mười câu.
– Tôi thấy cô ấy kỳ lạ mà lại nghiêm túc cơ chứ. – Fraklund nói.
Bohman nhún vui:
– Tôi gọi cô ấy là điên mười mươi, điên mê mết và khi cùng làm với cô ấy thì ta bị đau thực sự. Tôi thừa nhận cô ấy khó hiểu chứ không phải rồ khùng như quỷ thế kia.
– Cô ấy có cách làm việc của cô ấy. – Armansky nói. – Cô ấy không dễ bị nắm. Nhưng tôi tin cô ấy vì cô ấy là điều tra viên giỏi nhất tôi từng gặp. Lần nào kết quả cô ấy cho ra cũng vượt quá mức chờ đợi.
– Tôi không hiểu chuyện đó. – Fraklund nói. – Tôi không hình dung ra nổi tại sao có tài đến mức khó tin như thế mà cô ấy đồng thời lại là một người thua thiệt trong xã hội.
– Câu trả lời dĩ nhiên nằm trong não trạng cô ấy. – Armansky nói, tay vỗ vỗ vào một trong mấy cặp hồ sơ. – Cô ấy bị tuyên bố bất lực, không thể tự cai quản lấy bản thân.
– Tôi chả thấy tí đầu mối nào ở chỗ này. – Hedstrom nói. – Ý tôi là ở trên lưng cô ấy không có đeo một dấu hiệu nào bảo rằng cô ấy là đứa dở người.
– Không. – Armansky nói. – Tôi không nói vì tôi nghĩ cô ấy thế nào thì cứ là thế rồi không cần bêu thêm cho cái gì nữa. Ai cũng đáng có một cơ hội.
– Và kết quả của cái thí nghiệm nhạt nhẽo ấy là câu chuyện xảy ra ở Enskede mà chúng ta thấy. – Bohman nói.
– Có thể. – Armansky nói.
Ở trước mắt ba người chuyên nghiệp trong nghề lúc này đang nhìn ông dò xét, ông không muốn để lộ ra chỗ yếu của ông đối với Salander. Trong chuyện trò giọng họ trung lập nhưng Armansky biết trong thực tế cả ba, cũng như các nhân viên khác ở An ninh Milton đều ghét Salander. Ông không muốn tỏ ra yếu đuối hay bối rối. Quan trọng là đặt ra vấn đề bằng một cách nó tạo nên một mức độ nhiệt tình và đầu óc chuyên nghiệp.
– Tôi quyết định lần đầu tiên sử dụng một số nguồn lực của Milton vào một vấn đề thuần túy nội bộ. – Ông nói. – Khoản chi tiêu này chắc chắn là lớn cho ngân quỹ nhưng tôi nghĩ trút cho hai ông, Bohman và Hedstrom, khỏi những nhiệm vụ hiện tại. Hai ông được phân công làm công việc “xác lập sự thật” về Lisbeth Salander, chỗ này có thể tôi diễn đạt có đôi chút bị mơ hồ.
Cả hai đều ngờ vực nhìn ông.
– Tôi muốn ông, Fraklund, lãnh đạo và bám sát cuộc điều tra. Tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra và cái gì đã dẫn dụ Salander đến chỗ giết người giám hộ cũng như cặp nam nữ ở Enskede. Phải có một giải thích hợp lý.
– Xin thứ lỗi, nghe như là công việc của cảnh sát thì phải. – Fraklund nói.
– Không sao. – Armansky nói. – Nhưng chúng ta có một lợi thế nào đó so với cảnh sát. Chúng ta biết Salander và chúng ta tỏ tường cách hoạt động của cô ấy.
– Được, nếu ông nói thế. – Bohman nói, giọng không được chắc chắn. – Tôi tin là không một ai ở công ty đây mà lại hiểu được tí gì về những gì đã diễn ra trong cái đầu con con của cô ấy.
– Cái đó không sao. – Armansky nói. – Salander đã làm việc cho Milton. Theo tôi, chúng ta có trách nhiệm xác lập sự thật.
– Salander đã không làm cho chúng ta trong… bao nhiêu nhỉ, gần hai năm. – Fraklund nói. – Tôi không thấy chúng ta có trách nhiệm gì về những cái cô ấy có thể đã làm. Tôi cũng nghĩ cảnh sát sẽ không tán thưởng nếu chúng ta can thiệp vào điều tra của họ.
– Trái lại. – Armansky nói. – Đây là quân át chủ bài của họ, họ phải chơi tốt đấy.
– Sao lại thế chứ? – Bohman nói.
– Hôm qua tôi có nói chuyện lâu với người chỉ đạo cuộc điều tra sơ bộ, công tố viên Ekstrom và thanh tra hình sự Bublanski, người phụ trách điều tra. Ekstrom đang bị sức ép. Đây không phải chuyện đám cướp băng nhóm gangster thịt nhau mà là sự kiện mang tiềm lực truyền thông đại chúng to lớn trong đó một luật gia, một nhà tội phạm học và một nhà báo – như ta thấy – đã bị giết. Tôi đã giải thích do nghi can số một là một cựu nhân viên của An ninh Milton nên chúng tôi đã quyết định tự tiến hành điều tra lấy cho chúng tôi. – Ngừng lại cho câu này bập được sâu vào, rồi Armansky nói tiếp. – Ekstrom và tôi đã đồng ý ngay lúc này việc quan trọng là cần càng nhanh càng tốt bắt tạm giam Salander – trước khi cô ấy có thể tác hại đến bản thân hay người khác. Do chúng ta hiểu Salander nhiều hơn cảnh sát cho nên chúng ta có thể đóng góp vào cuộc điều tra. Ekstrom và tôi đã đi tới thỏa thuận rằng hai ông. – Ông chỉ vào Bohman và Hedstrom. – Sẽ được điều đến Kungsholmen giúp đỡ nhóm của Bublanski.
Cả ba nhân viên của ông cùng sửng sốt.
– Xin lỗi được hỏi một câu đơn giản thôi… nhưng chúng tôi chỉ là dân sự. – Bohman nói. – Cảnh sát có thực sự muốn chúng tôi tham gia một cuộc điều tra án mạng y như ông vừa nói không?
– Các ông sẽ làm việc dưới quyền Bublanski nhưng các ông cũng báo cáo cả với tôi. Các ông được tham gia hoàn toàn vào cuộc điều tra. Tất cả tư liệu chúng ta có và các ông tìm ra đều sẽ đưa đến cho Bublanski. Với cảnh sát như thế là nhóm của họ được tăng cường mà không phải phí tổn gì. Và chả ai trong hai ông “chỉ là dân sự” đâu. Hai ông, Fraklund và Bohman làm việc cho cảnh sát còn lâu hơn là làm việc ở đây, mà anh, Hedstrom lại còn học ở Học viện Cảnh sát nữa cơ mà.
– Nhưng thế trái nguyên tắc…
– Không hề. Cảnh sát thường đưa cố vấn dân sự vào các cuộc điều tra, hoặc là bác sĩ tâm lý trong các vụ án tính dục hay các phiên dịch viên nếu như có dính líu đến người nước ngoài. Các ông sẽ tham gia đơn giản như là cố vấn dân sự có hiểu biết đặc biệt về nghi can số một.
Fraklund thong thả gật đầu:
– OK, Milton tham gia điều tra của cảnh sát và cố bắt Salander. Còn gì khác nữa không?
– À, có. Chừng nào còn liên quan đến Milton thì chừng ấy nhiệm vụ của các ông là xác định sự thật. Không có gì khác. Tôi muốn biết Salander có bắn ba người kia không, và nếu có thì tại sao.
– Có nghi ngờ gì về tội của cô ấy không? – Hedstrom hỏi.
– Chứng cứ hiện trường mà cảnh sát nắm được đã đủ tai họa cho cô ấy lắm rồi. Nhưng tôi muốn biết liệu còn có một phía khác nào nữa của câu chuyện không – liệu có một kẻ đồng phạm mà chúng ta không biết, một người mà có thể là kẻ thực sự cầm súng, hay liệu có còn những hoàn cảnh nào khác mà chúng ta chưa biết hay không.
– Trong một vụ án mạng bắn chết ba người mà tìm các tình tiết giảm nhẹ sẽ khó đấy. – Fraklund nói. – Nếu đó là điều chúng ta tìm kiếm thì chúng ta cần phải giả định cô ấy có khả năng vô tội. Mà tôi thì không tin cái đó.
– Tôi cũng vậy. – Armansky nói. – Nhưng nhiệm vụ của các ông là yểm trợ cảnh sát bằng mọi cách và giúp họ bắt cô ấy trong thời gian ngắn nhất có thể.
– Kinh phí đâu? – Fraklund nói.
– Mở rồi. Tôi muốn được cập nhật đều đặn về chi phí ra sao và nếu nó tuột khỏi tay thì chúng ta sẽ đóng nó lại. Nhưng hãy cứ cho là các ông sẽ làm việc đó ít nhất trong một tuần, bắt đầu hôm nay. Và do chỗ ở đây tôi là người hiểu Salander nhất nên tôi sẽ là một trong số những người mà các ông phỏng vấn.
Modig lao vội dọc hành lang vào phòng họp đúng lúc các bạn đồng nghiệp đã yên vị. Chị ngồi cạnh Bublanski, ông đã triệu tập toàn nhóm, gồm cả người chỉ đạo cuộc điều tra sơ bộ, về dự. Faste nhìn kháy chị rồi lại chú ý tới việc mở đầu; ông là người yêu cầu họp.
Ông đã lục lọi kỹ qua hết các năm đối chiếu giữa giấy tờ phúc lợi xã hội và Salander – việc mà ông gọi là “lõng bệnh lý tâm thần” – và chắc ông đã cố thu thập được một nắm tư liệu ra trò. Faste dặng hắng rồi quay sang người ở bên phải ông.
– Đây là bác sĩ Peter Teleborian, bác sĩ trưởng khoa ở bệnh viện tâm thần Thánh Stefan. Ông đã có nhã ý xuống Stockholm tham dự cuộc điều tra và nói với chúng ta những gì ông biết về Lisbeth Salander.
Modig quan sát bác sĩ Teleborian. Ông ta thấp lùn, tóc nâu quăn, kính gọng sắt và một bộ râu dê con con. Ông ăn mặc tùy tiện với jacket nhung kẻ màu be, quần jean, và sơ mi kẻ dọc xanh nhạt cài khuy ở cổ. Nét mặt ông sắc cạnh và nom vẻ như chàng trai trẻ trung. Modig đã mấy lần chạm mặt ông nhưng chưa nói chuyện với ông bao giờ. Ông đã lên lớp giảng về những nhiễu loạn tâm thần khi chị đang ở học kỳ cuối cùng của học viện cảnh sát. Và một lần khác ở một lớp học mà ông nói về người mắc bệnh tâm thần và ứng xử có mang bệnh lý tâm thần của thanh niên. Chị cũng đã dự phiên xét xử một kẻ hiếp dâm hàng loạt mà Teleborian được triệu đến làm nhân chứng chuyên môn. Từng tham gia các cuộc thảo luận công cộng trong nhiều năm, Teleborian là một trong những bác sĩ tâm thần nổi tiếng nhất ở Thụy Điển. Ông dựng nên tên tuổi của mình khi chỉ trích gay gắt việc cắt giảm ngân sách trong sự nghiệp chăm sóc tâm thần dẫn tới các bệnh viện tâm thần bị đóng cửa. Những người rõ ràng cần chăm sóc đã bị bỏ rơi ngoài đường phố, bị buộc phải trở thành những trường hợp nhận phúc lợi vô gia cư. Từ cuộc ám sát bà Bộ trưởng Ngoại giao Anna Lindt, bác sĩ Teleborian đã là thành viên của một ban chính phủ báo cáo về sự đi xuống của việc chăm sóc tâm thần.
Teleborian gật đầu chào cả nhóm rồi rót nước khoáng vào một cốc nhựa.
– Chúng ta hãy xem liệu rồi tôi có đóng góp được cái gì không đây. – Ông thận trọng mở đầu. – Trong những trường hợp như thế này, tôi ghét các tiên đoán của tôi cứ nhất định phải là đúng.
– Các tiên đoán? – Bublanski nói.
– Vâng. Đó là tôi châm biếm. Tối hôm có vụ án mạng ở Enskede, tôi đang thảo luận trên tivi về bom định giờ, nó đang cứ tích tắc gần như khắp mọi nơi trong xã hội chúng ta. Cái này đáng sợ chứ. Ngay lúc đó tôi không nghĩ đặc biệt đến Salander nhưng tôi đưa ra một số thí dụ – dĩ nhiên với tên giả – của những người bệnh hoàn toàn đơn giản là phải nhập viện chứ không được tự do ở trên đường phố chúng ta. Tôi đã ước đoán riêng trong năm ấy thôi cảnh sát sẽ phải giải quyết năm sáu vụ án mạng hay giết chóc mà kẻ sát nhân nằm trong số lượng nho nhỏ các người bệnh này.
– Và ông nghĩ Salander là ở trong số những người tàng tàng ấy? – Faste hỏi.
– “Tàng tàng” không phải là thuật ngữ chúng tôi dùng. Vâng, không nghi ngờ gì nữa cô ấy chính là một trong những cá nhân hay lên cơn lên cớ mà nếu như trách nhiệm rơi vào tôi thì tôi sẽ không để cho lang thang ngoài xã hội.
– Ông nói là cần nhốt cô ấy lại để cho khỏi gây nên tội ác ư? – Modig nói. – Điều đó thực sự không phù hợp với các nguyên tắc về một xã hội cai trị bằng pháp quyền.
Faste cau có, nhìn chị với con mắt bẩn thỉu. Modig thầm hỏi tại sao Faste luôn có vẻ đối địch với chị đến thế.
– Chị hoàn toàn đúng. – Teleborian nói, tình cờ cứu chị. – Điều đó không tương hợp với một xã hội dựa trên pháp quyền, ít nhất không ở cái dạng hiện nay. Đây là một hành vi làm cho cân bằng sự kính trọng cá nhân với sự kính trọng các nạn nhân tiềm ẩn, cái cân bằng mà một người bệnh tâm thần có thể bỏ được bệnh theo gương đó. Mỗi trường hợp lại một khác, mỗi người bệnh lại cần điều trị trên một cơ sở cá nhân. Không tránh được ở lĩnh vực tâm thần chúng tôi cũng đã phạm phải những sai lầm để rồi đã đem thả ra những người không nên cho đi lại ngoài đường phố.
– Thôi, tôi nghĩ chúng ta không cần đi sâu vào các chính sách xã hội ở đây. – Bublanski thận trọng nói.
– Dĩ nhiên. – Teleborian nói. – Chúng ta đang giải quyết một vụ đặc biệt. Nhưng xin để cho tôi nói rằng điều quan trọng với tất cả các vị là hiểu Lisbeth Salander là một người bệnh cần trông nom, chẳng khác bất cứ người bệnh đau răng hay đau tim nào cũng đều cần trông nom vậy. Cô ấy có thể sẽ khỏe mạnh nếu như cô ấy đã nhận được sự trông nom mà cô ấy cần đến trong lúc còn có thể điều trị.
– Vậy ông không phải là bác sĩ của cô ấy. – Faste nói.
– Tôi ở trong số những người liên quan đến trường hợp của Lisbeth Salander. Lúc mới vào tuổi mười mấy cô ấy là người bệnh của tôi và tôi là một trong các bác sĩ đánh giá cô ấy trước khi quyết định cho giám hộ Salander lúc cô ấy bước sang tuổi mười tám.
– Ông có thể cho chúng tôi đôi chút lai lịch của cô ấy không? – Bublanski nói. – Cái gì khiến cô ấy giết hai người mà cô ấy không quen biết, và cái gì làm cho cô ấy giết người giám hộ của cô ấy?
Bác sĩ Teleborian cười thành tiếng.
– Không, tôi không bảo ông cái đó được, tôi đã không theo dõi sự phát triển của cô ấy trong mấy năm rồi, tôi không biết hiện nay bệnh tâm thần của cô ấy đang ở giai đoạn nào. Nhưng tôi có thể không mảy may nghi ngờ mà bảo ông rằng cô ấy có quen biết cặp nam nữ ở Enskede đấy.
– Cái gì làm cho ông chắc chắn như vậy? – Faste nói.
– Một trong những thiếu sót trong điều trị cho Lisbeth Salander là không hội chẩn toàn diện được cho cô ấy. Đó là do cô ấy không tiếp thu điều trị. Cô ấy luôn từ chối trả lời hay không chịu tham gia vào bất cứ liệu pháp nào.
– Vậy nên cô ấy có bệnh hay không, ông không biết? – Modig nói. – Ý tôi nói là nếu như đã không có bất cứ hội chẩn nào cho cô ấy.
– Xin nhìn chuyện này theo cách này. – Bác sĩ Teleborian nói. – Ngay lúc Lisbeth Salander sắp vào tuổi mười ba thì tôi nhận cô ấy. Cô ấy có bệnh tâm thần, rõ ràng để lộ ra ứng xử kiểu bị ám ảnh và bị tâm thần phân lập. Sau khi nhập viện ở Thánh Stefan, cô ấy là bệnh nhân của tôi trong hai năm. Lý do cho cô ấy nhập viện là suốt tuổi ấu thơ cô ấy đã tỏ ra có ứng xử hung bạo quá đỗi với các bạn học, thầy cô và người quen biết. Người ta báo cáo cô ấy đã hành hung lặp đi lặp lại nhiều lần. Theo chúng tôi biết, thì trong mỗi trường hợp, bạo lực đều hướng vào những người thuộc về nhóm của riêng mình, tức là chống lại những người cô ấy biết là đã nói hay làm cái gì đó mà cô ấy coi là một lăng mạ. Không có trường hợp nào cô ấy tấn công người lạ. Vì thế tôi tin là giữa cô ấy với cặp nạn nhân ở Enskede là có liên quan với nhau.
– Trừ lần hành hung trong đường xe điện ngầm khi cô ấy mười bảy tuổi. – Faste nói.
– À, lần đó cô ấy là người bị tấn công và cô ấy tự vệ. – Teleborian nói. – Nên nói rõ là chống lại một kẻ xúc phạm tính dục. Nhưng đây cũng là gương ứng xử tốt của cô ấy. Cô ấy có thể bỏ đi hay tìm chỗ ẩn nấp trong hành khách trên toa xe. Đằng này cô ấy lại đáp trả bằng phản công có tình tiết nặng thêm. Khi cảm thấy bị uy hiếp cô ấy phản ứng lại bằng bạo hành quá đáng.
– Vậy vấn đề thực sự của cô ấy là gì đây? – Bublanski nói.
– Như tôi nói, chúng tôi đã không hội chẩn thực sự được cho cô ấy. Tôi có thể nói là do bị tâm thần phân lập cô ấy cứ chung chiêng liên tục trên bờ vực của bệnh tâm thần. Cô ấy thiếu sự đồng cảm và ở nhiều mặt có thể miêu tả là một người có bệnh lý xa lánh xã hội. Thật thà mà nói, bắt đầu từ mười tám tuổi cô ấy đã phấn đấu rất giỏi. Mặc dù bị giám hộ mà suốt tám năm hoạt động trong xã hội cô ấy không có làm một điều gì khiến cảnh sát phải lập biên bản hay bắt giam. Nhưng dự đoán bệnh của cô ấy…
– Dự đoán bệnh của cô ấy sao?
– Trong tất cả thời gian này, cô ấy không được điều trị tí nào. Toi đoán hiện căn bệnh mà chúng tôi có thể điều trị và chữa khỏi mười năm trước đang là một phần cố định trong nhân cách cô ấy. Tôi nhìn trước thấy rằng nếu có bị bắt thì cô ấy sẽ cần được điều trị chứ không phải là nhận một bản án tù.
– Vậy tại cái quỷ gì mà tòa án quận lại cho cô ấy được tự do chuyển sang bên xã hội? – Faste nói.
– Có lẽ nên nhìn chỗ này như là sự việc tình cờ gặp nhau. Cô ấy có một luật sư, một luật sư hùng biện, nhưng chuyện này cũng là kết quả của các chính sách tự do hóa hiện hành và các cắt giảm ngân sách. Khi một bác sĩ pháp y hỏi ý kiến, tôi đã phản đối quyết định cho cô ấy sang bên xã hội. Nhưng tôi đã chả còn gì để nói nữa về chuyện này.
– Nhưng kiểu tiên đoán bệnh này nhiều phần chỉ là đoán mò hoàn toàn, ông có nghĩ thế không? – Modig nói. – Ông thực sự không biết được những gì xảy ra với cô ấy từ năm cô ấy mười tám tuổi rồi mà.
– Đây là dựa trên kinh nghiệm nghề nghiệp của tôi, còn hơn cả phỏng đoán.
– Cô ấy có là người tự hủy hoại mình không?
– Bà muốn nói tôi có thể miêu tả cô ấy đã làm cái chuyện tự sát chứ gì? Không, tôi ngờ chuyện đó. Cô ấy là người mắc bệnh tâm thần thuộc loại có ý thức cá nhân rất rõ. Về cô ấy thì tất cả là như thế thôi. Mọi người ở xung quanh đều không quan trọng với cô ấy.
– Ông nói cô ấy có thể phản ứng đến mức quá quắt. – Faste nói. – Nói cách khác, chúng ta có nên coi cô ấy là nguy hiểm không?
Teleborian nhìn Faste hồi lâu. Rồi ông cúi xuống xoa xoa trán.
– Ông không biết rằng nói chính xác về phản ứng của một người nó như thế nào là khó khăn à. Tôi không muốn Lisbeth Salander bị khổ khi ông bắt cô ấy… nhưng có, vâng, nếu bắt cô ấy thì tôi sẽ cố tin chắc chắn rằng ông đã làm vô cùng thận trọng. Nguy cơ rất hiện thực là nếu có vũ khí thì cô ấy có thể sử dụng vũ khí.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.