Cô Gái Thứ Ba

Chương 9



Bà Oliver thức dậy, rất không hài lòng. Trước mặt bà là một ngày dài vô vị. Bản thảo đã viết xong, khiến bà trở nên không có việc làm. Lúc này, bà chỉ còn nghỉ giải trí cho tới lúc có nguồn cảm hứng trở lại. Bà đi lang thang trong căn hộ, nhấc lên xong lại hạ xuống các đồ vật, quan sát bàn viết của bà đầy những bức thư mà bà phải trả lời. Nhưng, trong tâm trí hiện tại, bà thấy mình không đủ can đảm bắt tay vào một việc mệt người như vậy. Lúc này, bà cần có một việc thật hấp dẫn để bắt tay vào. Bà muốn… Bà muốn gì nào? Nói cho đúng đi.

Bà nhớ lại câu chuyện bà đã trao đổi trên điện thoại với ông Hercule Poirot. Ông đã yêu cầu bà phải cẩn thận… Thật là lố bịch! Vì sao bà không được tham gia vào giải quyết cái câu chuyện mà nhà thám tử và bà đã bàn chung với nhau? Ông ta hoàn toàn có thể chọn cho mình cách ngồi thật thoải mái trong một cái ghế bành, nắm hai đầu bàn tay lại để trí tuệ hoạt động trong lúc thân mình thư giãn giữa bốn bức tường. Nhưng với bà thì cách làm đó không hấp dẫn lắm. Bà đã cho Poirot biết là bà sẽ hành động! Bà tìm cách hiểu nhiều hơn về người con gái nọ. Cô ta hiện đang trốn ở nơi nào? Bà Ariane Oliver, bà có thể khám phá ra được gì?

Bà đi đi lại lại trong căn hộ mỗi lúc mỗi thêm cáu kỉnh. Phải bắt đầu từ đâu đây? Bằng cách đặt câu hỏi cho những người đã biết cô Norma Restarick chăng? Bằng việc đi tới thăm gia đình Restarick tại Long Basing chăng? Poirot đã tới đó rồi và có lẽ ông đã tìm ra những thứ cần tìm rồi. Nếu bà lại tới đó, bà sẽ khó tìm ra được một lời xin lỗi để thanh minh thái độ của bà với Poirot.

Bà tính thêm một cuộc đi tới Borodene Mansions. Có khả năng tìm ra tại đây điều gì đó. Bà phải tìm ra một lý do mới. Bà sẽ nghĩ ra… Dù gì, bà cũng cho rằng nơi ở của ba cô gái là nơi xuất phát điểm của con đường dẫn tới Norma Restarick. Nào, lúc này đã là mười giờ rồi. Không phải là quá sớm…

Trên đường đi bà nảy ra một ý nghĩ, không độc đáo lắm nhưng vẫn giá trị hơn là một câu chuyện kỳ lạ nào đó phù hợp với tính cách của một nhà văn như bà. Bà Oliver ngập ngừng một chút trước khi leo lên nhà và bà đi quanh ngôi nhà để suy nghĩ.

Một người gác cổng đang nói chuyện với người lái xe tải dọn nhà. Người đưa sữa đẩy chiếc xe của anh, ngưng bước trước thang máy phục vụ, gần nơi bà Oliver đứng. Anh chàng bận rộn với các chai lọ, miệng hát nho nhỏ, vui vẻ. Trong lúc đó, nhà văn nhìn vào cái xe tải dọn nhà, tâm trí để đi nơi khác.

– Số 76 dọn đi – người đàn ông giải thích, tưởng rằng mình gặp phải một bà tò mò – Có thể nói, không phải bà ta đã dọn đi – ông đưa ngón tay trỏ lên trên phía cao của tòa nhà – Bà ấy đã nhảy qua cửa sổ. Tầng thứ bảy. Chuyện đã xảy ra vào tuần trước. Vào lúc năm giờ sáng. Bà ấy đã chọn một cái giờ kỳ cục!

Bà Oliver không thấy có gì là kỳ cục trong việc đó cả.

– Vì sao?

– Vì sao bà ấy làm vậy à? Không ai biết cả. Như người ta nói, đó là tự tử, trong tình trạng sa sút tâm thần nhất thời.

– Bà ấy còn… trẻ không?

– Không! Một bà già. Ít nhất cũng đã năm mươi tuổi.

Các người thợ dọn nhà bận rộn ở phía sau xe tải, vì vướng phải việc chuyển một cái tủ com-mốt. Hai ngăn kéo bằng gỗ rơi xuống đất và một tờ giấy bay ra, bị gió thổi lên. Bà Oliver chụp lấy nó khi nó bay qua trước mặt bà.

– Này Charlie, đừng làm đổ vỡ mọi thứ nhé! Người đưa sữa la lên vui vẻ, trước khi biến mất trong thang máy.

Các người thợ xúm xít trong xe tải. Bà Oliver đưa họ tấm giấy bị lạc, nhưng họ không thèm chú ý tới.

Bà văn sĩ bỗng nhiên quyết định leo lên chỗ các cô gái. Đáp lại tiếng bấm chuông là một tiếng khua kim loại từ phía bên trong cánh cửa. Cửa mở do một cô gái giữa hai lớp tuổi mở. Cô cầm một miếng bao tay lau nhà trong tay.

– Ô!… Bà Oliver mở đầu, dùng thán từ quen thuộc của bà. Chào buổi sáng! Tôi có thể vào thăm… một trong các cô gái ở đây được không?

– Thưa bà, tôi nghĩ là không thể được ạ. Họ đi vắng cả rồi. Họ đi làm việc mà.

– Phải. Tất nhiên… Tôi chỉ muốn hỏi một cách đơn giản là mình có bỏ quên tại nơi đây cuốn sổ nhỏ của tôi không? Lần chót khi tôi tới đây. Tôi rất phiền lòng vì đã làm mất nó. Có khả năng nó còn nằm trong phòng khách.

– Thưa bà, tôi đã không để ý thấy cái gì như vậy ạ. Nhưng bà có thể vào đó để xem chính mắt mình…

Bà đi theo người khách vào căn phòng.

– À! Đây là cuốn sách mà tôi đã để lại cho cô Restarick, bà Oliver reo lên, tìm cách bắt chuyện với người đàn bà dọn dẹp nhà cửa. Cô ấy đi thăm nhà về chưa?

– Tôi không tin rằng cô ấy hiện đang ở đây. Giường của cô còn nguyên. Có thể cô ấy đang ở với gia đình từ ngày nghỉ cuối tuần tới bây giờ. Mỗi tuần, cô ấy đều về nhà.

– Phải. Có khả năng như vậy. Đây là một trong các cuốn sách của tôi, tôi đã hứa đưa cho cô ấy.

Người đàn bà không có một phản ứng gì.

– Tôi đã ngồi tại đây, bà khách nói tiếp, tay chỉ vào cái ghế bành. Ít nữa, tôi nghĩ như vậy. Sau đó tôi đã đi tới gần cửa sổ, rồi tới cái sập.

Bà kiểm tra đầy đủ các chỗ ngồi và người đàn bà dọn nhà cũng vui vẻ giúp đỡ bà trong việc tìm kiếm này.

– Bà không biết khi ta mất một món đồ gì đó thì rất khổ tâm – Bà văn sĩ giải thích – Tôi đã ghi chép trong đó tất cả các cuộc hẹn gặp và tin rằng mình sẽ có một bữa ăn trưa quan trọng vào hôm nay. Tôi không còn nhớ rõ là ăn với ai và tại đâu nữa. Nếu cuộc hẹn ấy dành cho ngày mai thì như vậy là hôm nay, tôi có một cuộc hẹn khác.

– Tôi hiểu bà, người đàn bà công nhận, rất thông cảm.

– Căn hộ này trông thật dễ thương – bà Oliver nhận xét sau khi đã liếc nhìn khắp lượt căn phòng.

– Nhưng hơi cao so với ý thích của tôi.

– Nhưng nhìn xung quanh rất đẹp.

– Vâng, nhưng nó quá lộ về hướng tây, vào mùa đông nó nhận thẳng làn gió lạnh vào nhà. Các cửa sổ này không chống chọi nổi và một số người thuê đã lắp các cửa sổ đôi cho phòng của họ. Tôi, tôi không ưa một cái phòng loại này. Tôi thích ở dưới tầng trệt hơn. Khi người ta có con nhỏ, ở dưới thuận tiện hơn, vì còn có các xe đẩy. Đúng, tôi thích những tầng trệt hơn. Bà nghĩ xem, nếu chẳng may mà cháy nhà!

– Quả thế, lúc đó sẽ kinh khủng thật, nhưng mà tòa nhà phải có các thang cứu hỏa chớ?

– Bà sẽ không có đủ thì giờ để tới đó đâu. Tôi kinh sợ lửa vô cùng. Tôi luôn luôn như vậy. Và những căn hộ đó lại rất mắc tiền… Bà không đoán ra được họ đòi bao nhiêu đâu? Vì lẽ đó, cô Holland đã lấy thêm hai người mướn chung với mình.

– Tôi đã gặp họ. Cô Cary, tôi tin là một nghệ sĩ phải không?

– Cô ấy làm việc trong một phòng trưng bày về nghệ thuật. Tuy vậy, cô ấy không phải làm gì vất vả lắm đâu. Cô cũng có vẽ những thân cây và những con bò trong không giống lắm. Cô ấy không phải là một người cẩn thận đâu… Bà sẽ nhìn thấy cách cô ấy bày bừa bãi trong phòng mình… không tin nổi! Tại chỗ của cô Holland, ngược lại, mọi thứ đều sạch sẽ và sắp xếp cẩn thận. Cô ấy trước đây là thư ký của công ty Mo, nhưng hiện tại, cô đã chuyển sang làm cho một công ty khác. Cô ấy nói rất thích công ty này. Ông chủ cô ấy là một người rất giàu, vừa ở Nam Phi trở về hay tại một nơi nào bên đó. Ông ấy là cha đẻ ra cô Norma và đã yêu cầu cô thư ký của mình đưa cô Norma về ở chung ngày mà cô cùng thuê nhà trước đây đi lấy chồng… Cô Holland đã cho ông ấy biết cô đang tìm một người con gái đến ở để chia bớt tiền thuê nhà. Vả lại cô ấy đâu có thể từ chối được, phải không bà? Một khi ông ấy là ông chủ của cô…

– Cô ấy muốn từ chối à?

– Tôi nghĩ, nếu biết được như thế cô ấy đã từ chối.

– Nếu biết được cái gì?

Câu hỏi quá thẳng thắn.

– Không phải tôi sẽ là người nói ra đâu. Dầu sao, việc này đâu có dính dáng gì tới tôi.

Bà Oliver lặng thinh và tiếp tục quan sát người đàn bà lắm lời này bằng một ánh mắt dò hỏi. Cuối cùng, không tự kềm được, bà ta cũng lên tiếng:

– Không phải cô ấy không là một cô gái dễ thương, mong bà lưu ý tới điều đó. Khờ khạo… có lẽ là vậy, nhưng các cô gái hầu như đều như vậy. Theo ý tôi, cô ấy cần phải đi khám một bác sĩ. Có những lúc cô ấy không biết mình đang làm gì hay đang ở đâu nữa. Điều đó làm cho ta thương xót!… Cô ấy có dáng vẻ giống y như người cháu của chồng tôi sau một cơn động kinh vậy! Tuy nhiên, tôi không bao giờ nghĩ rằng cô gái này cũng bị như thế. Có lẽ cô ấy dùng ma túy… cả tá người đều làm như vậy mà.

– Tôi nghĩ là cô ấy thường gần gũi người con trai mà gia đình cô không có thiện cảm, phải không?

– Hình như thế đó. Anh chàng có tới đây một hay hai lần để tìm cô ta. Tôi không nhìn thấy anh ta, nhưng tôi đã hình dung ra một anh chàng bảnh bao thuộc thế hệ mới. Cô Holland không ưa cái trò này… nhưng có thể làm gì được? Bây giờ những cô con gái chỉ hành động theo cái đầu của họ mà thôi.

– Nhiều khi người ta lo lắng về họ, bà Oliver tán thành.

– Theo ý tôi, họ đã không được dạy dỗ tốt.

– Tôi cũng lo là như vậy. Người ta có nhận xét là một cô gái như Norma Restarick, đáng lẽ nên ở cạnh cha mẹ hơn là đi tới Luân Đôn này, đế kiếm sống bằng cái nghề trang trí nội thất.

– Cô ấy không ưa sống bên cha mẹ mình.

– Tại sao vậy?

– Bà biết là cô ấy có một người dì ghẻ. Và những cô gái ít thông cảm với người mẹ kế của mình.

Theo nhưng điều mà tôi nắm được, cái bà dì này đã làm mọi việc có thể làm được để nuôi dạy cô ấy tốt hơn, dẫn dắt cô ấy ra khỏi những giao du không tốt. Bà ấy biết rằng những cô gái trẻ thường bị bọn vô lại ảnh hưởng tới, nhiều khi, điều này mang lại những hậu quả rất tai hại. Tôi lấy làm hài lòng là mình đã không có một đứa con gái.

– Bà chỉ có con trai thôi sao?

– Hai đứa. Một đứa là học sinh giỏi và đứa thứ hai đã làm việc tại nhà in. Nó xoay xở tốt. Hai đứa con ngoan… Không phải với con trai thì không xảy ra chuyện gì đâu, nhưng với con gái, tôi nghĩ là tình hình sẽ tồi tệ hơn.

Hiểu rằng bà ta muốn quay trở lại với công việc của mình, bà Oliver lật đật nói thêm:

– Rất tiếc là tôi đã không tìm ra được cuốn sổ tay của mình. Dù sao cũng xin cám ơn bà. Tôi hy vọng đã không làm bà phải phí thì giờ nhiều quá!

– Thưa bà, tôi mong bà sớm tìm ra nó.

Bà Oliver đi ra và hiểu rằng hôm nay mình không thể tìm được gì hơn nữa, nhưng bà đã có một kế hoạch cho ngày mai rồi.

Trên đường về nhà, bà tiểu thuyết gia đã chọn một cuốn sổ và ghi vào đó những gì mình đã khám phá ra được, dưới cái nhan đề: “Những điều tôi đã hiểu được”. Tuy nhiên, xem xét thật kỹ lại thì thấy bà ta chưa hiểu được gì nhiều. Mặc dù óc tưởng tượng của bà thật dồi dào và bà đã phát triển nó tới mức tối đa vào các giả thiết đã hiện ra trong đầu của bà. Chi tiết đáng chú ý nhất là việc cha của Norma là ông chủ của Claudia. Có lẽ, Poirot cũng chưa biết điều này. Bà Oliver nghĩ là nên thông báo cho ông rõ nhưng lại thôi, vì kế hoạch ngày mai của bà. Bà cảm thấy bà là một thám tử không phải là người cầm bút. Đến sáng mai xem sao… thật lòng, để sáng mai xem sao!

* * *

Sáng hôm sau, trung thành với nhiệm vụ đề ra cho mình, Ariane Oliver dậy thật sớm, ăn điểm tâm một trái trứng la-cốc, uống hai tách cà-phê và lên đường. Một lần nữa, bà tới vùng quanh Borodene Mansions. Sợ bị người ta phát hiện ra, không đi vào sân mà lẩn quẩn quanh hai cửa ra vào, quan sát những người khác nhau đã đi ra khỏi tòa nhà, tới những nơi làm việc của họ. Phần lớn những cô con gái đều giống nhau, khiến bà Oliver nảy ra ý kiến so sánh cái dòng người đó như một đạo quân những con kiến.

Đột nhiên, bà nhảy ra phía sau. Claudia Reece-Holland vừa hiện ra từ tòa nhà và đi rảo bước. Như mọi khi, nàng đã tỏ ra chăm chút mình khá cẩn thận. Nhà tác giả quay mặt lại để không bị nhận diện và sau khi để cô gái đi trước vài bước, bà đi theo bén gót cô ấy. Hai người đã nối tiếp nhau như vậy, tới một con đường chính, nơi đó cô thư ký đi vào xếp hàng chờ xe buýt. Bà Oliver có một giây lo ngại. Nếu cô gái quay người lại, cô ấy sẽ nhận ra bà. Bà thám tử nghiệp dư giá vờ hỷ mũi và để cho một vài người xếp hàng kế sau lưng con mồi của mình, rồi mới chen vào cái dây người đang đứng dẫm chân tại chỗ. Tất cả các thứ mẹo vặt đó xem ra không cần thiết, và cô Reece-Holland mải suy nghĩ, đã không hề quan tâm tới xung quanh. Xe buýt tới và mọi người nhào vào trong xe. Claudia leo lên tầng xe bên trên và bà Oliver thì ở tầng dưới. Bà tìm cách ẩn mình gần chỗ đi ra. Không rõ là phải xuống ở nơi nào, bà nhớ lại rằng bà dọn dẹp nhà cửa đã nói tới một tòa nhà chọc trời không xa Saint-Pual, và bà cảnh giác khi xe buýt đi gần tới Nhà thờ lớn này. Quả đúng thế, Claudia đi xuống nơi đó và bà Oliver thì tiếp tục đi theo cô ta.

“Thế là ta dã chơi cái trò thám tử, đúng như trong một tiểu thuyết của ta, bà nghĩ vậy, và ta phải giữ mình cho kỹ vì con nhỏ này chưa nhận ra được ta.”

Trên thực tế, cô gái đã không hề quan tâm tới những người khác. Bà Oliver quyết định rằng nếu một ngày nào đó, cần thiết phải phác họa ra chân dung một kẻ giết người rất tự chủ, thì người đó phải trông thật là giống loại cô Reece-Holland này. Đáng tiếc là trong vụ này, không ai đã bị giết cả, trừ cái việc cô Norma đã dính vào vụ án mạng mà cô ấy đã tự buộc tội mình?

Claudia đi vào trong một tòa nhà hiện đại và bà Oliver đi theo để biết chắc đó là nơi làm việc của cô ta.

Cô này quay người lại trong khi chờ thang máy và khi thang đã tới nơi, bà Oliver giấu mình phía sau một người đàn ông to lớn, có đôi vai rộng để đi vào thang máy sau cô. Hai người rời khỏi thang máy ở tầng thứ tư và bà Oliver đi theo một cái hành lang rộng sau lưng cô Claudia. Cô này biến sau một cánh cửa ra vào, trên đó nhà văn sĩ có thể đọc được: “Josua Restarick, Ltd.”

Bây giờ, bà ta xem ra hơi lạc lõng rồi. Sau khi đã phát hiện ra nơi làm việc của Claudia Reece-Holland, bà ta không có tiến bộ gì hơn trong cuộc điều tra của bà.

Bà hy vọng còn trông thấy một vài người đáng quan tâm sẽ đi từ văn phòng này ra, bà Oliver đi rảo quanh hành lang thêm một lát nữa. Nhưng thất bại, bà đành phải đánh bài rút lui.

Đi trở xuống đường, tha thẩn trong vùng và tính đi vào trong cái nhà thờ lớn.

– Mình có thể đi leo lên tại cái vòm âm thanh và chơi cái trò nghe các hiệu quả của tiếng vang. Mình sẽ tự hỏi không biết một vụ án mạng, tiến hành trong một nơi như vậy sẽ mang lại gì?

Bà lắc đầu, không hài lòng và đi về Mermaid Theatre. Xong cảm thấy đói, bà đi vào một tiệm cà-phê. Các bàn đều gần đầy người rồi. Lơ đãng nhìn vào các thực khách, bỗng nhiên bà nín thở: ở cuối căn phòng gần bức tường, Norma Restarick đang ngồi trước mặt một chàng trai với mái tóc rậm xoăn, mình bận một áo gi-lê bằng nhung màu đỏ và một áo vét kiểu kỳ quặc.

– David, bà Oliver thầm thì. Đúng là David!

Cặp nam nữ hình như đang lao sâu vào một cuộc trao đổi rất sôi động. Bà Oliver lập ra một kế hoạch hành động và hài lòng, bà kín đáo đi vào phòng rửa mặt. Để tránh không bị Norma nhận diện, bà thay đổi chút ít diện mạo của mình. Bà sắp xếp lại mái tóc, rút ra vài lọn nhân tạo cuốn vào khăn tay trước khi bỏ nó vào trong cái túi xách. Bà búi tóc lại thật chặt phía sau gáy, đặt lên sống mũi một cặp mắt kính và tô môi son đã làm biến dạng đôi môi. Hài lòng và thấy mình gần giống một người nữ trí thức, bà đi trở vào căn phòng một cách thật thận trọng vì đôi mắt kính này bà chỉ dùng để đọc sách. Khung cảnh đối với bà lúc này xem ra nhòe đi. Bà chọn một cái bàn cạnh bàn của hai người trẻ tuổi và ngồi đối diện với David. Norma quay lưng ra phía bà.

Bà Oliver kêu một cà-phê và một ly rượu “bun” pha đường. Sau đó bà uống chúng, ra vẻ thật thoải mái.

Hai người láng giềng đều không để ý tới bà. Họ đang bị thu hút vào câu chuyện của mình. Bà Oliver nghe rõ các câu đối thoại.

– Nhưng cô cứ tưởng tượng ra mọi thứ, David công nhận. Đó chỉ toàn là những thứ bậy bạ, không hơn vậy.

– Tôi không biết… Tôi không thể nói được rằng… Giọng cô gái thật ủ ê.

Bà Oliver không nghe rõ tiếng cô ta như tiếng người con trai, nhưng giọng nói của cô đã va chạm rất khó chịu vào tai bà.

“Có cái gì không ổn”, bà suy nghĩ và nhớ lại lời của Poirot đã nói với bà lúc ban đầu: “Cô ấy nghĩ rằng mình có thể phạm tội giết người .”

Trong người cô gái này đang có điều gì? Hoang tưởng chăng? Tâm trí của cô đang bất an? Có thực cô ấy đã phạm vào một vụ án mạng và thần kinh của cô ấy đang bị ảnh hưởng của cú sốc đó?

– Nếu cô muốn nghe ý của tôi, đó chỉ là những cung cách quen thuộc của Mary mà thôi, David nói. Mary là một người điên rồ, luôn luôn tưởng ra rằng mình mang đủ mọi thứ bệnh.

– Tuy nhiên, bà ấy đã ốm thực sự.

– Cứ cho là như vậy. Nhưng bất kỳ người nào khác cũng có thể yêu cầu với người bác sĩ cho mình một liều thuốc trụ sinh: tuy không hoảng sợ đến như vậy!

– Bà ấy nghĩ rằng tôi phải chịu trách nhiệm và cha tôi cũng nghĩ như vậy đó.

– Tôi lặp lại với Norma, rằng cô đã tưởng tượng ra mọi thứ như vậy!

– Anh chỉ nói vậy để lấy lòng tôi mà thôi. Chúng ta hãy hình dung rằng chính tôi là người đã cho bà ấy hưởng thứ đó.

– Cô muốn nói gì về các từ: “chúng ta hãy hình dung “? Cô phải biết là mình có làm như vậy hay không chớ? Cô đâu có ngờ nghệch tới mức không nhớ rõ điều mình đã làm!

– Tôi không còn biết nữa!

– Cô chỉ lập đi lập lại mỗi câu như vậy. “Tôi không còn biết nữa, tôi không biết nữa!”

– David, anh không hiểu gì cả. Anh có ý niệm gì về các từ thù hận đâu. “Tôi đã thù hận bà ấy ngay khi vừa nhìn thấy bà.”

– Đồng ý. Cô đã kể lại cho tôi nghe rồi.

– Đó thật là một câu chuyện lạ lùng vào bậc nhất. Tôi đã kể với anh, vậy mà tôi lại cứ nghĩ là mình chưa kể. Anh biết không? Đôi lúc tôi đã kể ra một số điều cho nhiều người những gì mà mình đã làm hay là mình có ý định làm. Sau đó, tôi không còn nhớ là mình đã đề cập vấn đề đó trước mặt họ nữa. Như là mọi thứ đã đi qua trong đầu tôi, và câu chuyện khớp với nhau một cách ngẫu nhiên vậy. David, tôi đã khẳng định với anh rằng mình đã căm nghét bà ấy chưa vậy?

– Tôi đề nghị, chúng ta không đi trở lại vấn đề đó nữa.

– Nhưng đúng thật là tôi đã nói với anh điều đó rồi.

– Mọi người đều có những việc ngu ngốc tương tự: “Tôi căm ghét bà ấy và tôi muốn giết chết bà ấy, tôi nghĩ mình sẽ đầu độc bà ấy”. Đó chỉ là những câu chuyện của trẻ con mà thôi. Đúng là cô không có vẻ đã trưởng thành lên được một chút nào đó. Một phản xạ tự nhiên của những người trẻ tuổi. “Tôi căm ghét một ai đó, tôi muốn cắt đầu hắn ta quá”. Họ đã tuyên bố như trên, trong trường hợp đối với một thầy giáo đã hành hạ họ.

– Anh tin rằng điều này không nghiêm trọng hơn sao? Điều này, dù gì cũng chứng minh rằng tôi chưa thực sự đã trưởng thành sao?

– Trên một phương diện nào đó, cô chưa như vậy đâu. Nếu cô chỉ cần bình tĩnh hơn và nhận thức ra rằng tất cả những điều đó đã lố bịch như thế nào! Nếu cô căm ghét bà ấy, thì đã dẫn tới đâu nào? Cô đã đi khỏi nhà và không còn buộc phải sống chung với bà ấy nữa. Rồi sao?

– Vì sao tôi không sống chung ở nhà với cha tôi? Thật không công bằng. Ông ấy đã bỏ rơi mẹ con tôi và khi ông ấy trở về với tôi thì đã có Mary rồi. Tất nhiên là tôi căm ghét bà ấy và bà ta cũng căm ghét tôi. Tôi có thói quen là nghĩ rằng mình sẽ giết chết bà ấy, tưởng tượng ra cách mình sẽ thi hành nhai đi nhai lại một cách thích thú các ý nghĩ đó, cho tới khi bà ấy ngã bệnh thực sự…

David phát biểu bằng một cái giọng kém tự tin hơn:

– Ít nữa, cô không nghĩ là mình là một mụ phù thùy chớ? Cô không làm ra những con búp-bê bằng sáp rồi đem ghim vào đó những cái đinh chớ?

– Ồ! Không! Như thế thật ngu si quá! Những gì tôi đã thực hiện đều là sự thực, thực tế là sự thật mà thôi!

– Cô muốn nói gì đấy?

– Cái chai còn đó, trong ngăn kéo của tôi. Tôi đã tìm ra được nó.

– Cái chai gì?

– Chai thuốc diệt cỏ có ghi: “Con Rồng hủy diệt”. Đó là một cái chai màu xanh lá cây sậm mà người ta phun các chất trong đó lên các cây trong vườn. Nhãn còn ghi thêm: “Cẩn thận. Thuốc độc.”

– Cô đã mua nó hay chỉ tìm ra nó mà thôi?

– Tôi không biết nhưng tôi đã khám phá ra nó nằm trong ngăn kéo của tôi, đã vơi đi một nửa.

– Sau đó cô đã nhớ lại?

– Đúng. Đúng. – Cô phát biểu theo cách một người mộng du – Phải, tôi tin rằng chính lúc đó sự việc đã hiện lên trong đầu óc tôi. David, anh cũng cho là như thế đó, phải không?

– Norma, tôi không nghĩ phải hiểu cô như thế nào nữa! Tôi cho là cô đã tưởng tượng ra tất cả những câu chuyện này và cô tin chắc rằng sự việc đã phải xảy ra đúng như vậy. Tuy nhiên, bà ấy đã phải vào nằm xét nghiệm trong một bệnh viện. Không ai hiểu điều gì xảy ra cả. Cuối cùng bà ấy đã trở về nhà, rồi sự việc trở lại như trước đó. Lúc ấy tôi bắt đầu sợ. Cha tôi nhìn tôi với vẻ mặt lạ kỳ, xong ông đã khóa kín mình trong văn phòng với ông bác sĩ. Tôi đi ra ngoài, cố tìm cách nghe lén những điều họ nói chuyện. Họ xếp đặt để nhốt tôi ở một nơi nào đó để có thể dễ đàng theo dõi tôi. Anh hiểu không, họ nghĩ rằng tôi đã bị điên và tôi sợ… bởi vì… Bởi vì tôi cho là có thể họ đã có lý.

– Đó là lúc mà cô đã trốn nhà ra đi?

– Không, chỉ ít lâu sau mà thôi.

– Kể lại cho tôi đi.

– Tôi không muốn trở lại vấn đề này nữa.

– Sớm hay muộn gì thì cô cũng phải cho họ biết là mình hiện đang ở đâu chớ?

– Không, tôi căm ghét họ! Tôi căm ghét cha tôi cũng như đã căm ghét Mary vậy. Tôi ước ao sao họ đều chết đi… cả hai người. Và thế là… thế là… tôi sẽ hạnh phúc trở lại.

– Cô đừng nổi nóng. Norma, nghe đây… Tôi, hờ… tôi không phải là phái tán thành hôn nhân. Tôi muốn nói rằng… Nói gọn lại, tôi không bao giờ nghĩ mình phải thực hiện một điều như thế… Ít nữa, cũng trong nhiều năm trước mắt. Nhiều người do dự khi phải tròng cái thòng lọng vào cổ mình. Nhưng tôi tin rằng chúng ta có thể làm một điều tốt hơn, đó là kết hôn tại tòa thị sảnh. Muốn làm vậy, cô phải tuyên bố là mình đã đủ hai mươi mốt tuổi. Cô có thể đi làm lại cái đầu, mang một cặp mắt kính. Một khi chúng ta đã cưới nhau thì cha cô sẽ không làm gì cô được nữa.

– Tôi căm ghét ông ta.

– Coi bộ, cô đã căm ghét mọi người!

– Chỉ có cha tôi và Mary mà thôi.

– Rất tự nhiên là một người đàn ông phải cưới vợ phải không?

– Anh hãy xem những gì mà ông ấy đã gây ra cho mẹ tôi đó.

– Mọi việc đã xảy ra quá lâu rồi.

– Lúc đó tuy chỉ là một đứa con nít, nhưng tôi cũng đã hiểu. Ông bỏ chúng tôi mà ra đi. Ông ấy đã gửi cho tôi những quà Noel nhưng không trở về. Khi ông trở về, chắc tôi cũng không nhận ra ông nếu gặp ở ngoài đường. Trong cả thời gian đó, ông không có nghĩa gì đối với tôi cả. Tôi cho rằng ông ấy đã muốn dứt bỏ cả mẹ tôi nữa. Bà có thói quen rời khỏi nhà khi bà ấy đau ốm. Tôi đã không biết bà ấy đi đâu. Tôi tin là có cái gì không ổn trong đầu tôi và rằng đến một ngày nào đó, điều ấy sẽ dẫn tôi tới một việc làm rất ghê sợ. Giống như với con dao…

– Con dao nào?

– Một con dao. Chi là một con dao mà thôi.

– Cô có thể giải thích cho tôi biết là cô muốn nói gì không?

– Có một dấu máu trên đó. Nó được giấu trong đống đồ của tôi… dưới những đôi tất.

– Cô nhớ là chính cô đã đặt chúng ở đó?

– Có thể… nhưng tôi không nhớ ra nơi mình đã nhặt được nó. Tôi cũng không nhớ là mình đã đi đâu nữa. Một tiếng đồng hồ tròn của buổi tối đó đã thoát ra ngoài trí nhớ của tôi. Không còn gì được nhớ lại trong một tiếng đồng hồ đó, một tiếng đồng hồ mà tôi đã đi tới một nơi nào đó, đã làm một việc gì đó…

– Suỵt – David nhắc ngay khi trông thấy cô phục vụ đi tới gần cái bàn – Mọi việc rồi sẽ ổn thôi. Tôi sẽ lo liệu cho cô. Chúng ta ăn thêm cái gì nhé?

Anh xem bản thực đơn và gọi món đậu bằm với nước xốt và bánh mì nướng.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.