Còn Đó Đam Mê
Chương 2
Ánh nắng mặt trời màu lam ngọc, thảm tảo biển dợn sóng, và làn gió mặn mòi nồng nàn đến mức có thể nếm được chào đón Georgeanne tới bờ biển Thái Bình Dương. Cánh tay cô bỗng nổi da gà khi cô nhướn mắt lướt nhìn đại dương xanh thẳm dâng lên cuồn cuộn và những con sóng bạc đầu tung bọt trắng xoá.
Tiếng kêu náo loạn của đám mòng biển đâm thủng bầu không trung khi John lái chiếc Corvette ngược lên lối xe của một ngôi nhà màu xám chẳng có gì nổi bật với những cánh cửa chớp màu trắng. Một người đàn ông đứng tuổi mặc áo phông không tay, quần cộc polyester màu ghi xám, đi tông cao su rẻ tiền đứng bên hiên nhà.
Ngay khi xe dừng bánh, Georgeanne với lấy tay nắm, mở cửa và bước ra. Cô không đợi John giúp mình – đằng nào cô cũng chẳng tin anh sẽ giúp cô. Sau khi ngồi trong xe một tiếng rưỡi đồng hồ, với chiếc áo nịt không dây cọ vào người, cô đau đến mức đã nghĩ rốt cuộc mình cũng sắp nôn.
Cô kéo gấu váy hồng xuống dưới đùi, rồi với lấy va li và giày. Gọng sắt của áo nịt chọc vào sườn khi cô cúi xuống nhét chân vào đôi giày hồng.
“Chúa ơi, con trai” người đàn ông đứng trên hiên lầm bầm gọi bằng giọng gay gắt. “Lại một vũ nữ nữa hả?”
John nhăn trán cau có khi dẫn Georgeanne tới cửa trước. “Ernie, cháu muốn giới thiệu với ông, cô Georgeanne Howard. Georgie, đây là ông tôi, Ernest Maxwell.”
“Chào ông ạ.” Georgeanne chìa tay ra bắt rồi nhìn vào khuôn mặt già nua giống diễn viên Burgess Meredith đến kì lạ.
“Dân miền Nam… hmmm.” Ông quay người dợm bước vào nhà.
John giữ cánh cửa kính mở cho Georgeanne bước vào ngôi nhà toàn đồ vàng nhạt, xanh lá và xanh lam tươi sáng, tạo ấn tượng rằng cả khung cảnh rộng lớn ngoài kia đang ùa cả vào phòng khách. Mọi thứ dường như đều được lựa chọn cho phù hợp với đại dương và bờ cát – mọi thứ trừ chiếc ghế sofa Naugahide màu đen dán băng dính vải màu bạc và hai cây gậy chơi khúc côn cầu đã gãy đặt nghiêng thành hình chữ X trên chiếc tủ trưng bày chật đầy cúp lưu niệm.
John với lấy chiếc kính râm rồi quẳng xuống bàn cà phê bằng gỗ có mặt kính. “Có một phòng dành cho khách ở cuối hành lang, phòng cuối cùng bên tay trái. Phòng tắm ở bên phải,” anh nói khi đi ngang phía sau Georgeanne để bước vào bếp. Anh chộp lấy một lon bia trong tủ lạnh và bật nắp. Đưa lon bia lên miệng, anh đứng tựa vai vào cửa tủ lạnh đã đóng. Lần này anh đã làm mọi thứ bát nháo cả lên rồi. Lẽ ra anh không bao giờ nên giúp Georgeanne, và mẹ kiếp, dứt khoát là anh không bao giờ nên đưa cô ta đi theo. Anh đã không muốn giúp, nhưng lúc ấy cô ta cứ nhìn anh chằm chặp, trông sợ hãi và vô cùng yếu đuối, và thế là anh đã không thể bỏ mặc cô lại bên đường. Anh chỉ còn biết đặt hết hi vọng vào việc Virgil sẽ không bao giờ phát hiện ra chuyện này.
Anh đẩy mình khỏi tủ lạnh rồi trở lại phòng khách, Ernie đã thả mình xuống chiếc ghế thư giãn yêu thích của ông, chăm chú nhìn Georgeanne. Cô đứng bên lò sưởi với mái tóc rối tung vì gió và chiếc váy hồng bé xíu nhăn nhúm. Cô có vẻ kiệt sức, nhưng ánh mắt của Ernie cho anh thấy cô còn ngon lành hơn cả một bữa tiệc Buffet cho phép ăn thoả thích.
“Có chuyện gì à, Georgie?” John hỏi, và đưa chai bia lên miệng. “Sao cô còn chưa thay đồ?”
“Tôi có chút rắc rối,” vẫn giọng kéo dài kiểu miền Nam, rồi nhìn anh. “Tôi chẳng có bộ quần áo nào cả.”
Anh đưa chai bia lên chỉ. “Thế trong va li kia có gì?”
“Mỹ phẩm.”
“Mỗi thế thôi?”
“Không.” Cô liếc vội Ernie. “Cả đồ lót và ví.”
“Quần áo của cô đâu?”
“Trong bốn cái va li để sau chiếc Rolls-Royce của Virgil.”
Có vẻ như anh sẽ không chỉ phải cho cô ta ăn, cho cô ta ở, mà còn phải cho cô ta mặc nữa. “Trời ạ,” anh nói, rồi để chai bia lên bàn cà phê và dẫn cô tới cuối hành lang vào phòng mình. Anh bước tới tủ quần áo, lôi ra một chiếc áo phông cũ màu đen và một chiếc quần soóc dải rút màu xanh lá trong ngăn tủ. “Đây,” anh nói, quẳng chúng lên trên tấm chăn màu xanh da trời phủ trên giường trước khi quay người đi thẳng ra cửa.
“John?”
Tiếng cô mấp máy gọi khiến John dừng bước, nhưng anh không quay lại. Anh không muốn thấy cái nhìn sợ hãi trong đôi mắt xanh lá của cô. “Gì thế?”
“Tôi không thể tự mình cởi cái váy này. Tôi cần anh giúp.”
Anh quay lại thấy cô đang đứng trong dải nắng vàng tràn vào phòng từ ô cửa sổ.
“Có mấy cái cúc nhỏ xíu phía trên.” Cô ngượng nghịu chỉ.
Cô ta không chỉ muốn quần áo của anh, mà còn muốn anh cởi đồ cho cô ta.
“Chúng trơn tuột,” cô giải thích.
“Quay người lại,” anh yêu cầu, giọng sắc lẹm khi anh bước thẳng tới chỗ cô.
Cô không nói gì, quay nghiêng sang anh, đối diện với tấm gương tủ. Giữa đôi vai mịn màng của cô, bốn cái cúc nhỏ xíu cài chặt phần thân trên váy. Cô hất tóc sang một bên, để lộ những sợi tóc tơ loăn xoăn mới nhú ngay bên dưới đường viền chân tóc. Làn da cô, tóc cô, giọng nói miền Nam của cô, tất cả những gì thuộc về cô đều mềm mại.
“Làm thế nào cô chui vào được thứ này?”
“Tôi có người giúp,” cô nhìn anh qua tấm gương. John chẳng nhớ nổi có lần nào mình từng giúp một phụ nữ cởi đồ mà sau đó lại không đưa cô ta lên giường, nhưng anh cũng không định đụng chạm vào người cô dâu bỏ trốn của Virgil nhiều hơn mức cần thiết. Anh đưa tay lên giật mạnh cho tới khi một chiếc cúc nhỏ tuột khỏi khuyết áo.
“Tôi không thể hình dung được những gì tất cả bọn họ đang nghĩ lúc này, Sissy đã cố cảnh báo tôi đừng cưới Virgil. Tôi cứ ngỡ mình có thể vượt qua được chuyện này, nhưng rồi tôi lại thấy mình không thể.”
“Cô không nghĩ là lẽ ra mình nên đi đến kết luận đó trước ngày hôm nay sao?” anh hỏi, và đưa tay xuống thấp hơn.
“Có mà. Tôi đã bảo với Virgil là tôi đang nghĩ lại. Tôi đã cố nói với ông ta chuyện này tối qua, nhưng ông ta không nghe. Rồi tôi đã thấy bộ đồ ăn bằng bạc đó.” Cô lắc đầu và một lọn tóc xoăn mềm mại rủ xuống lưng cọ cọ vào làn da mịn màng của cô. “Tôi cực kỳ mê đồ bạc Francis I 1, và bạn bè ông ta liền gửi tặng tôi cả một lô xích xông,” cô nói, mơ màng cứ như thể anh hiểu cô đang kể chuyện khỉ gì vậy. “Ôi… chỉ cần trông thấy những hoạ tiết hình quả trên cán dao thôi cũng đủ khiến tôi run lên xúc động rồi. Sissy nghĩ tôi nên chọn loại rập nổi đơn giản, nhưng tôi vẫn luôn là một cô gái Francis I. Thậm chí hồi còn nhỏ…”
John vốn không mấy kiên nhẫn với những chuyện tán gẫu của phụ nữ. Lúc ấy anh chỉ mong có cái máy nghe nhạc và băng cassette của Tom Petty. Nhưng vì không có, anh đành tảng lờ cô. Anh vẫn thường bị kết tội là một tên khốn chính hiệu, một danh tiếng mà anh vẫn xem như vốn quý. Như thế anh chẳng phải lo chuyện đám phụ nữ sẽ nảy ra ý gây dựng mối quan hệ dài lâu với anh.
“Dù sao thì cũng đang đứng đấy, anh có thể cởi khoá giúp tôi không?” cô nói tiếp. “Tôi gần như đã sướng phát khóc khi dán mắt nhìn những chiếc nĩa nhỏ, thìa với hoạ tiết quả bưởi chùm và…”
John cau có nhìn cô trong gương, nhưng cô không bận tâm. Ánh mắt cô còn bận hướng xuống chiếc nơ lớn màu trắng đính trên thân trước của chiếc váy. John với tới chiếc khoá, và khi kéo xuống anh hiểu ngay tại sao Georgeanne lại thở khó khăn đến vậy. Giữa khe khoá đang mở là mấy cái móc bạc nối với loại đồ lót mà ngay tắp lự John nhận ra là một cái áo nịt không dây. May bằng vải xa tanh hồng, có ren và gọng, chiếc áo nịt lằn sâu vào làn da mềm mại của cô.
Cô đưa một tay lên chiếc nơ, ép chặt vào bộ ngực tròn căng để giữ chiếc váy khỏi tụt xuống. “Việc trông thấy bộ đồ ăn bằng bạc yêu thích đã khiến tôi u mê, và có lẽ vì thế tôi đã để mình bị Virgil thuyết phục rằng đó chỉ là những bồn chồn lo lắng trước đám cưới. Tôi thực lòng muốn tin ông ta…”
“Xong,” John tuyên bố khi xong việc với cái khoá.
“Ồ.” Cô ngước nhìn anh qua tấm gương, rồi vội cụp mắt xuống. Má cô đỏ lựng lên khi cô nói, “Anh có thể cởi luôn cái… đó… đó giúp tôi không?”
“Áo nịt của cô ư?”
“Vâng, xin anh.”
“Tôi có phải con hầu của cô,” anh lầm bầm, rồi đưa tay lên giật mạnh cho mấy cái móc tuột hỏi lỗ. Khi loay hoay tháo mấy cái móc tí hin, các khớp ngón tay anh cọ cọ tạo thành những vết hồng trên da cô. Cơn run rẩy chạy qua người cô khi một hơi thở dài chầm chậm hắt ra từ sâu trong cổ họng.
John ngước lên nhìn vào gương, và tay anh bất động. Lần duy nhất anh từng thấy cái vẻ ngất ngây ấy trên gương mặt đàn bà là khi anh đang ở rất sâu bên trong cô ta. Cơn ham muốn thoáng rạo rực ở thấp dưới bụng anh. Phản ứng của cơ thể anh trước mắt và môi cô khiến anh phát cáu.
“Ôi Chúa ơi.” Cô thở sâu. “Tôi không thể nói cho anh cảm giác ấy tuyệt đến thế nào được đâu. Tôi chỉ định mặc cái váy này không quá một giờ đồng hồ, vậy mà giờ đã ba tiếng rồi đấy.”
Cơ thể anh có lẽ đã phản ứng trước một người đàn bà đẹp – thực ra thì anh sẽ lo nếu không thế – nhưng anh không định làm gì cả. “Virgil là một lão già,” anh nói, chẳng buồn giấu giếm vẻ bực bội trong giọng nói. “Thế quái nào mà cô lại hi vọng ông ta lôi được cô ra khỏi thứ này chứ?”
“Nói thế thật không tử tế,” cô thì thầm.
“Đừng mong chờ sự tử tế ở tôi, Georgeanne,” anh cảnh báo cô, và kéo mạnh vài cái móc. “Nếu không, tôi sẽ buộc phải làm cô thất vọng đấy.”
Cô nhìn anh, và buông tóc rủ xuống ngang vai. “Tôi nghĩ nếu muốn anh có thể tử tế đấy.”
“Đúng vậy,” anh đáp, và đưa tay lên định xoa bớt những vệt hồng trên lưng cô, nhưng rồi lại buông thõng xuống trước khi kịp ve vuốt làn da cô. “Đấy là nếu tôi muốn,” anh nói, rồi rời khỏi phòng, đóng cửa lại phía sau.
Ngay khi bước vào phòng khách, anh lập tức cảm thấy cái nhìn đầy dò xét của Ernie, John giật lấy chai bia từ trên bàn, ngồi xuống đi văng kê đối diện chiếc ghế ngửa cũ của ông, và đợi Ernie bắt đầu bắn ra loạt câu hỏi. Anh không phải đợi lâu.
“Anh đón con bé ấy ở đâu?”
“Đó là một câu chuyện dài,” anh đáp. Rồi giải thích không bỏ sót chi tiết nào.
“Trời ạ, anh mất trí rồi sao?” Ernie nhoài người về phía trước, gần như nhổm người hẳn khỏi ghế. “Anh nghĩ xem Virgil sẽ làm gì? Theo lời anh kể thì gã đó đâu phải loại người khoan dung, còn anh thì gần như đã đánh cắp cô dâu của ông ta vậy.”
“Cháu không đánh cắp cô ta.” John để chân lên bàn cà phê và lún mình sâu hơn vào lớp nệm. “Cô ta đã bỏ ông ấy.”
“Phải.” Ernie khoanh tay trước khuôn ngực lép kẹp và nhìn John giận dữ. “Ngay tại bàn thờ Chúa. Một người đàn ông sẽ khó mà quên đi và tha thứ cho những chuyện như thế.”
John tì khuỷu tay lên đùi rồi đưa chai bia lên miệng, “Ông ta sẽ không biết đâu,” anh nói, và nốc một hơi dài.
“Anh nên hi vọng là ông ta không biết. Chúng ta đã phải làm việc mửa mật để tiến xa được đến thế này,” ông nhắc nhở.
“Cháu biết,” anh nói, ông đâu cần nhắc nhở anh. Để được như ngày hôm nay, anh đã mang ơn ông rất nhiều. Sau khi bố mất, mẹ con anh đã phải chuyển đến ở ngay cạnh nhà Ernie. Mùa đông nào Ernie cũng đổ nước đầy sân sau để anh có chỗ trượt băng. Chính Ernie là người đã luyện tập cùng anh ở ngoài trời trên cái sân băng lạnh giá đó cho tới khi họ rét tới tận xương tuỷ. Chính Ernie là người đã dạy anh chơi khúc côn cầu, đưa anh tới những trận thi đấu, và ở lại cổ vũ anh. Chính Ernie là người đã luôn hàn gắn mọi thứ khi cuộc sống trở nên thực sự tồi tệ.
“Anh định xử con bé thế nào?”
John ngước lên nhìn ông già. “Gì ạ?”
“Đó chẳng phải là điều mà ngày nay bọn trẻ các anh vẫn thường nói sao?”
“Lạy Chúa Jesus,” anh nói, dù cũng chẳng sốc lắm “Ernie à, không, cháu sẽ không làm gì cô ta đâu.”
“Ta cũng hi vọng thế.” Ông bắt một chân xương xẩu lên chân kia, tiếng khớp xương kêu răng rắc. “Nhưng nếu Virgil phát hiện ra con bé ở đây, ông ta sẽ nghĩ anh đã làm thế đấy.”
“Cô ta không phải loại cháu thích.”
“Cô ta chắc chắn là loại anh thích,” Ernie bác lại. “Cô ta gợi ta nhớ tới cái cô vũ nữ thoát y mà anh đã hẹn hò dạo trước, Cocoa Ladude.”
John liếc nhìn hành lang, ơn Chúa vì hành lang trống. “Tên cô ta là Cocoa Laduke, và cháu không hẹn hò với cô ta.” Anh lại nhìn ông rồi nhíu mày. Ngay cả khi Ernie chưa bao giờ nói ra, John vẫn có cảm giác ông không tán thành lối sống của anh. “Cháu không nghĩ sẽ được gặp ông ở đây đâu đấy,” anh đổi chủ đề.
“Vậy ta nên ở đâu khác đây?”
“Ở nhà.”
“Mai là ngày mồng sáu.”
John quay cái nhìn trân trân ra phía ô cửa lớn hướng ra biển. Anh dõi mắt theo những con sóng bạc đầu chồm lên rồi cuộn tròn mình lại. “Cháu không cần ông dắt tay.”
“Ta biết, nhưng ta nghĩ anh sẽ thích có bạn uống bia cùng.”
John nhắm mắt lại. “Cháu không muốn nói đến Linda đâu.”
“Chúng ta không phải làm thế. Mẹ anh lo lắng cho anh. Anh nên chăm gọi điện cho bà ấy.”
John búng búng ngón cái vào nhãn chai bia. “Vâng, cháu nên làm như vậy,” anh đồng ý, dù biết mình sẽ không làm thế. Chắc chắn mẹ anh sẽ lại cằn nhằn về chuyện bia rượu và bảo rằng anh đang tự dẫn mình vào con đường tự hủy hoại bản thân. Bởi đã biết bà nói có phần có lý rồi, nên anh cũng chẳng cần phải nghe thêm nữa. “Khi lái xe qua thị trấn, cháu thấy Dickie Marks bước ra từ quán bar ruột của ông,” anh nói, lại lái sang chủ đề khác.
“Trước đấy ta cũng gặp ông ấy rồi.” Ernie đẩy người tới trước rồi chậm chạp đứng lên khỏi ghế, nhắc John nhớ rằng ông anh đã bảy mươi mốt tuổi. “Bọn ta định đi câu cá vào buổi sáng. Cháu nên dậy sớm cùng đi.”
Nếu là vài năm trước, hẳn John sẽ là người có mặt ở tàu sớm nhất, nhưng gần đây anh luôn thức dậy với cái đầu đau như búa bổ. Anh đã không còn hứng thú với việc dậy từ sớm tinh mơ rồi ngồi đến tê cả mông nữa. “Cháu sẽ suy nghĩ về chuyện này,” anh trả lời, biết mình sẽ không tham gia.
Georgeanne cài chiếc áo lót màu nâu hạt dẻ, với lấy chiếc áo phông rồi trùm qua đầu. Một chiếc mũ lưỡi trai Seahawks, một chiếc đồng hồ bấm giờ, một cuộn băng cứu thương của hãng Ace, và một tầng bụi dày đang ngự trên chiếc tủ quần áo trước mặt cô. Cô nhìn trân trân vào chiếc gương lớn trên tủ mà co rúm người lại. Cái áo vải cotton đen thui chật căng ở ngực cô còn ở mọi chỗ khác thì thùng thình. Trông cô chẳng khác nào một cơn ác mộng của ngành thời trang, vì thế cô nhét đuôi áo vào trong cái quần soóc dải rút lùng nhùng, mà như thế thì chỉ làm nổi bật mỗi bộ ngực và cặp mông bự của cô – hai phần cô thà không nhấn vào còn hơn. Cô lại giật giật cái áo ra khỏi cạp quần và để nó buông thõng trên hông, ném đôi giày vào chiếc va li du lịch rồi chộp lấy gói sôcôla Snicker. Ngồi bên mép giường, cô bóc lớp giấy gói màu nâu sẫm, rồi cắn ngập răng vào thanh sôcôla béo ngậy. Tiếng thở hắt ra khoan khoái buột khỏi môi khi cô nhai kẹo. Duỗi người nằm trên chiếc chăn màu da trời, cô nhìn chằm chằm vào ngọn đèn gắn trên trần nhà. Hai con ngài chết khô nằm dưới đáy hộp đèn thủy tinh trắng đục. Vừa ngấu nghiến nhai kẹo, cô vừa lắng nghe câu được câu mất trong cuộc nói chuyện của John và Ernie vọng qua chiếc cửa gỗ. Biết John chẳng ưa gì mình, cô thấy thật kỳ quặc khi âm sắc trầm ấm trong giọng nói của anh lại xoa dịu làm cô bình tâm trở lại. Có lẽ bởi anh là người duy nhất cô quen biết ở nơi xa xôi này, hoặc cũng có thể do cô cảm thấy anh không phải là gã ngốc mà anh đang vờ tỏ vẻ. Vả lại, thân hình to như con bò mộng của người đàn ông ấy gần như có thể khiến bất cứ phụ nữ nào cảm thấy an toàn lắm chứ.
Cô vùi đầu trên gối của John, chân vắt ngang qua cái váy cưới vứt chỏng chơ ở cuối giường. Chén sạch sôcôla xong, cô nghĩ tới việc gọi điện cho Lolly, nhưng rồi lại lần chần. Cô chẳng vội vàng muốn nghe phản ứng của bà làm gì. Cô định ngồi dậy, nhưng rồi lại nhắm mắt. Cô nghĩ tới lần đầu tiên gặp Virgil tại ngôi nhà ướp hương thơm ngát ở Neiman-Marcus, Dallas. Vẫn thật khó tin là chỉ hơn một tháng trước đây thôi cô còn đang làm nhân viên bán nước hoa, đi phát các sản phẩm mẫu của hãng Fendi và Liz Claiborne. Có lẽ cô sẽ chẳng để ý tới Virgil nếu ông ta không tiến lại gần cô. Có lẽ cô sẽ không nhận lời mời ăn tối của ông ta ngay từ lần đầu tiên nếu ông ta không mang theo hoa hồng và cùng chiếc limousine đỗ bên đường đợi cô tan giờ làm. Tội gì mà không chui vào chiếc limo bật điều hòa mát rượi để trốn cơn nóng bức ngột ngạt, nhớp nháp, và khói xe buýt cơ chứ. Nếu không cô đơn đến thế, và nếu tương lai của cô không bất an đến thế thì có lẽ Georgeanne sẽ không đồng ý cưới một người đàn ông mà cô chỉ mới quen chừng ấy thời gian.
Đêm qua cô đã cố nói với Virgil rằng cô không thể lấy ông ta. Cô đã cố hủy hôn, nhưng ông ta không chịu nghe. Cô cảm thấy thật tồi tệ trước việc mình làm, nhưng cô không biết phải sửa chữa thế nào.
Để mặc nước mắt tuôn rơi, những giọt nước mắt mà cả ngày hôm nay cô đã phải kìm nén, cô vùi mặt vào gối của John lặng lẽ sụt sùi. Cô khóc cho mớ ngổn ngang rối nùi mà cô đã gây ra cho cuộc đời mình, và cho cảm giác trống rỗng bên trong. Tương lai lừng lững trước mắt cô, đáng sợ và bất trắc. Người thân duy nhất của cô là hai ông bà họ xa đã già sống nhờ trợ cấp an sinh xã hội và cả đời chỉ xoay quanh những lần chiếu lại bộ hài kịch truyền hình I love Lucy.
Cô chẳng có gì và chẳng biết ai ngoài người đàn ông đã bảo cô đừng trông mong lòng tử tế ở anh ta. Bỗng nhiên cô cảm thấy mình chẳng khác nào nhân vật Blanche Dubois trong phim Chuyến tàu mang tên dục vọng 2. Cô xem tất cả các bộ phim mà Vivien Leigh từng đóng, và cô nghĩ có chút gì hơi mê tín, hơn cả trùng khớp ngẫu nhiên, khi John mang họ Kowalsky3.
Sợ hãi và cô đơn, nhưng cô cũng cảm thấy thoáng nhẹ lòng khi không còn phải sống trong ngụy tạo. Cô sẽ không phải vờ vịt thích gu thẩm mỹ ngớ ngẩn của Virgil trong việc chọn quần áo và những thứ rác rưởi mà ông ta muốn cô khoác lên mình.
Kiệt sức, cô khóc miết rồi ngủ thiếp đi. Mãi tới khi giật mình thức giấc và ngồi bật dậy trên giường, cô mới nhận ra mình đã ngủ quên.
“Georgie?”
Một bên tóc rủ qua mắt trái khi Georgeanne quay người về phía ngưỡng cửa ngập nắng và nhìn thẳng vào khuôn mặt mà cô tin chắc mình mơ màng hình dung ra từ khuôn mặt của một trong những anh chàng dũng mãnh in trên lịch kia. Hai tay anh bám vào khung cửa ở ngay trên đầu, và chiếc đồng hồ màu bạc được chỉnh sao cho mặt đồng hồ áp đúng vào mạch đập nơi cổ tay anh. Anh đứng nghiêng người sang một bên, và trong vài khoảnh khắc cô nhìn anh đăm đắm, mất phương hướng.
“Cô có đói không?” Anh hỏi.
Cô chớp mắt vài lần trước khi mọi thứ bình thường trở lại. John đã thay đồ, anh mặc chiếc quần Levi’s sờn te tua ở một bên đầu gối. Chiếc áo ba lỗ màu trắng của đội Chinooks căng ra trên khuôn ngực nở nang, và làn lông nam tính phủ tối hai bên nách. Cô không thể không tự hỏi liệu có phải anh đã thay đồ ở đây trong khi mình ngủ thiếp đi không.
“Nếu cô đói thì Ernie đang dọn món xúp hải sản sôđơ đấy.”
“Tôi đang chết đói đây,” cô nói, rồi buông chân qua thành giường xuống đất.
“Mấy giờ rồi?”
John đưa một tay xuống, liếc nhìn vào cổ tay. “Gần sáu giờ.”
Cô đã chợp mắt được hai tiếng rưỡi, và cảm thấy còn mệt hơn lúc trước. Cô nhớ ban nãy có đi qua phòng tắm, bèn với lấy chiếc va li ở trên sàn cạnh giường. “Cho tôi vài phút,” cô nói, tránh nhìn vào chính mình trong gương khi đi qua tủ quần áo. “Sẽ không lâu đâu,” cô nói thêm khi đi tới ngưỡng cửa.
“Tốt. Chúng tôi sắp ăn tối,” John thông báo, dù trông anh không có vẻ gì là vội rời đi. Vai anh gần như chặn hết khung cửa nên cô buộc phải dừng lại.
“Xin lỗi.” Nếu anh nghĩ cô sẽ cố nép người lách qua anh thì anh nên đổi kế hoạch đi là vừa. Georgeanne nhận ra trò này hồi lớp 10. Cô mơ hồ thất vọng rằng John hẳn phải thuộc hạng đàn ông bất hảo, những kẻ vốn cho mình cái quyền sán vào người đàn bà và nhòm xuống qua cổ áo họ, nhưng khi cô ngước lên nhìn vào đôi mắt màu lam của anh, cảm giác nhẹ nhõm tràn qua người cô. Hàng lông mày sẫm sượt cau lại và mắt anh nhìn đăm đắm vào miệng, chứ không phải ngực cô. Anh đi về phía cô và quẹt ngón tay cái qua môi dưới cô. Anh đang ở quá gần, đến độ cô có thể ngửi thấy mùi nước hoa Obsession, và sau một năm làm việc với hương thơm và nước hoa, Georgeanne biết mùi hương mình yêu thích.
“Gì thế này?” anh hỏi, chìa ngón cái dính sôcôla trước mặt cô.
“Bữa trưa của tôi,” cô đáp, thoáng thấy dạ dày mình nao nao. Ngước nhìn vào đôi mắt xanh thẫm của anh, cô nhận ra anh không cau mày giận dữ với cô. Cô dùng đầu lưỡi liếm môi một lượt và hỏi, “Ổn hơn chưa?”
Anh từ từ đưa tay xuống và nhìn cô chằm chằm. “Ổn hơn cái gì?” anh hỏi, và đúng lúc Georgeanne nghĩ có lẽ anh sẽ cười và lại cho cô thấy má lúm đồng tiền của anh thì anh quay người đi ra hành lang. “Ernie muốn biết liệu cô muốn uống bia hay nước lạnh trong bữa tối,” anh ngoái lại nói. Đít quần jeans của anh xanh bạc hơn những phần khác, và cái ví làm một bên túi phồng lên. Chân anh đi đôi tông cao su rẻ tiền giống hệt ông mình.
“Nước,” cô đáp, dù thích trà đá hơn. Georgeanne đi tới phòng tắm để trang điểm lại. Khi tô lại son môi màu vang đỏ, một nụ cười nở trên môi cô. Cô đã đúng về John. Anh chàng này không phải một kẻ khó chịu.
Khi cô sửa lại các lọn tóc buông bên bờ vai xong và bước vào phòng ăn nhỏ, John và Ernie đã ngồi ăn bên chiếc bàn gỗ sồi. “Xin lỗi vì cháu tới trễ quá,” cô nói, nhận ra họ đã cư xử tệ đến mức đã bắt đầu dùng bữa mà không có cô. Cô ngồi bên kia bàn với John, với lấy khăn ăn trong hộp giấy ăn màu xanh ô liu. Cô để lên đùi, tìm thìa, và thấy nó được đặt không đúng chỗ bên cạnh bát.
“Hạt tiêu ở ngay kia.” Ernie đưa thìa chỉ vào chiếc lọ màu đỏ trắng ở giữa bàn.
“Cám ơn ông.” Georgeanne nhìn ông. Thực lòng cô không thích hạt tiêu, nhưng sau khi cắn miếng sôđơ trắng đầy kem đầu tiên cô hiểu ngay Ernie thì có. Món xúp sền sệt béo ngậy, tuy có nhiều hạt tiêu nhưng vẫn rất ngon. Cô lấy cốc nước lọc đá được đặt sẵn bên bát ăn. Cô nhấp một ngụm, liếc nhìn khắp căn phòng và nhận thấy cách bài trí khá sơ sài. Thứ duy nhất trong phòng đặt cạnh bàn ăn là một chiếc tủ chất đầy cúp lưu niệm. “Ông sống ở đây quanh năm hả ông Maxwell?” cô hỏi, tự cho mình quyền mở đầu cuộc trò chuyện quanh bàn ăn tối.
Ông lắc đầu khiến cô chú ý tới mái tóc bạc húi cua đang thưa dần của ông. “Đây là một trong những ngôi nhà của John. Ta vẫn đang sống ở Saskatoon.”
“Chỗ đó có gần đây không ạ?”
“Đủ gần để xem các trận đấu ta có vé mời.”
Georgeanne đặt cốc lên bàn rồi bắt đầu ăn. “Các trận khúc côn cầu ấy ạ?”
“Dĩ nhiên rồi, hầu như trận nào ta cũng xem cả.” Ông đưa mắt nhìn John chăm chú. “Nhưng ta vẫn đang dằn vặt muốn chết vì đã bỏ lỡ cú hat trick hồi tháng Năm vừa rồi đây.”
“Đừng bận lòng về nó nữa ông,” John nhắc nhở ông.
Georgeanne hầu như chẳng biết tí gì về khúc côn cầu. “Hat trick là gì ạ?”
“Đó là khi một cầu thủ ghi ba bàn thắng trong một trận đấu.” Ernie giảng giải. “Và ta cũng bỏ lỡ cả trận đấu chết tiệt với đội Kings 4 nữa chứ.” Ông ngừng lại để hất đầu về phía cháu trai, ánh mắt ngập tràn niềm tự hào. “Tay Gretzky ẻo lả đó đã phải nằm cáng cả mười lăm phút ròng sau khi anh xô gã ngã dúi vào đống biển quảng cáo đấy,” Ông nói với vẻ sung sướng ra mặt.
Georgeanne chẳng hiểu Ernie đang nói chuyện mô tê gì, nhưng với cô “bị xô ngã dúi vào đống biển quảng cáo” nghe có vẻ đau đớn. Cô sinh ra và lớn lên ở một bang nơi người ta sống vì bóng bầu dục, nhưng cô ghét bóng bầu dục. Đôi lúc cô tự hỏi liệu có phải cô là người Texas duy nhất ghét cay ghét đắng các môn thể thao bạo lực hay không.
“Chẳng phải chuyện đó thật tồi tệ sao?” cô hỏi.
“Ồ không, khỉ thật!” ông nổi xung. “Gã đó dám chiến lại Bức Tường nên phải sống mà hối tiếc chứ còn gì.”
Một bên khóe miệng John cong lên, và anh bẻ vụn vài miếng bánh nữa cho lên món sôđơ của mình. “Thế này thì chắc còn lâu nữa cháu mới giành được giải Lady Bying.”
Erinie quay sang Georgeanne. “Đó là giải trao cho người có phong cách chơi lịch lãm, nhưng hãy quẳng nó đi.” Ông đấm tay xuống bàn, tay kia đưa thìa lên miệng.
Về phần mình, Georgeanne không nghĩ ai trong hai ông cháu nhà này có nguy cơ giành được giải phong cách lịch lãm. “Món sôđơ này thật tuyệt,” cô nói, cố chuyển sang chủ đề nào đó dễ thở hơn. “Ông đã làm món này ư?”
Ernie với lấy chai bia cạnh bát “Chắc chắn rồi,” ông trả lời, rồi đưa chai bia lên miệng.
“Ngon thật.” Với Georgeanne chuyện người ta có thích mình không bao giờ cũng quan trọng, và lúc này chuyện đó quan trọng hơn hết thảy. Cô phát hiện ra rằng khúc dạo đầu thân thiện với John chỉ phí công, vì vậy cô chuyển hướng sang lấy lòng Ernie. “Đầu tiên ông cho nước xốt trắng vào ạ?” cô hỏi, nhìn vào đôi mắt màu lam của ông.
“Phải, chắc chắn rồi, nhưng bí quyết để có được món sôđơ ngon lành nằm trong nước cốt trai cơ,” ông bật mí, rồi vừa ăn vừa chia sẻ công thức nấu cho Georgeanne. Cô tỏ vẻ đón đợi từng lời ông nói, chăm chú lắng nghe ông, và chỉ trong vài giây, ông đã rơi gọn vào lãnh địa của cô như một quả mận chín. Cô hỏi và bàn luận về sự lựa chọn gia vị của ông, mà vẫn luôn dõi theo ánh nhìn xoáy thẳng vào mình của John. Khi nào anh cắn miếng sôđơ, khi anh đưa chai bia lên miệng, hay khi anh dùng khăn ăn lau miệng, cô đều biết cả. Cô để ý khi anh hết nhìn cô chằm chặp rồi lại nhìn Ernie rồi lại từ ông chuyển ngược sang cô. Khi đánh thức cô dậy trước đó anh đã khá thân thiện. Nhưng lúc này anh lại đang có vẻ thờ ơ.
“Ông có dạy John làm món sôđơ không ạ?” cô hỏi, cố gắng kéo anh vào cuộc.
John ngả người ra sau ghế và khoanh tay trước ngực. “Không,” là tất cả những gì anh nói.
“Khi ta không có đây, John thường ra ngoài ăn. Nhưng khi ở đây, ta luôn đảm bảo cho căn bếp của nó thật ngon lành và đầy đồ ăn. Ta thích nấu nướng,” Ernie nói thêm. “Nó thì không.”
Georgeanne mỉm cười với ông. “Cháu hoàn toàn tin người ta thích hoặc không thích nấu nướng đều là do bẩm sinh, và cháu chỉ có thể nói rằng” – cô dừng lại chạm vào cẳng tay nhăn nheo của ông – “ông có tài năng thiên bẩm. Không phải ai cũng làm được món nước xốt kem tuyệt thế đâu ạ.”
“Để ta dạy cháu nhé,” ông mỉm cười đề nghị.
Dưới cái chạm tay của cô, làn da ông âm ấm ram ráp như giấy vuốt sáp làm ùa về nơi trái tim cô những ký ức tuổi thơ đầy thương mến. “Cám ơn ông, ông Maxwell, nhưng cháu biết cách làm rồi. Cháu đến từ bang Texas, nơi người ta phủ xốt kem lên mọi thứ, kể cả cá ngừ. “Cô liếc nhìn John, nhận thấy cái cau mày nơi anh, nhưng quyết định phớt lờ. “Cháu có thể làm nước xốt từ hầu hết mọi thứ. Bà cháu từng nổi tiếng với món rượu whisky rẻ tiền của mình, và cháu không định nói về một chuyến bay đêm 5, nếu ông hiểu cháu muốn nói gì. Khi ai đó, bạn bè hay người thân của hai bà cháu lên thiên đường, bà sẽ lại mang giăm bông và nuớc xốt tới. Xét cho cùng bà lớn lên từ một trang trại nuôi lợn ở Mobile, và người ta vẫn hay nhắc đến bà với món đùi lợn tẩm mật ong trong các dịp tang lễ”. Cuộc đời Georgeanne chỉ loanh quanh bên người già, nên nói chuyện với Ernie cô thoải mái đến mức nghiêng người gần hơn về phía ông và nụ cười của cô bừng sáng tự nhiên. “Giờ đây, bà Lolly của cháu cũng nổi tiếng, nhưng không may là không phải theo cách được người khác ngợi khen. Người ta nhắc tới bà với món thạch chua loét bởi bà sẽ ném bất cứ thứ gì vào khuôn làm thạch Jell-O. Bà tiều tụy hẳn đi sau khi ông Fisher trút hơi thở cuối cùng. Họ vẫn kháo nhau về chuyện ấy ở nhà thờ First Missionary Baptist, chứ không phải nhà thờ First Free Will Baptist đâu nhé, nhưng cháu không nghĩ họ lại là tín đồ Baptist…”
“Chúa Jesus ơiiii,” John cắt ngang. “Có điểm kết cho chuyện này không?”
Nụ cười của Georgeanne tan biến, nhưng cô vẫn kiên quyết giữ bình thản. “Thì tôi sắp kể xong rồi đây.”
“Ồ, thế thì có lẽ cô nên kết thúc nhanh đi bởi Ernie sẽ chẳng trẻ ra được thêm tí nào đâu.”
“Dừng lại ngay,” Ernie cảnh cáo.
Georgeanne vỗ vỗ cánh tay ông Ernie và nhìn vào đôi mắt nheo lại của John.
“Thật quá thô lỗ.”
“Cháu tồi quá.” John đẩy cái bát không sang bên rồi nhoài tới trước. “Mấy chiến hữu trong đội của tôi chỉ muốn biết, liệu Virgil có còn dựng nổi cái của ông ta lên không, hay đó hoàn toàn chỉ là chuyện tiền bạc?”
Georgeanne có thể cảm thấy mắt mình đang trợn lên còn hai má thì nóng bừng. Cái ý nghĩ mối quan hệ của mình với Virgil bị đưa ra bàn tán trong phòng thay đồ của đội với cô còn hơn cả nhục nhã.
“Đủ rồi đấy John,” ông Ernie nhắc. “Georgie là một cô gái ngoan.”
“Vậy ư? Chậc, gái ngoan đâu có ngủ với đàn ông vì tiền.”
Georgeanne mở miệng, nhưng không thốt lên được lời nào. Cô cố gắng nghĩ về chuyện gì đó cũng đớn đau như thế nhưng không thể. Cô biết chắc rằng đòn phản công thông minh hoản hảo rồi cũng sẽ đến, có điều phải rất lâu sau khi cô cần nó. Cô hít một hơi thật sâu và cố gắng giữ bình tĩnh. Có một sự thật buồn bã trong đời Georgeanne, đó là khi cô luống cuống, ngôn từ sẽ bay sạch ra khỏi đầu cô – những từ đơn giản như cửa, lò vi sóng, hay – như trong cái lần cô nhờ John giúp trước đó – áo nịt. “Tôi không biết mình đã làm gì để khiến anh buông ra những lời nghiệt ngã ấy,” cô nói, đặt khăn ăn lên bàn. “Tôi không biết liệu có phải là do tôi, hay do anh vốn dĩ đã căm ghét đàn bà, hay chỉ là do bản tính cáu gắt cố hữu của anh, nhưng mối quan hệ của tôi với Virgil không phải là chuyện của anh.”
“Tôi không ghét đàn bà,” John quả quyết với cô, rồi cố ý dò ánh mắt xuống ngực áo cô.
“Đúng vậy đấy,” Ernie chen vào. “Mối quan hệ của cháu với Virgil không phải là chuyện của chúng ta.” Ông Ernie với lấy tay cô. “Thủy triều gần rút hẳn rồi. Sao cháu không xuống tìm vài vũng đọng gần những phiến đá lớn dưới kia nhỉ. Biết đâu cháu lại tìm được thứ gì đó từ bờ biển Washington này để mang về Texas.”
Georgeanne được dạy phải kính trọng người già nhiều đến mức cô không tranh luận hay hỏi lại về lời gợi ý của Ernie. Cô liếc nhìn hai người đàn ông, rồi đứng dậy.
“Cháu thật sự rất tiếc, ông Maxwell. Cháu không có ý gây phiền phức cho mối quan hệ của hai ông cháu ông.”
Mắt vẫn nhìn thằng cháu chằm chặp, Ernie đáp, “Không phải lỗi của cháu. Chẳng liên quan gì tới cháu đâu.”
Rõ ràng là cứ như mình có lỗi vậy, cô nghĩ khi bước ra khỏi chỗ rồi đẩy ghế vào trong. Khi Georgeanne bước qua căn bếp nhỏ màu xanh nhạt đi tới cửa sau, cô nhận ra mình đã để vẻ ngoài cuốn hút của John làm hỏng nhận định của mình. Anh ta không vờ là một kẻ khó chịu. Anh ta đúng là một kẻ khó chịu!
Ernie đợi cho tới khi nghe thấy tiếng cửa sau đóng lại mới nói, “Cháu thật không phải khi trút giận lên cô gái bé bỏng đó.” Ông dõi mắt nhìn một bên mày nhướn lên trên trán cháu trai.
“Bé bỏng?” John tì khuỷu tay lên bàn. “Trí tưởng tựơng nào lại có thể chắp cánh làm ông nhầm tưởng Georgeanne là một “cô gái bé bỏng” chứ.”
“Ồ, thế nó già lắm ư?” Ernie tiếp tục. “Còn anh thì thô lỗ và chẳng coi ai ra gì. Mẹ anh sẽ vặn tai anh nếu mẹ anh ở đây.”
Một nụ cười kéo trễ khóe miệng John. “Có lẽ vậy,” anh nói.
Ernie nhìn trân trân vào khuôn mặt cháu mình, tim ông thắt lại đau nhói. Anh nhệch miệng cười nhưng mắt vẫn lạnh tanh – gần đây mắt anh chẳng bao giờ cười nữa. “Thế là không tốt đâu, John – John.” Ông đặt tay lên vai John và cảm nhận được cơ bắp săn chắc của một người đàn ông. Trước mắt mình, Ernie không nhận thấy điều gì ở cậu bé hạnh phúc ông từng dẫn đi săn và đi câu, cậu bé ông từng dạy chơi khúc côn cầu và lái xe, cậu bé ông từng dạy mọi thứ nên biết khi làm một người đàn ông. Người đàn ông trước mặt ông không phải là cậu bé ông từng nuôi dạy. “Cháu phải xả chuyện đó ra. Cháu không thể giữ nó mãi trong lòng, rồi cứ thế sống mà tự trách mình được.”
“Cháu chẳng phải xả ra chuyện gì hết,” anh nói, nụ cười cũng tan biến theo. “Cháu đã bảo ông rồi: cháu không muốn nói về chuyện đó.”
Ernie nhìn nét mặt muốn chấm dứt câu chuyện của John, nhìn vào đôi mắt màu lam rất giống đôi mắt của chính ông trước khi mờ đi vì tuổi tác. Ông không bao giờ thúc ép John nói về chuyện cô vợ đầu tiên của anh. Ông hiểu rồi đây Johnn cũng sẽ tự mình chấp nhận được những gì Linda đã gây ra. Dẫu John từng ngờ nghệch mà cưới cô vũ nữ thoát y đó sáu tháng trước, Ernie vẫn hi vọng anh sẽ suy nghĩ sáng suốt trở lại. Nhưng mai là giỗ đầu của cô ta, và dường như John vẫn đang giận dữ như cái ngày anh chôn cất cô. “Chậc, ta nghĩ cháu cần nói chuyện với ai đó,” Ernie nói, ông nghĩ cần hối thúc anh vì chính bản thân anh. “Cháu không thể sống mãi với nó, John ạ. Cháu không thể vờ như chẳng có gì, nhưng lại uống để quên chuyện đã thực sự xảy ra” Ông ngừng lặng cố nhớ lại điều hôm trước ông đã nghe trên ti vi. “Cháu không thể tự chữa bệnh cho mình bằng những cơn say. Uống rựou chỉ là triệu chứng của một căn bệnh lớn hơn,” ông nói, hài lòng vì đã nhớ được.
“Ông lại vừa xem chương trình Oprah đó hả?”
Ông Ernie nhíu mày. “Điều đó không quan trọng. Chuyện cũ đang ăn mòn thành vết thương lòng trong cháu, và cháu đang trút lên đầu một cô gái vô tội.”
John ngả người ra sau ghế và khoanh tay trước ngực. “Cháu chẳng trút gì lên đầu Georgeanne cả.”
“Vậy sao cháu lại thô lỗ như thế?”
“Cô ta làm cháu phát điên.” John nhún vai. “Cô ta cứ lải nhải mãi toàn những điều vô nghĩa.”
“Đó là bởi cô ấy là người miền Nam,” Ernie giải thích, bỏ lửng chuyện về Linda. “Cháu chỉ cần tĩnh tâm và thoải mái với một cô gái miền Nam.”
“Giống như ông ư? Cô ta đã điều khiển ông với thứ nước xốt kem và mấy chuyện tang lễ vớ vẩn.”
“Anh đang ghen đấy,” Ernie cười. “Anh ghen với một lão già như ta.” Ông vỗ tay xuống bàn rồi chậm rãi đứng dậy. “Ta đến tổn thọ mất thôi.”
“Ông điên rồi,” John giễu, nắm lấy chai bia khi đứng dậy theo.
“Ta nghĩ cháu thích cô ấy đấy,” ông nói, và quay thẳng về phòng khách. “Ta đã thấy cái cách cháu nhìn con bé khi nó không biết cháu đang nhìn. Có thể cháu không muốn mình thích con bé, nhưng cháu đã bị con bé hấp dẫn, và chuyện đó làm cháu phát điên.” Ông bước vào phòng ngủ, nhét vài thứ vào túi vải.
“Ông định đi đâu thế?” John hỏi từ ngưỡng cửa.
“Ông sẽ đến ở chỗ Dickie vài ngày. Ông chỉ ở quanh đây thôi.”
“Không, ông sẽ không làm thế.”
Ông Ernie liếc nhìn cháu trai. “Ta bảo cháu rồi, ta hiểu cái cách cháu nhìn con bé.”
John nhét một tay vào túi trước quần Levi’s và tì vai vào khung cửa. Anh bồn chồn vỗ chai bia vào đùi mình bằng tay kia. “Còn cháu thì đã nói với ông rồi, cháu không định làm tình với vợ sắp cưới của Virgil.”
“Ta hi vọng cháu đúng ta sai.” Ernie kéo khóa chiếc túi vải lại, tay trái với tìm dây túi. Ông không rõ việc rời đi thế này có đúng hay không. Bản năng đầu tiên của ông mách bảo ông ở lại để đảm bảo rằng cháu trai mình sẽ không làm gì để phải hối tiếc vào sáng hôm sau. Nhưng Ernie đã làm xong việc của mình. Ông đã giúp John khôn lớn. Giờ đây chẳng còn gì ông có thể làm nữa. Chẳng có gì ông có thể làm để cứu vớt John khỏi chính anh. “Bởi vì cuối cùng cháu cũng sẽ làm cô gái ấy tổn thương và làm hỏng sự nghiệp của mình.”
“Cháu cũng không định làm gì thế.”
Ernie ngước lên mỉm cười buồn bã. “Ta hi vọng là thế,” ông nói, hoài nghi, và sải bước thẳng tới cửa trước. “Ta chắc chắn mình rất hi vọng thế.”
John dõi nhìn theo dáng ông bước đi, rồi bước trở lại phòng khách. Đôi chân trần lún sâu trên tấm thảm dày màu be khi anh bước tới ô cửa sổ rộng bằng kính. Anh có ba ngôi nhà, trong đó hai nhà ở bờ biển Tây. Anh yêu đại dương, âm thanh và hương vị của biển. Anh có thể đắm mình trong nhịp điệu đều đều của sóng. Ngôi nhà này của anh là thiên đuờng giữa trần gian. Ở đây, anh không phải lo nghĩ về hợp đồng hay xác nhận hay bất cứ thứ gì liên quan đến chuyện anh là một trong những ngôi sao sáng nhất giải NHL. Ở đây, anh tìm thấy sự bình yên mà anh không thể tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác.
Cho tới ngày hôm nay.
Anh hướng mắt ra ngoài khung cửa sổ lớn, đăm đăm nhìn người phụ nữ đứng bên mép sóng, gió táp mạnh thổi tung mái tóc sậm màu. Georgeanne rõ ràng đã làm xáo trộn thế giới đang yên lành của anh. Anh đưa chai bia lên môi và tu một hơi dài.
Bất chợt anh nhếch mép cười khi nhìn cô thận trọng nhón chân bước vào vùng sóng lạnh. Chẳng nghi ngờ gì nữa, Georgeanne Howard đúng là một giấc mơ bằng xương bằng thịt. Nếu không phải vì cái thói quen lảm nhảm đến khó chịu của cô, và nếu cô không phải là hôn thê của Virgil, John nghĩ mình sẽ chẳng vội vàng tống khứ cô đi như thế.
Nhưng Georgeanne vướng vào chuyện tình ái với ông chủ của đội Chinooks, và John phải tống cô khỏi thị trấn này càng sớm càng tốt. Anh nghĩ sáng mai mình có thể đưa cô ra sân bay hay bến xe buýt nào đấy, nhưng vẫn còn đó là cả một đêm dài phía trước.
Anh ngoặc ngón cái vào cạp quần jeans đã bạc và hướng ánh mắt sang hai đứa bé đang thả diều dọc bờ biển. Anh không hề lo lắng rằng cuối cùng mình sẽ lên giường với Georgeanne. Bởi trái với điều Ernie tưởng, anh suy nghĩ bằng đầu, chứ không phải bằng cái của nợ kia. Nhưng khi đưa lại chai bia lên miệng, lương tâm anh liền chớp ngay lấy cơ hội gợi nhắc anh về cuộc hôn nhân ngu ngốc với DeeDee.
Anh chầm chậm bỏ chai bia xuống và lại nhìn Georgeanne tiếp. Hẳn là anh sẽ không bao giờ làm điều gì ngớ ngẩn như cưới một cô gái anh chưa quen biết nhiều hơn vài giờ nếu anh không uống say, dù thân hình cô ta có tuyệt đến cỡ nào. Mà thân hình DeeDee thì quả là tuyệt.
Cơn cáu kỉnh sa sầm mặt mày lại kéo miệng anh trễ xuống. Mắt anh không dời khỏi Georgeanne khi cô giỡn đùa với sóng, rồi môi lầm rầm chửi rủa, anh lao vào bếp nốc cạn lon bia.
Anh không đời nào muốn thức dậy vào buổi sáng với cái đầu váng vất đau và cưới vị hôn thê của Virgil.
——————————–
1 Loại đồ bạc sang trọng với rất nhiều hoạ tiết trang trí cầu kỳ, thường là hoạ tiết hoa, lá, quả, đường diềm… lấy cảm hứng từ nghệ thuật thời Phục Hưng.
2 Trong bộ phim này, Blanche Dubois là một cô gái miền Nam nuôi trong mình ảo tưởng lớn về cuộc sống và dục vọng. Chồng chết, cô qua lại với nhiều loại đàn ông, nhưng đằng sau những mối tình chớp nhoáng ấy là một Blanche mong manh và dễ bị tổn thương.
3 Chồng của Stelia, em gái của Blanche là Stanley Kowalsky.
4 Tên đầy đủ là Los Angeles Kings, một trong các đội khúc côn cầu của giải NHL.
5 Nguyên bản món rượu whisky rẻ tiền ở ngay trước đó là redeye, từ tiếng lóng, vừa là rượu whisky rẻ tiền, vừa có nghĩa là chuyến bay đêm.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.