Còn Đó Đam Mê
Chương 6
Seattle
Tháng Sáu 1996
Trốn khỏi mớ hỗn độn ngổn ngang trong bếp, Georgeanne bước vào phòng tiệc một lần cuối. Cô đưa đôi mắt khắt khe chăm chú nhìn ba mươi bảy chiếc bàn phủ vải lanh kê cẩn thận khắp phòng. Chính giữa mỗi bàn là một chiếc bát thủy tinh đúc với nhưng bông hồng nhúng sáp, hoa sao baby, và lá lược dương xỉ được xếp khéo léo.
Mae phàn nàn rằng cô quá bị ám ảnh, cầu toàn, hoặc cả ba. Những ngón tay của Georgeanne vẫn còn đau vì tất thảy mấy thứ sáp nóng kia, nhưng khi nhìn vào bát hoa giữa mỗi bàn, cô biết cơn bực tức, cái đau rát, và sự bừa bãi kia thật đáng lắm. Cô đã tạo ra thứ gì đó độc đáo và đẹp đẽ. Cô, Georgeanne Horward, cô gái đã được dạy sống dựa vào người khác để chăm lo cho mình, đã tạo nên một cuộc sống tuyệt vời. Cô đã tự mình làm được điều đó. Cô học những phương pháp giúp mình khắc phục chứng khó đọc. Tuy không còn giấu giếm những dị biệt của mình nữa, nhưng cô không nói về chúng một cách cởi mở. Cô đã che giấu chứng khó đọc của mình quá nhiều năm nên lúc này cũng đâu dễ gì tuyên bố điều đó với thế giới.
Vượt qua những rào cản từng ngăn bước mình, ở tuổi hai chín, cô sở hữu một nhà hàng kinh doanh nhận đặt tiêc làm ăn khá phất và có một ngôi nhà nhỏ giản dị ở Bellevue. Cô hài lòng quá đỗi về mọi thứ mà cái cô gái nhỏ bé chậm chạp đến từ bang Texas đã đạt được. Cô đã qua thử lửa, bị đốt cháy tới tận tâm hồn, và đã sống sót. Giờ đây cô mạnh mẽ hơn, có lẽ ít cả tin hơn, và nhất là không dễ dãi trao trái tim mình cho một người đàn ông nào nữa, có điều cô không xem hai phẩm chất ấy là rào cản ngăn mình tìm đến hạnh phúc. Cô đã có những bài học đầy cay đắng, và mặc dù thà hiến đi một bộ phận tiết yếu nào đó của cơ thể còn hơn phải sống lại cái cuộc sống trước khi cô bước vào quán Ẩm Thực Heron bảy năm về trươc, thì cô có được như hôm nay cũng là nhờ tất cả những chuyện đã xảy ra ngày ấy. Cô không thích nghĩ về quá khứ. Cuộc đời cô giờ đang đủ đầy trọn vẹn và ngập tràn những điều cô yêu thích.
Cô sinh ra và lớn lên ở Texas, nhưng lại nhanh chóng yêu mến Seattle. Cô yêu thành phố đồi bao quanh là nước và non này. Mất vài năm cô mới quen được với mưa, nhưng như hầu hết người dân bản địa nơi đây, mưa không còn khiến cô khó chịu nhiều nữa. Cô yêu cái cảm giác rất thật của chợ Pike Place và những sắc màu sống động của vùng Tây Bắc Thái Bình Dương này.
Georgeanne nâng cẳng tay, kéo cổ tay áo lễ phục tuxedo màu đen xuống và liếc nhìn đồng hồ. Đâu đó trong cái khách sạn cũ này, đám nhân viên bồi bàn của cô đang phục vụ món dưa chuột xắt lát phủ cá hồi, nấm nhồi, và sâm phanh cho ba trăm thực khách. Nhưng nửa tiếng nữa, họ sẽ tới phòng dạ tiệc phục vụ món thịt bê tẩm bột rán, khoai tây mới với bơ chanh, cùng xa lát cải xoong và rau diếp quăn.
Cô với lấy một chiếc ly, lôi chiếc khăn ăn nhét bên trong ra. Hai tay cô run rẩy khi cô gấp lần vải lanh thành một bông hồng. Cô đang lo lắng. Hơn mọi lần khác. Trước đây cô và Mae cũng từng tổ chức những bữa tiệc ba trăm người. Chẳng có gì mới. Chẳng đổ giọt mồ hôi nào. Nhưng họ chưa bao giờ tổ chức tiệc cho Quỹ Harrison. Họ chưa bao giờ phục vụ đồ ăn cho một người gây quỹ định giá năm trăm đô la cho một suất ăn của khách. Ồ, thực ra thì cô biết những người khách kia sẽ chẳng trả ngần ấy tiền cho đồ ăn. Số tiền gây quỹ tối nay sẽ được chuyển tới Bệnh viện và Trung tâm Y tế Trẻ em. Tuy vậy, cái ý nghĩ rằng tất thảy những con người ấy trả tất cả số tiền ấy cho một lát thịt bê đơn giản là khiến trống ngực cô đập dồn.
Một cánh cửa bên cạnh phòng mở và Mae trượt vào. “Mình nghĩ sẽ tìm được cậu ở đây,” cô nói khi bước tới chỗ Georgeanne. Trong tay cô là một tập tài liệu màu xanh lá để giấy tờ và đơn đặt hàng, bản danh sách theo dõi thực phẩm còn trong kho, và một đống hóa đơn.
Georgeanne mỉm cười với cô bạn thân và cũng là người đồng chủ khách sạn rồi đặt tờ khăn ăn gấp gọn lại vào trong ly. “Mọi thứ trong bếp thế nào rồi?”
“Ôi, anh chàng phụ bếp mới đã uống sạch loại vang trắng hảo hạng mà cậu mua cho món thịt bê rồi.”
Dạ dày Georgeanne thắt cả lại. “Hãy nói là cậu đang đùa đi.”
“Mình đang đùa đấy.”
“Thật không?”
“Thật đấy.”
“Cái đó chẳng buồn cười đâu,” Georgeanne thở phào khi Mae tới đứng gần cô.
“Có lẽ là không. Nhưng cậu cần tươi tỉnh lên.”
“Mình sẽ không thể tươi tỉnh cho tới khi về tới nhà,” Georgeanne vừa nói vừa quay người chỉnh lại bông hoa hồng cài trên ve áo tuxedo của Mae. Dù hai người bọn họ mặc lễ phục giống nhau, nhưng thân thể họ trông hoàn toàn đối ngược. Mae có làn da mỏng manh mịn màng của một cô gái tóc vàng tự nhiên, và với chiều cao 1m54, cô nàng gầy như một diễn viên ba lê. Georgeanne luôn ghen tị với bộ máy trao đổi chất của Mae, cái bộ máy cho phép cô nàng ăn hầu như bất cứ thứ gì mà chẳng bao giờ bị tăng lấy một cân.
“Mọi thứ đang tiến triển theo đúng kế hoạch. Đừng có lo lắng quá kẻo lại gà gật như trong đám cưới của Angela Everett nhé.”
Georgeanne nhíu mày bước tới cửa bên. “Tớ vẫn thích đặt tay lên con chó xù lông xanh nhỏ xíu của bà cụ Everett.”
Mae cười vang khi bước tới bên cạnh Georgeanne. “Tớ sẽ không bao giờ quên được đêm đó. Tớ đang phục vụ tiệc buffet thì nghe thấy tiếng cậu hét lên từ trong bếp.” Cô hạ thấp giọng một chút, rồi bắt chước giọng của Georgeanne. “Trời đất quỷ thần ơi. Con chó nào ăn mất tinh hoàn của tớ rồi.”
“Tớ đã nói là thịt viên 1 chứ.”
“Không. Cậu không nói thế. Rồi cậu cứ vậy ngồi xuống, nhìn chòng chọc vào cái khay trống trơn trong mười phút có lẻ.”
Theo Georgeanne nhớ thì chuyện đó không hẳn như thế. Nhưng cô phải thừa nhận rằng mình vẫn chẳng giỏi gì với mấy chuyện làm chủ cơn căng thẳng bất ngờ ùa đến. Dù cô đã kiểm soát mình tốt hơn trước. “Cậu bốc phét vừa thôi, Mae Heron ạ,” cô nói, đưa tay giật giật túm tóc đuôi ngựa của bạn, rồi quay người nhìn khắp căn phòng thêm một lần nữa. Đồ sứ bóng lộn, đồ bạc sáng loáng, và khăn giấy ăn gấp gọn trông như thể hàng trăm đóa hồng trắng đang e ấp ngay trên mặt mỗi bàn tiệc.
Georgeanne thực sự hài lòng với chính mình.
Chút cau mày in nhẹ trên trán John Kowalsky khi anh hơi nhoài người tới trước ghế để nhìn gần hơn chiếc khăn ăn nhét trong ly. Nó trông giống như một con chim hay một quả dứa. Anh cũng không chắc là cái gì nữa.
“Ôi, cái này thật tuyệt,” cô gái tối nay anh hẹn hò, Jenny Lange, nói với một tiếng thở hắt ra. Anh liếc nhìn mái tóc vàng hoa sáng bóng của cô nàng và phải thừa nhận rằng anh thích Jenny hơn nhiều so với cái ngày anh mới mời cô đi chơi. Cô nàng là thợ ảnh, và anh gặp cô hai tuần trước khi cô tới chụp hình ngôi nhà thuyền của anh cho tờ báo điạ phương. Anh không biết về cô rõ lắm. Cô có vẻ giống một quý cô tuyệt vời đến hoàn hảo, nhưng thâm chí cả trước khi họ tới bữa tiệc gây quỹ này anh vẫn còn nhận ra mình không hề bị cô nàng hấp dẫn. Không hề dù chỉ là chút xíu. Đó không phải là lỗi của cô. Đó là lỗi của anh.
Anh lại chăm chú nhìn tờ khăn ăn, lôi nó ra khỏi ly, rồi trải nó ngang gối. Gần đây anh lại bắt đầu suy nghĩ nhiều tới chuyện lập gia đình. Anh cũng đã nói chuyện này với Ernie. Có lẽ bữa tiệc tối nay đã đánh thức điều gì đó đang ngủ yên trong anh. Có lẽ do anh vừa qua sinh nhật thứ ba mươi lăm; nhưng thực lòng anh đã nghĩ lung lắm về chuyện tìm một cô vợ và sinh vài đứa trẻ. Anh miên man nghĩ tới Toby, nghĩ về thằng bé nhiều hơn mọi lần.
John dựa người ra sau ghế, vuốt phẳng thân trước chiếc áo com lê màu than hiệu Hugo Boss, rồi thọc tay vào túi quần xám. Anh muốn lại được làm bố. Anh muốn danh sách tên của anh có thêm từ “Bố yêu”. Anh muốn dạy con trai trượt băng như Ernie từng dạy anh. Như mọi người bố khác trên thế giới này, anh muốn thức thật khuya vào đêm Giáng sinh để lắp ráp xe đạp ba bánh, xe đạp hai bánh, và bộ ô tô đua. Anh muốn mặc đồ cho con trai như một con ma cà rồng, hoặc một tên cướp biển, rồi dẫn thằng bé chơi trò trich-or-treat. Nhưng khi anh nhìn Jenny, anh biết cô sẽ không trở thành mẹ những đứa con của anh. Cô khiến anh nghĩ tới Jodie Foster, mà anh thì lúc nào cũng nghĩ Jodie Foster trông nhang nhác một con thằn lằn. Anh không muốn lũ con của mình trông giống đám thằn lằn con.
Một người bồi bàn cắt ngang dòng suy nghĩ của anh và hỏi anh có muốn uống rượu không, John nói không, rồi nhoài người tới trước úp mặt ly xuống bàn.
“Anh không uống gì sao?” Jenny hỏi anh.
“Uống chứ,” anh trả lời, rồi bỏ tay khỏi túi, anh với lấy chiếc cốc mình mang theo từ giờ uống cocktail. “Tôi uống soda chanh.”
“Anh không uống rượu sao?”
“Không. Không uống thêm chút nào nữa.” Anh để cốc xuống khi người phục vụ khác đặt một đĩa xa lát trước mặt anh. Tính cả lần này thì đã được bốn năm rồi anh không uống giọt rượu nào, và anh biết mình sẽ không bao giờ uống nữa. Chất cồn biến anh thành một gã ngớ ngẩn chết bầm chết giập, và rốt cuộc anh cũng thấy mệt mỏi vì nó.
Cái đêm anh đánh tiền đạo Danny Shanaha của đội Philadelphia là cái đêm anh chạm tới điểm thấp hèn nhất đời mình. Nhiều người nghĩ “Danny Bẩn Tính” đáng bị thế lắm. Nhưng John không nghĩ vậy. Khi nhìn xuống cái gã đang nằm úp mặt trên sân băng, anh biết mình đã mất tự chủ. Hai ống quyển của Danny bị rạn và mạng sườn gã bị thụi khuỷu tay vào không ít lần. Đó là một phần của cuộc chơi. Nhưng đêm ấy, cái gì đó trong anh bỗng dưng lên cơn. Thậm chí trước khi kịp nhận ra mình định làm gì, anh đã ném găng tay xuống và cho Shanahan lãnh trọn một đòn tay không bất ngờ. Danny bị chấn thương sọ và được đưa tới bệnh viện, John bị đuổi khỏi sân và bị cấm thi đấu sáu trận. Sáng hôm sau anh tỉnh dậy trong khách sạn với một chai Jack Daniel cạn sạch và hai cô gái trần truồng trên giường. Khi trân trân nhìn lên trần nhà chạm trổ, ghê tởm chính mình đến cùng cực và cố nhớ lại đêm hôm trước, anh đã biết mình phải dừng lại.
Anh đã không uống rượu kể từ đận ấy. Anh thậm chí không muốn cô gái nào. Và giờ đây khi lên giường với người đàn bà, anh đã biết tên cô ta khi thức dậy vào sáng hôm sau. Thực ra thì anh phải biết nhiều thứ về cô ta trước thì mới lên giường. Giờ anh sống thận trọng hơn. Anh đã may mắn còn được sống và anh biết điều đó.
“Chẳng phải căn phòng này được trang hoàng thật đẹp đẽ hay sao?” Jenny hỏi.
John liếc nhìn vào bàn ăn, rồi nhìn chiếc bục giữa phòng. Tất cả hoa và nến đều có phần quá ngọt ngào với sở thích của anh. “Chắc chắn rồi. Thật tuyệt,” anh nói, rồi ăn xa lát. Khi anh ăn xong chiếc đĩa được dọn đi và một chiếc khác được đặt xuống trước mặt anh. Anh đã dự nhiều bữa tiệc lớn và tiệc gây quỹ trong đời mình. Ở đó anh đã ăn rất nhiều thứ đồ ăn tởm lợm. Nhưng đồ ăn đêm nay khá ngon; hơi ít, nhưng vừa miệng. Ngon hơn năm ngoái. Năm ngoái anh ăn món thịt gà mái non nhồi hạt thông dai nhách như cao su. Nhưng anh đâu có mặt ở đây vì đồ ăn. Anh ở đây là để quyên góp tiền. Rất nhiều tiền. Rất ít người biết về những việc làm từ thiện của John, nhưng anh muốn thế. Anh làm vậy là vì con trai anh và đó là chuyện riêng tư.
“Anh nghĩ gì nếu đội Avalanche giành được cúp Stanley?” Jenny hỏi khi đồ tráng miệng được mang tới.
John biết cô nàng hỏi thế chỉ để gợi chuyện. Cô không muốn biết anh thực sự nghĩ gì, nên anh hạ thấp quan điểm của mình và bình thản nỏi. “Họ có vài tay chơi được lắm, nhưng Claude Lemieux thật cù lần ẻo lả.” Anh với lẫy đĩa đồ tráng miệng, rồi lại nhìn cô. “Có lẽ họ sẽ lại được tới các trận chung kết trong mùa đấu tới.” Và anh sẽ đợi họ, bởi John cũng sẽ có mặt ở đó để tranh cúp.
Anh quay người đưa mắt lục khắp phòng tìm kiếm vị chủ tịch Quỹ Harrison. Rutch Harrison thường lên bục phát biểu trước rồi đưa mọi thứ vào guồng quay. Anh tia thấy bà ở cách anh hai bàn đang ngước lên nhìn người phụ nữ đứng cạnh. Người phụ nữ đứng quay lưng lại phía John, nhưng cô ta thật nổi bật giữa đám đông mặc toàn váy lụa vây quanh. Cô mặc lễ phục tuxedo có đuôi dài và có phần quá quý phái, ngay cả với một bữa tiệc gây quỹ sang trọng. Tóc cô buộc gọn sau gáy bằng một chiếc nơ bướm to màu đen. Từ chỗ chiếc nơ, những lọn tóc mềm mại rủ xuống giữa vai. Dáng cô dong dỏng cao, và khi cô quay mặt nghiêng về phía anh, John bỗng sặc nước quả tráng miệng. “Lạy Chúa Jesus,” anh thở hắt.
“Anh ổn chứ?” Jenny hỏi, và dặt tay lên vai áo anh với vẻ quan tâm.
Anh không thể trả lời. Anh chỉ còn biết ngây ra mà nhìn, cảm giác như thể mình bị đối thủ phang cho cả cây gậy khúc côn cầu vào trán. Khi chở cô tới sân bay Sea-Tac bảy năm về trước, anh không bao giờ nghĩ họ sẽ còn gặp lại nhau. Anh nhớ đến lần cuối cùng anh nhìn cô, cô giống như một con búp bê nhỏ gợi tình trong chiếc váy hồng bé xíu. Anh cũng còn nhớ nhiều thứ khác về cô nữa, và những gì anh nhớ về cô vẫn thường đặt một nụ cười lên môi anh. Trong số nhiều lý do mà lúc này anh không thể nhớ được, có một lẽ là đêm ấy ở bên cô anh không hề uống say. Nhưng anh không nghĩ chuyện anh uống hay không lại có gì quan trọng, bởi dù say hay tỉnh, Georgeanne Howard cũng không phải là loại phụ nữ mà một người đàn ông có thể quên.
“Chuyện gì thế John?”
“Ààà… không có gì.” Anh liếc nhìn Jenny, rồi lại quay cái nhìn trân trân tới người phụ nữ đã gây ra một vụ động trời khi cô chạy trốn khỏi đám cưới của mình. Sau cái ngày định mệnh ấy, Virgil Duffy bỏ ra nước ngoài tám tháng. Trại huấn luyện hè của đội Chinooks năm ấy xôn xao đủ loại giả thiết. Vài người cho là cô đã bị bắt cóc trong khi những người khác thì đoán già đoán non là cô bỏ trốn. Còn cả Hugh Miner nữa, anh chàng cho rằng thay vì cưới Virgil, cô đã tự tử trong phòng tắm của ông ta và Virgil đã bưng bít vụ này. Chỉ duy nhất mình John biết sự thật, nhưng anh cũng là người duy nhất trong đội Chinooks không nói gì.
“John?”
Giờ cô đang ở đây, đứng giữa phòng tiệc lớn, trông xinh đẹp như ngày nào anh còn nhớ. Có lẽ còn xinh đẹp hơn thế. Có thể là nhờ bộ tuxedo, dường như bộ lễ phục giúp tôn lên vóc dáng cô hơn là che đậy đi. Có thể là nhờ ánh sáng đèn dìu dịu hát lên mái tóc sẫm màu của cô, hay nét nhìn nghiêng khiến môi cô trông mọng hơn. Anh không biết là nhờ cái nào hay là nhờ tất cả những thứ ấy, nhưng anh nhận ra rằng càng nhìn cô, anh càng thấy tò mò. Anh tự hỏi cô đang làm gì ở Seattle. Cô đã làm gì với cuộc đời cô, và liệu có phải cô đã tìm thấy rồi kết hôn với một người đàn ông giàu có.
“John?”
Anh quay lại nhìn cô gái mình đang hẹn hò.
“Có gì không ổn sao?” cô hỏi.
“Không. Không sao.” Anh lại quay sang nhìn Georgeanne lần nữa và chăm chú dõi xem cô đặt chiếc bóp đen lên bàn. Cô chìa tay ra và bắt tay Ruth Harrison. Rồi cô mỉm cười, cầm lấy cái bóp, và bước đi.
“Xin lỗi, Jenny,” anh vừa nói vừa nhỏm người dậy. “Anh sẽ trở lại ngay.”
Anh bám theo Georgeanne khi cô đi quanh qua các bàn, không rời mắt khỏi đôi vai thẳng của cô. “Xin lỗi,” anh nói khi xô người qua hai quý ông lớn tuổi. Anh đuổi kịp cô ngay khi cô định mở cánh cửa bên.
“Georgie,” anh nói khi tay cô với tới tay nắm cửa bằng đồng thau.
Cô ngừng lại, liếc anh qua vai, và nhìn chằm chằm năm giây trước khi miệng cô từ từ há hốc.
“Tôi nghĩ mình đã nhận ra cô,” anh nói.
Cô khép miệng lại. Đôi mắt xanh lá mở to như thể cô bị bắt quả tang khi đang gây trọng tội.
“Không nhớ ra tôi sao?”
Cô không trả lời. Cô chỉ tiếp tục nhìn anh trân trân.
“Tôi là John Kowalsky đây mà. Chúng ta đã gặp nhau khi cô chạy trốn khỏi đám cưới ấy,” anh gợi lại, dù lòng thầm hỏi làm cô ta có thể quên cái đêm tan chảy đặc biệt kia cơ chứ. “Tôi đã cho cô đi nhờ và chúng ta…”
“Có,” cô cắt ngang. “Tôi có nhớ ra anh.” Rồi cô không nói thêm gì nữa, và John tự hỏi liệu có phải trí nhớ của anh có vấn đề gì không bởi rõ ràng anh đã nghĩ về cô như một kẻ huyên thuyên thực thụ kia mà.
“Ồ, hay thật,” anh nói để lấp đầy khỏng im lặng ngượng nghịu kéo dài giữa hai người. “Cô làm gì ở Seattle thế?”
“Làm việc.” Cô hít một hơi thở sâu, khiến ngực phồng lên, rồi nói với luồng hơi hắt ra, “Thôi, tôi phải đi đây.” Cô xoay người nhanh đến nỗi đâm sầm vào cảnh cửa đóng. Cánh cửa kêu rầm lên, và chiếc bóp rơi khỏi tay cô, bắn văng tung tóe những thứ bên trong trên mặt sàn. “Trời đất quỷ thần ơi,” cô hổn hển nói, vẫn giọng miền Nam kéo dài các nguyên âm, rồi khom người xuống nhặt đồ.
John quỳ một chân xuống nhặt thỏi son và chiếc bút bi lên. Anh chìa bàn tay xòe ra cho cô. “Của cô đây.”
Georgeanne ngước lên, và rồi ánh mắt cô liền khóa chặt với ánh mắt anh. Cô nhìn anh đăm đăm trong khoảng vài nhịp tim nữa, rồi chìa tay lấy thỏi son và bút. Những ngón tay của cô sượt qua lòng bàn tay anh. “Cám ơn,” cô thì thầm, và rụt vội tay như chạm phải lửa. Rồi cô đứng lên mở cửa.
“Đợi một chút,” anh nói, và với lấy quyển sổ séc bìa hoa. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi anh chộp vội cuốn sổ và đứng thẳng lên thì cô đã đi khỏi. Cánh cửa đóng lại trước mặt anh với một tiếng rầm lớn, bỏ lại John ở đó, cảm thấy mình như một kẻ ngớ ngẩn. Georgeanne cư xử như thể cô sợ. Dù thực sự anh không nhớ rõ mọi chi tiết trong cái đêm họ ở cùng nhau, nhưng anh nhớ mình đã không làm cô tổn thương. Trước khi suy ngẫm về khả năng ấy thì anh đã gạt bỏ nó như gạt bỏ một ý nghĩ vớ vẩn. Dẫu là trong cơn say nhất đi chăng nữa thì anh cũng không bao giờ làm phụ nữ tổn thương.
Không sao hiểu nổi, anh quay người chầm chậm bước về phía bàn mình. Anh không thể hiểu tại sao cô lại quáng quàng chay trốn khỏi anh như thế. Những ký ức của anh về Georgeanne không chút nào là không dễ chịu. Họ đã có một đêm yêu đương vô cùng cuồng nhiệt, rồi anh mua vé máy bay cho cô về nhà. À, về mặt cảm xúc thì anh biết mình đã làm tổn thương cô, nhưng tại thời điểm ấy trong đời mình, anh không thể làm gì hơn được nữa.
John nhìn quyển sổ séc trong tay rồi bật mở ra. Anh ngạc nhiên khi thấy những tấm séc của cô có những hình bằng màu sáp như trẻ con vẽ. Anh liếc xuống góc bên trái và càng ngạc nhiên hơn khi thấy tên cô vẫn không thay đổi. Cô vẫn là Georgeanne Howard và cô sống ở Bellevue.
Trong tâm trí anh, câu hỏi nối tiếp câu hỏi, nhưng tất cả chúng rồi sẽ chẳng đi đến được lời đáp nào. Dù gì đi chăng nữa thì rõ ràng cô không muốn nhìn thấy anh. Anh đút cuốn sổ séc vào túi áo khoác. Sáng thứ Hai, anh sẽ gửi trả lại cô qua đường bưu điện.
Georgeanne vội vã lướt qua vỉa hè hai bên là những khóm hoa anh thảo sặc sỡ và păng xê hồng. Tay cô run run khi tra chìa khóa vào tay nắm cửa bằng đồng thau. Bụi hoa tú cầu và cúc vạn thọ tây trồng xen lẫn mọc um tùm trước nhà bò lan trên bãi cỏ. Nỗi hoảng sợ bóp nghẹt lấy cô, và cô biết chừng nào chưa vào nhà an toàn thì cô còn chưa trút bỏ được nỗi sợ hãi ấy.
“Lexie,” cô vừa gọi to vừa mở cửa. Cô liếc sang trái, chút bình tâm làm con tim đang đập liên hồi dịu lại. Đứa con gái sáu tuổi của cô đang ngồi trên sofa với bốn chú chó đốm nhồi bông vây quanh. Trên ti vi, Cruella De Vil 2 đang cười độc ác, cặp mắt đỏ lừ lên khi mụ lái chiếc ô tô khỏi phần đường đắp cao ngập tuyết. Ngồi kế mấy con chó đốm, là Rhonda, cô bé hàng xóm đang ngước lên nhìn Georgeanne. Khuyên mũi cô bé sáng lấp lánh, còn mái tóc màu vang đỏ thì óng ả như rượu mạnh. Rhonda trông có vẻ kỳ quặc, nhưng nó là một đứa bé ngoan và là một người giữ trẻ tuyệt vời.
“Mọi thứ tối nay thế nào ạ?” Rhonda vừa hỏi vừa đứng dậy.
“Tuyệt,” Georgeanne nói dối, mở túi rồi lôi ví ra. “Lexie thế nào?”
“Em ngoan lắm. Chúng cháu chơi búp bê Barbie một lát rồi em ăn mì ống và pho mát cùng một ít xúc xích mà cô để sẵn cho em ăn.”
Georgeanne đưa cho Rhonda mười lăm đô la. “Cám ơn cháu đã ngồi đây cả tối giúp cô.”
“Không sao đâu cô. Lexie là một đứa bé rất dễ thương.” Cô bé đưa tay lên. “Hẹn gặp lại cô.”
“Chào cháu, Rhonda.” Georgeanne mỉm cười khi dẫn cô bé bảo mẫu ra ngoài. Rồi cô bước tới ngồi cạnh con gái trên chiếc sofa bọc vải in hình hoa cỏ màu xanh và hồng đào. Cô hít một hơi thở thật sâu rồi thở ra từ từ. Anh ta không biết, cô tự nhủ. Mà kể cả có biết, anh ta cũng sẽ chẳng thèm bận tâm.
“Này, con yêu quý của mẹ,” cô nói, và vỗ vỗ vào đùi Lexie. “Mẹ đã về rồi đây.”
“Con biết. Con thích đoạn này.” Lexie nói với cô mà mắt không rời khỏi màn hình. “Đây là đoạn yêu thích của con. Con thích Rolly nhất. Nó béo ú.”
Georgeanne vuốt vài lọn tóc của Lexie ra sau vai. Cô muốn túm lấy con gái mà ôm chầm vào lòng; nhưng cô chỉ nói, “Nếu con thơm mẹ một cái thật ngọt ngào, mẹ sẽ để con lại một mình.”
Lexie quay ngay người lại, ngẩng mặt lên và chun chun đôi môi đỏ choét.
Georgeanne hôn con bé, rồi giữ cằm Lexie trong lòng bàn tay. “Con lại dùng son môi của mẹ nữa hả?”
“Không đâu mẹ, của con mà.”
“Con làm gì có loại son màu đỏ này chứ.”
“Ứ ừ, con cũng có.”
“Thế thì con lấy ở đâu ra?” Georgeanne đưa ánh mắt đăm đăm nhìn lên lớp phấn mắt màu tía thẫm Lexie bôi lem nhem ở khoảng giữa mí mắt và lông mày. Những vệt hồng sáng tô màu cho má con bé, và người nó đẫm mùi nước hoa Tinkerbell.
“Con tự dưng tìm thấy.”
“Đừng nói dối mẹ. Con biết là mẹ không thích con nói dối rồi đấy.”
Làn môi dưới quệt đậm son của Lexie run run. “Thỉnh thoảng con lại quên,” con bé hét lên rất kịch. “Con nghĩ con phải đi bác sĩ thì mới nhớ lại được!”
Georgeanne cắn má trong để ngăn mình khỏi bật cười. Theo cách nói yêu thích của Mae thì Lexie là nữ hoàng trong việc trầm trọng hóa mọi chuyện. Và theo Mae nói thì cô ấy biết rõ các nữ hoàng. Em trai cô, Ray, cũng từng là một nữa hoàng. “Bác sĩ sẽ tiêm con đấy,” Georgeanne dọa.
Môi Lexie hết run, và mắt nó tròn xoe.
“Bởi vậy có lẽ con sẽ nhớ là không được động vào đồ của mẹ mà không cần đến bác sĩ đâu nhỉ.”
“Vâng ạ,” con bé đồng ý hơi quá dễ đàng.
“Bởi vì nếu con không làm thế, giao kèo sẽ kết thúc,” Georgeanne dọa, ám chỉ tới cái giao kèo mà cả hai cùng nhất trí vài tháng trước. Vào dịp cuối tuần, Lexie có thể mặc bất cứ thứ gì con bé muốn và trang điểm đậm bao nhiêu tùy theo trái tim nhỏ bé của con bé mơ ước. Nhưng vào ngày thường, con bé phải rửa mặt sạch sẽ và mặc những bộ quần áo mẹ chọn cho. Trước giờ có vẻ như giao kèo này vẫn hiệu quả.
Lexie thích mỹ phẩm đến phát điên. Nó yêu chúng và nghĩ càng nhiều mỹ phẩm thì càng tốt. Hàng xóm láng giềng trố mắt nhìn nó khi con bé đạp xe dọc lề đường, nhất là khi nó quàng chiếc khăn lông màu xanh vàng chanh mà Mae tặng. Đưa con bé tới một cửa hàng tạp hóa hay tới khu mua sắm đúng là chuyện dở khóc dở cười, nhưng đó chỉ là vấn đề cuối tuần. Chung sống với giao kèo mà họ đã lập nên dễ thở hơn nhiều so với những trận chiến xảy ra như cơm bữa vào mỗi buổi sáng khi đến giờ Lexie mặc đồ.
Mối đe dọa không được phép dùng mỹ phẩm nữa khiến Lexie chú ý. “Con hứa mà mẹ.”
“Được rồi, nhưng chỉ là vì mẹ mê mẩn khuôn mặt của con thôi đấy nhé.” Georgeanne nói, thơm lên trán con.
“Con cũng mê mẩn khuôn mặt của mẹ,” Lexie đáp lại.
Georgeanne đứng bật dậy khỏi ghế sofa. “Nếu con cần thì mẹ ở trong phòng ngủ nhé.” Lexie gật đầu rồi quay lại chăm chú xem những chú chó trắng đốm đen đang sủa trên màn hình ti vi.
Georgeanne bước dọc hành lang, qua phòng tắm nhỏ, rồi vào phòng mình. Cô nhún vai cho chiếc áo khoác lễ phục tuxedo tuột khỏi người và thảy nó lên chiếc ghế dài sơn sọc trắng hồng.
John không biết về Lexie. Anh ta không thể biết. Georgeanne đã phản ứng quá dữ dội, và có lẽ anh ta sẽ nghĩ cô bị điên, nhưng gặp lại anh giống như một cú sốc vậy. Cô đã luôn cẩn trọng tránh mặt anh. Cô không bao giờ tham gia vào giới của anh, cũng chẳng bao giờ tới xem bất kỳ trận nào của đội Chinooks, cái này thì chẳng khó khăn gì lắm bởi cô thấy khúc côn cầu bạo lực một cách đáng sợ. Vì sợ phải giáp mặt với anh, nhà hàng Heron không bao giờ nhận đặt các buổi tiệc liên quan tới thể thao, nhưng việc này cũng không khiến Mae bận lòng bởi cô ghét đám vận động viên. Không bao giờ, dù là trong cả triệu năm tới, cô nghĩ sẽ giáp mặt với anh trong bữa tiệc từ thiện nào đó để gây quỹ cho bệnh viện.
Georgeanne buông mình xuống chiếc chăn bông in họa tiết cỏ hoa sặc sỡ trải trên giường. Cô không muốn nghĩ tới John, nhưng quên hẳn anh thì không thể. Đôi khi cô vẫn bước qua cửa hàng tạp phẩm nào đó và bắt gặp khuôn mặt bảnh trai của anh trên trang bìa của một tờ tạp chí thể thao nào đó nhìn cô chằm chằm. Seattle phát cuồng lên vì Chinooks và “Bức Tường” John Kowalsky. Trong suốt mùa khúc côn cầu, anh xuất hiện liên tục trên bản tin tối trong cảnh đang xô đám đổi thủ vào mấy tấm biển quảng cáo đặt quanh sân băng. Cô thấy anh trong các quảng cáo sữa cỡ lớn, trên mọi thứ. Đôi khi mùi hương nước hoa cologne, hay tiếng sóng xô bờ, vẫn nhắc cô nghĩ về lần nằm trên bờ cát nhìn sâu vào đôi mắt màu lam thẫm. Những ký ức không còn đớn đau như xưa. Nó không còn là vết đau cắt cứa trái tim. Nhưng cô vẫn luôn gạt bỏ những hình ảnh của lần ấy và của người đàn ông ấy. Cô không muốn cứ đay đi đay lại những ký ức ấy.
Cô luôn nghĩ Seattle đủ lớn cho cả hai nguời. Cô nghĩ nếu cứ cố trốn tránh anh, cô sẽ không bao giờ phải thực sự đối mặt với anh. Nhưng ngay cả khi không nghĩ chuyện đó sẽ xảy ra, một phần trong cô luôn tự hỏi anh sẽ nói gì nếu gặp lại cô. Đương nhiên, cô biết mình sẽ nói gì. Cô đã luôn tự mường tượng ra cảnh mình sẽ cư xử một cách dửng dưng. Rồi cô nói, lạnh lùng như buổi sáng tháng Mười hai, “John à? John nào? Tôi xin lỗi, tôi không nhớ ra anh. Chuyện này là khách quan thôi.”
Chuyện đó đã không xảy ra. Cô nghe tiếng ai đó gọi tên mình, cái tên đã bảy năm nay cô không dùng đến nữa, cái tên đã không còn gắn với người phụ nữ hiện tại là cô nữa, và cô quay lại nhìn người đàn ông đã gọi cô bằng cái tên ấy. Trong khoảng thời gian bằng vài nhịp tim, trí óc cô không thừa nhận cái mắt cô trông thấy. Rồi tiếp đó là cơn choáng váng mạnh mẽ chi phối cô. Bản năng phản-kháng-hoăc-bỏ-chạy lập tức ùa tới và cô bỏ chạy.
Nhưng không phải trước khi cô nhìn thẳng vào đôi mắt màu lam của anh và vô tình chạm vào tay anh. Cô cảm thấy lòng bàn tay anh ấm áp bên dưới ngón tay mình, trông thấy nụ cười tò mò trên môi anh, và nhớ lại cái chạm môi của anh trên môi mình. Trông anh vẫn rất giống ngày nào, nhưng hình như anh béo hơn và thời gian đã in những nếp nhăn mờ mờ nơi khóe mắt anh. Anh trông vẫn rất tuyệt, và trong giây lát, cô quên mất rằng mình ghét anh.
Georgeanne bật dậy đi tới tấm gương ngả ở bên kia phòng. Tay cô đưa lên thân thước chiếc áo sơ mi lễ phục và cởi khuy. Cứ nhìn mái tóc sẫm màu và màu da của Lexie, mọi người thường bảo con bé mang nhiều nét của Georgeanne, nhưng Lexie trông giống hệt bố nó. Con bé cũng có đôi mắt màu lam ấy, cũng có hàng mi dài rậm ấy. Mũi con bé mang dáng mũi anh, và khi con bé mỉm cười, trên má nó cũng chúm chím má lúm đồng tiền. Giống hệt John.
Kéo áo khỏi đai lưng quần, cô cởi khuy cổ tay. Lexie là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời Georgeanne. Con bé là trái tim của cô, và ý nghĩ mất con bé khiến cô không sao chịu đựng nổi. Georgeanne sợ hãi. Nhiều hơn nỗi sợ cô từng trải qua suốt một quãng thời gian dài. Giờ thì John biết cô sống ở Seatle, anh có thể tìm thấy Lexie. Tất cả những gì anh phải làm là hỏi ai đó trong Quỹ Harrison, và anh có thể tìm thấy Georgeanne.
Nhưng tại sao John lại muốn tìm mình chứ? Cô tự hỏi lòng. Anh đã vứt bỏ cô lại sân bay bảy năm về trước, chứng tỏ tình cảm của anh đã quá rõ. Và kể cả nếu tìm thấy con gái mình, biết đâu anh cũng chẳng muốn có bất cứ mối liên hệ nào với con bé. Anh là một ngôi sao khúc côn cầu. Anh muốn gì ở một đứa bé gái nào?
Cô đúng là hoang tưởng.
Buổi sáng hôm sau Lexie ăn hết ngũ cốc và cho bát vào bồn rửa. Từ cuối nhà, con bé có thể nghe thấy tiếng mẹ vặn vòi nước, và nó biết sẽ còn phải đợi lâu trước khi cả hai đi tới khu mua sắm. Mẹ nó thích tắm thật lâu dưới vòi hoa sen.
Chuông cửa reo và con bé bước vào phòng khách, kéo lê chiếc khăn lông phía sau. Nó bước tới ô cửa sổ lớn phía trước và kéo rèm ren sang bên. Một nguời đàn ông mặc quần jeans và áo sơ mi kẻ sọc đứng bên hiên nhà. Lexie nhìn chú ấy trong giây lát, rồi kéo rèm che trở lại. Con bé quàng khăn quanh cổ rồi bước qua phòng tới cửa trước. Nó không được phép mở cửa cho người lạ, nhưng dù người đàn ông đứng ngoài hiên đeo kính râm là ai đi chăng nữa thì chú ấy cũng không phải là người lạ. Nó biết chú ấy là ai. Nó đã thấy chú ấy trên ti vi, và năm ngoái cái chú Bức Tường này cùng đồng đội có đến trường nó ký tên vào áo, vớ và đồ dùng của mấy đứa nhóc. Lúc ấy Lexie ở tận cuối nhà thể chất nên chẳng xin được chữ ký nào vào đồ dùng của mình cả.
Có lẽ bây giờ chú ấy đến để ký tên vào đồ dùng của mình chăng, nó vừa nghĩ vừa mở cửa. Rồi nó ngước mắt nhìn lên.
John tháo kính ra, nhét vào túi áo. Cánh cửa mở và anh cúi mắt – nhìn xuống. Việc thấy một đứa bé trong nhà của Georgeanne cũng gây sốc như việc trông thấy cô bé ấy đang ngước lên nhìn anh trong đôi ủng cao bồi da rắn màu hồng, mặc váy hồng bé xíu, áo phông chấm màu tía, và khăn xanh quàng quanh cổ. Nhưng bộ đồ sặc sỡ đó không là gì so với khuôn mặt của con bé. “À… xin chào,” anh nói, ngỡ ngàng bởi đôi mắt xanh phủ phấn mắt, đôi má đánh phấn hồng sáng, và làn môi tô son đỏ bóng nhẫy. “Chú tìm cô Georgeanne Howard.”
“Mẹ cháu đang tắm, nhưng chú có thể vào nhà.” Con bé quay người bước vào phòng khách. Bím tóc đuôi ngựa lởm chởm buộc cao phía sau tung tẩy với mỗi bước nhảy của đôi bốt.
“Cháu chắc chứ?” John không biết rõ về trẻ con, và hoàn toàn không biết tí gì về mấy đứa bé gái, nhưng anh biết chúng không được phép mời người lạ vào nhà. “Georgeanne có thể sẽ không thích khi biết cháu để chú vào nhà đâu đấy,” anh nói, nhưng rồi nhận ra rằng cô vẫn sẽ không thích nhìn thấy anh trong nhà cô dù cô có đang ở trong phòng tắm hay không.
Con bé liếc nhìn qua vai. “Mẹ sẽ không phiền đâu ạ. Cháu sẽ đi lấy đồ của cháu,” nó nói, rồi biến mất sau một góc nhà, có lẽ để lấy đồ của nó. Dù cái đó nghĩa là gì chăng nữa.
John nhét cuốn sổ séc của Georgeanne vào túi sau và bước vào nhà. Cuốn sổ chỉ là cái cớ. Sự tò mò đưa anh tới đây. Sau khi Georgeanne rời khỏi bữa tiệc tối qua, anh đã không thể không nghĩ về cô. Anh đóng cửa lại sau lưng rồi bước vào phòng khách, và ngay lập tức cảm thấy ngượng nghịu, giống như khi anh ở trong cửa hiệu Victoria”s Secret để mua đồ lót cho cô bạn gái cũ.
Ngôi nhà ngập đầy trong các sắc màu pastel và những bài trí cầu kỳ khiến ngay cả người đàn ông chính hiệu tự tin nhất cũng thấy phát sợ. Trên chiếc sofa bọc vải in hình hoa cỏ đặt nhưng chiếc nệm ren cùng tông màu với rèm cửa. Có vài lọ hoa cúc, hoa hồng và mấy giỏ hoa khô. Những khung ảnh bày quanh có hình thiên thần trên khung bạc. Anh có phần thích cách bài trí ấy và băn khoăn tự hỏi không biết có nên lo lắng cho giới tính của mình hay không.
“Cháu mang tới chút đồ đây,” con bé nói khi đẩy một giỏ chở đồ loại nhỏ làm bằng nhựa màu cam vào phòng khách. Con bé ngồi xuống sofa, rồi vỗ vỗ vào chiếc nệm cạnh mình.
Cảm thấy thậm chỉ còn lạc lõng hơn, anh ngồi xuống cạnh cô con gái nhỏ của Georgeanne. Anh nhìn chăm chú vào mắt con bé và cố đoán xem nó bao nhiêu tuổi, nhưng anh không giỏi đoán tuổi trẻ con. Khuôn mặt trang điểm của nó lại càng chẳng mách bảo được gì cho anh.
“Ở đây ạ,” con bé nói, giật giật khỏi cái giỏ một chiếc áo phông không cổ in hình chú chó trắng đốm đen trên thân trước và đưa cho anh.
“Để làm gì cơ?”
“Chú phải ký vào cái áo.”
“Chú ký á?” anh hỏi, cảm thấy mình thật to lớn khi ngồi cạnh con bé.
Nó gật đầu rồi đưa cho anh một chiếc bút dạ màu xanh lá.
John thực lòng không muốn ký vào áo phông của một đứa bé. “Mẹ cháu sẽ nổi cáu đấy.”
“Không. Đó là cái áo mặc thứ Bảy của cháu mà.”
“Cháu chắc không?”
“Có ạ.”
“Được rồi.” Anh nhún vai rồi tháo nắp bút. “Tên cháu là gì?”
Hàng lông mày nó nhíu thấp trên đôi mắt màu lam thẫm, rồi con bé nhìn anh cứ như anh là một gã ngớ ngẩn vậy. “Lexie.” Rồi con bé phát âm lại lần nữa vì sợ anh chưa nghe rõ. “Lexiiiiiiiiie. Lexie Mae Howard.”
Howard? Georrgeanne chưa kết hôn với bố của đứa trẻ này. Anh băn khoăn tự hỏi loại đàn ông nào cô đã chung chăn chung gối. Loại đàn ông nào lại đi từ bỏ đứa con gái của anh ta. Anh lật lại mặt kia chiếc áo hồ như đang định ký lên mặt sau. “Sao cháu lại muốn chú làm hỏng cái áo phông đẹp đẽ tuyệt trần đời này cơ chứ, Lexie Mae Howard?”
“Bởi vì bọn nhóc khác có chữ ký của chú trên áo, còn cháu thì không.”
Anh không hiểu lắm cô bé muốn nói gì, nhưng anh nghĩ anh nên hỏi Georgeanne trước khi viết bút dạ lên áo của con gái cô. “Brett Thomas có bao nhiêu là đồ. Năm ngoái cậu ta mang cho cháu xem ở trường.”Cô bé thở dài nặng nhọc rồi vai nó rũ xuống. “Cậu ra còn có một con mèo nữa cơ. Chú có mèo không?”
“À… không. Không mèo.”
“Dì Mae có một con mèo,” con bé say sưa kể, làm như anh biết Mae là ai vậy. “Tên nó là Boostie vì chân nó trông như mang bốt trắng. Lần nào cháu đến nhà dì Mae nó cũng trốn cháu. Cháu cứ tưởng nó không thích cháu, nhưng dì Mae bảo nó chạy đi vì nó xấu hổ.” Con bé túm lấy một đầu chiếc khăn lông đưa lên trước mặt cho anh nhìn, rồi lắc qua lắc lại. “Dẫu sao thì cháu cũng túm được nó nhờ cái này. Cu cậu đuổi theo chiếc khăn và thế là cháu tóm lấy nó thật chặt.”
Kể cả John có không biết trước đứa bé này là con gái của Georgeanne thì càng nghe con bé nói chuyện anh càng thấy điều đó rõ hơn. Con bé thao thao chuyện muốn nuôi một con mèo. Rồi chủ đề nhảy sang chó và chẳng biết thế nào lại đến chuyện vết muỗi cắn. Trong khi Lexie nói, John nhìn nó chăm chú. Anh nghĩ nhất định con bé phải có nét gì đó giống bố bởi anh không nghĩ nó giống hệt Georgeanne. Có lẽ miệng hai mẹ con trông hao hao, nhưng ngoài ra thì không giống nhiều lắm.
“Lexie này,” anh cắt ngang khi trong anh lóe lên ý nghĩ rằng biết đâu anh đang nói chuyện với con gái của Virgil Duffy. Anh không bao giờ nghĩ Virgil là loại đàn ông sẽ bỏ rơi con mình. Nhưng Virgil cũng có thể là một tên khốn thực sự. “Cháu bao nhiêu tuổi?”
“Sáu. Cháu vừa sinh nhật vài tháng trước. Bạn cháu đến và bọn cháu ăn bánh. Amy tặng cháu đĩa phim Babe nên bọn cháu đã xem phim. Lúc chú lợn Babe bị tách khỏi mẹ cháu đã khóc đấy. Chuyện đó rất rất buồn, cháu buồn chết đi được. Nhưng mẹ bảo nó chỉ đi chơi cuối tuần, nên cháu cảm thấy khá hơn. Cháu muốn một con lợn, nhưng mẹ bảo cháu không được nuôi lợn. Cháu thích đoạn phim khi Babe cắn mấy con cừu ấy,” nó nói, rồi bắt đầu cười vang.
Sáu, nhưng anh gặp Georgeanne lần cuối là bảy năm về trước. Lexie không thể là con của Virgil. Rồi anh nhận ra mình quên chưa tính chín tháng cô mang bầu, thêm nữa nếu Lexie sinh nhật vài tháng trước, rất có thể con bé là con của Virgil. Nhưng con bé chẳng mang nét gì của Virgil cả. Anh nhìn bé gần hơn nữa. Tiếng cười vang biến thành một nụ cười thật tươi, và một lúm đồng tiền hõm xuống bên má phải nó. “Mặt chú lợn con ấy trông yêu lắm lắm.” Con bé lắc đầu rồi lại bắt đầu cười khúc khích.
Ở chỗ khác trong ngôi nhà, tiếng nước tắt, và trái tim John ngừng đập trong lồng ngực. Anh nuốt khó nhọc. “Chúa ơi, chết tiệt,” anh lầm bầm.
Nụ cười của Lexie ngưng bặt trong hơi thở sốc.
“Đó là một từ xấu.”
“Chú xin lỗi,” anh lẩm bẩm, rồi nhìn xuống bên dưới phấn trang điểm. Hàng mi dài đến cuối đuôi mắt bỗng cong vút lên. Hồi còn bé, John luôn bị chòng ghẹo không ngớt về hàng mi như thế. Rồi anh nhìn thẳng vào đôi mắt lam thẫm của con bé. Đôi mắt giống anh. Một dòng điện kỳ lạ chạy qua người khiến anh có cảm giác như mình nhét ngón tay vào một ổ cắm vậy. Giờ thì anh đã hiểu tại sao tối qua Georgeanne lại cư xứ kỳ lạ đến thế. Một bé gái nhỏ.
Con gái anh.
“Chết tiệt.”
——————————–
1 Nguyên bản là meatballs (thịt viên) phát âm nghe hao hao như my balls (tinh hoàn của tôi).
2 Nhân vật mụ trộm chó độc ác trong Một trăm lẻ một chú chó đốm.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.