Con Đường Phía Trước

CHƯƠNG 1. MỘT CUỘC CÁCH MẠNG BẮT ĐẦU



Tôi viết chương trình phần mềm đầu tiên lúc tôi 13 tuổi. Đó là phần mềm cho một trò chơi, Chiếc máy điện toán tôi sử dụng lúc đó là một chiếc máy khổng lồ, rất cồng kềnh, chậm chạp nhưng hết sức thú vị.
Thả cho một lũ nhóc tì tha hồ nghịch ngợm, quậy phá trên máy điện toán là ý nghĩ của các ‘di phước’ ở Lakeside, đó là một trường tư tôi đã theo học thuở thiếu thời.Các “di phước ” đã quyết định đi lục từ các cửa hàng đồng nát những thứ có thể dùng được để lắp ráp một thiết bị trạm nối (terminal) và thuê giờ một máy điện toán cho học sinh sử dụng. Để cho hoc sinh sử dụng một máy điện toán trong những năm cuối thập niên 60 là một sự lựa chọn khá ngạc nhiên ở Seattle vào thời đó – và đồng thời cũng là điều mà tôi sẽ luôn luôn biết ơn.
Trạm nối của máy điện toán đó không có màn hình. Để có thể chơi được, chúng tôi thể hiện các bước đi trên một bàn phím giống như một chiếc máy chữ và ngồi chung quanh chờ đợi cho đến khi kết quả xuất hiên trên giấy cùa một máy in đã quá cọc cạnh rồi. Khi đó, chúng tôi lao đến để xem ai là người thắng cuộc hoặc quyết định các bước đi kế tiếp. Trò chơi tic-tac-toe, mà mỗi lần chơi phải mất khoảng 30 ngày cùng với giấy và bút chì sẵn sàng trong tay, ngốn gần hết thời gian ăn trưa của chúng tôi. Nhưng đâu có ai phàn nàn gì. Có một cái gì đó thật tuyệt vời về chiếc máy này.
Sau đó tôi mới hiểu ra rằng một phần của sự cuốn hút đó chính là chiếc máy đồ sộ, khá tốn kém và là của người lớn kia, thế mà chúng tôi, những cậu nhóc, lại điều khiển dược. Chúng tôi còn quá nhỏ để có thể tạo ra những trò chơi phức tạp hơn, nhưng chúng tôi có thể ra lệnh cho cổ máy đồ sộ này và nó luôn luôn chấp hành tốt. Máy điện toán thật là tuyệt vời bởi vì khi làm việc với chúng, bạn có ngay được kết quả và nó cho bạn biết chương trình của bạn lập có đúng không. Nó có thể phát trở lại cho bạn các phản hồi mà bạn không thể nào có được từ rất nhiều loại máy móc khác. Đó chính là sự bắt đầu cùa niền say mê của tôi đối với phần mềm. Sự phản hồi của một chương trình càng đơn giản lại càng đặc biệt chính xác. Và cho đến tận ngày nay tôi lập trình đúng thì máy sẽ, trong mọi lúc, cho kết quả hết sức hoàn hảo như tôi đã ra lệnh.
Khi các bạn tôi và tôi lấy được niềm tin, chúng tôi bắt đầu khai thác, đẩy nhanh tốc độ của những gì có thể được và cải tiến các trò chơi ngày một khó hơn. Một người bạn tại Lakeside phát triển một chương trong BASIC thể theo vở kịch Monopoly. BASIC – là các ký tự đầu của cac chữ; Beginner s All-purpose Symbolic Instruction Code -Bộ mã chỉ thị đa dụng cho những người mới học – như chính tên của nó đã gợi ý,là một ngôn ngữ lập trình dễ học mà chúng tôi đã sử dụng để phát triển không ngừng các chương trình phức tạp. Anh bạn đó hình dung ra cách làm thế nào cho máy điện toán có thể chơi hàng trăm trò chơi với tốc độ thực sự nhanh. Chúng tôi muốn khám phá ra chiến lược nào là những chiến lược tốt nhất. Và thế là – tách-tách,tach, tách-tách tách-máy báo cho chúng tôi kết quả.
Tất nhiên, trong những ngày đó chúng tôi chỉ chơi những trò chơi ngớ ngẩn. Nhưng món đồ chơi mà chúng tôi có trên thực tế đã trở thành nhiều đồ chơi khác nhau. Trong suy nghĩ của nhiều người ở trường lúc bấy giờ, chúng tôi đã trở nên gắn bó chặt chẽ với chiếc máy điện toán và ngược lại. Một giáo viên đã yêu cầu tôi giúp dạy môn lập trình với đề nghị đó. Nhưng khi tôi dẫn đầu trong trò chơi hài kịch đen (Blackcomedy),thì đã có sự xì xào ” Tại sao người ta lại chọn anh chàng điện toán đó nhỉ?.
Hình như tất cả thế hệ chúng tôi, trên toàn thế giới, đều đã mang theo những món đồ chơi ưa thích nhất vào tuổi trưởng thành. Bằng cách như vậy, chúng tôi đã khơi ngòi cho một cuộc ccách mạng, và ngày nay, máy điện toán đã có mặt ở hầu khắp mọi nơi, trong các công sở và cả trong gia đình.
Máy điện toán đã được thu nhỏ về kích thước nhưng cường độ làm việc lớn hơn nhiều, và giá cả cũng giảm một cách nhanh chóng. Và, tất cả đều diễn ra khá nhanh. Không phải nhanh như tôi đã từng nghĩ, nhưng như vậy cũng đã là khá nhanh rồi. Những con bỏ điện tử rẻ tiền xuất hiện trong máy móc, trong các loại đồng hồ đeo tay, trong máy fax,rv cầu thang máy,trong bơm xăng dầu, trong máy ảnh, bình thuỷ,máy bán hàng tự động, trong các thiết bị chống trộm cắp, và thậm chí trong các bưu ảnh biết nói. Học sinh ngày nay thực hiện những điều tuyệt vời trên các máy điện toán với kích thước không lớn hơn sách giáo khoa là mấy nhưng công suất vượt xa các máy điện toán lớn nhất của thế hệ trước.
Và hiện nay giá máy điện toán đã giảm một cách đáng kinh ngạc và chúng đã ngự trị trong mọi mặt của đời sống, chúng ta hiện đang đứng trên bờ của một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật khác. Cuộc cách mạng này sẽ làm cho các công cụ về thông tin liên lạc rẻ một cách chưa từng có trong lịch sử, tất cả máy điện toán sẽ nối lại để liên lạc với chúng ta và vì chúng ta. Khi được nối mạng trên toàn cầu, chúng sẽ hình thành một mạng lưới, cái mà hiện nay người ta gọi là xa lộ thông tin. Mạng Internet hiện nay là công cụ tiền trạm trực tiếp của xa lộ thông tin, đó là một loại các máy điện toán, sử dụng kỹ thuật hiện đại để nối mạng lại với nhau và trao đổi thông tin cho nhau.
“Việc tiếp cận và sử dụng mạng lưới mới đó ra sao, cũng như triển vọng và những nguy hiểm của nó như thế nào là đề tài của quyển sách này”.
Tất cả những gì sắp sửa xảy ra đều rất thú vị. Khi tôi 19 tuổi, tôi suy nghĩ về tương lai, định hướng nghề nghiệp của tôi
theo những điều tôi đã suy nghĩ và kết quả là tôi đúng. Nhưng vị trí của Bill Gates ngày nay. Thời trước, tôi chẳng những có lòng tự tin của một thiếu niên thông minh mà còn không họ bị một ai để ý, theo dõi,và nếu tôi có thất bại, cũng chẳng họ gì. Còn hiện nay, vị trí của tôi là vị trí của một hãng điện toán không lồ của cuối thế kỷ 20 nhưng tôi hy vọng tôi rút ra được những bài học từ đó.
Đã có một lần tôi nghĩ rằng tôi có thể sẽ theo học kinh tế học tại một trường cao đẳng nào đó. Sau đó,tôi lại nghĩ rằng với toàn bộ kinh nghiệm tôi thu lượm được từ nên công nghiệp điện toán vốn đã là một loạt những bài học về kinh tế học rồi.Tôi đã nhận ra hiệu quả ban đầu của các mô hình kinh doanh cứng rắn và mô hình xoắn ốc tích cực. Tôi quan sát cách mà các tiêu chuẩn công nghiệp tiến triển.Tôi chứng kiến tầm mức quan trọng của tính tưong thích trong kỹ thuật của sự phản hồi, và của sự không ngừng sáng tạo ra cái mới. Và tôi nghĩ rằng, cuối cùng, chúng ta sẽ có dịp chứng kiến thị trường lý tưởng của Adam Smith trở thành hiện thực, tôi hình dung tác động có thể xảy ra của việc giá máy điện toán hạ thấp.” Một máy điện toán trên mỗi bàn làm việc và trong mỗi gia đình” đã trở thành sứ mạng hàng đầu của Hãng Microsoft, và chúng tôi đang ra sức làm việc để biến điều đó thành hiện thực. Bây giờ các máy điện toán đang được nối mạng với nhau, và chúng tôi đang xây dựng phần mềm -tức phần ra lệnh cho phần cứng của máy điện toán những gì cần phải làm – để giúp cho tưng cá nhân có thể khai thác các lợi ích của uy lực thông tin liên lạc nối mạng này. Thật khó có thể tiên đoán chính xác rồi đây người ta sẽ sử dụng mạng lưới đó như thế nào. Chúng ta sẽ liên lạc với nó thông qua rất nhiều phương tiện khác nhau,bao gồm một số giống dạng máy truyền hình,số khác giống máy điện toán cá nhân, số khác lại sẽ giống máy điện thoại,và số khác nữa sẽ giống như một cái ví, Và bên trong mỗi hình dạng đó là một máy điện toán cực mạnh, được nối một cách vô hình với hàng triệu máy điện toán khác.
Rồi sẽ có một ngày không xa lắm, khi bạn có thể tiến hành công việc kinh doanh, thực hiện các cuộc nghiên cứu, khám phá thế giới và các nền văn hoá của nó, xem bất cứ một dạ hội lớn nào, kết bạn với nhau, gửi những tấm ảnh của mình cho người thân ở xa mà không cần phải rời khỏi bàn làm việc. Bạn cũng sẽ không phải để mạng lưới đó ở lại cơ quan hay trường học. Nó sẽ chẳng khác gì những thứ khác bạn hiện đang mang theo. Nó sẽ là hộ chiếu cho bạn đi vào một cuộc sống mới.
Kinh nghiệm ban đầu là những kinh nghiệm cá nhân mà không mang tính chất trung gian. Sẽ không có ai nhân dự án ngân hàng sự tiến bộ tước đi của bạn niềm thích thú được nằm trên bãi biển, được đi dạo chơi trong rừng, được xem một vở hài kịch, hoặc đi mua sắm ở một chợ trời. Nhưng kinh nghiệm ban đầu, nhưng ngay từ khi chúng ta bước chân đứng vào hàng là chúng ta luôn suy nghĩ tìm cách để tránh phải xếp hàng lần sau.
Nhân loại đã đạt được biết bao nhiêu tiến bộ bởi vì người ta luôn luôn tìm cách sáng tạo ra những công cụ tốt hơn. Các công cụ cầm tay đẩy nhanh tiến độ công việc và giảm bớt sức lao động nặng nhọc của con người: cái cày và chiếc bánh xe, cái cần cẩu và chiếc xe ủi, tăng sức lực làm việc của những người sử dụng nó.
Các công cụ thông tin là vật trung gian tượng trưng, chúng mở rộng trí thức hơn và tăng cường cơ bắp của những người sử dụng chúng. Bạn đang thu nhận kinh nghiệm trung gian trong khi đọc cuốn sách này: Chúng ta thực hiện không ở trong cùng một căn phòng, nhưng bạn vẫn có thể nhận biết tôi đang suy nghĩ gì. Hiện nay, có biết bao công việc đang cần có sự quyết định và kiến thức, và vì vậy các các công cụ thông tin đã và sẽ tiếp tục là trung tâm điểm của những nhà phát minh. Cũng giống như bất cứ một nội dung văn bản nào đều có thể được thể hiện bằng cách sắp xếp các chữ lại với nhau, các công cụ này cho phép tất cả các loại thông tin được thể hiện dưới dạng số, theo mô hình xung điện mà máy điện toán dễ dàng thính ứng. Ngày nay, thế giới đã có trên 100 triệu máy điện toán sử dụng với mục đích là để sử lý thông tin. Chúng ta giúp chúng ta trong việc lưu trữ và truyền các thông tin được thể hiện dưới dạng số một cách dễ dàng hơn nhiều, nhưng trong tương lai không xa, chúng ta sẽ giúp chúng ta thâm nhập vào hầu như bất cứ nguồn thông tin nào trên thế giới.
Tại Mỹ, việc nối tất cả máy điện toán lại với nhau đã được sánh ngang với một công trình đồ sộ khác: đó là công trình hệ thống các xa lộ liên tỉnh bắt đầu từ thời Eisenhower. Đó cũng là lý do giải thích vì sao mạng lưới mới này lại mang cái tên “siêu xa lộ thông tin”. Tên gọi này đã được đại chúng hoá bởi cựu Thượng nghị sĩ Al Gore (hiện nay là Phó Tổng Thống Hoa Kỳ)- mà thân phụ ông là người bảo trợ cho bộ luật 1956 về Dự án các công trình xa lộ.
Dù vậy,ẩn nghĩa các từ xa lộ vẫn chưa thật hoàn toàn đúng. Nó gợi lên trong trí bạn cảnh vật và địa lý của một vùng nào đó, một khoảng cách giữa hai điểm mà bạn phải đi qua. Nhưng thực ra, một trong những khía cạnh nổi bật của công nghệ thông tin liên lạc mới này là nó triệt tiêu khoảng cách. người mà bạn liên lạc, dù ở ngay căn phòng bên cạnh, hay ở một châu lục khác, đều không thành vấn đề, bởi mạng lưới trung gian cao này không bị cản trở bởi chiều dài tính bằng dặm hay cây số.
Từ “xa lộ”cũng còn gợi lên một ý là mọi người đều đang đi trên cung một con đường. Mạng lưới mới này, đúng hơn là nó giống như hàng loạt các con đường, nơi mọi người có thể làm bất cứ điều gì thích hợp với suy nghĩ của anh ta.Một ý khác mà từ xa lộ gợi lên là nó phải do chính phủ xây dựng lên, và tôi nghĩ điều đó không đúng tai hầu hết các nước trên thế giới. Nhưng thực chất của ẩn dụ đó là nó nhấn mạnh đến hạ tầng cơ sở của công trình chứ không phải là những ứng dụng của công trình. Tại hãng Microsoft, chúng tôi dùng nhóm từ “thông tin ngay ở trên đầu ngón tay của bạn”, nhóm từ đó nhấn mạnh ý nghĩa về lợi ích nhiều hơn là mạng lưới. Một từ mang nghĩa ẩn dụ khác mà tôi nghĩ là nó gần gũi hơn để mưu tả hàng loạt các hoạt động sắp sửa diễn ra, đó là nhóm từ thị trường tổng hợp. Thị trường,nơi diễn ra các hoạt động buôn bán thượng vàng hạ cám, chủ yếu dành cho xã hội loài người, và tôi tin rằng thị trường mới này cuối cùng sẽ trở thành trung tâm bách hoá thế giới. Nó sẽ là nơi chúng ta sẽ mua, bán, đầu tư, mặc cả, tranh luận, gặp gỡ, và dạo chơi. Khi bạn chỉ nghe nhóm từ “xa lộ thông tin”chứ không nhìn thấy con đường, bạn hình dung ra một nơi họp trợ hoặc một nơi trao đổi hàng hoá. hãy hình dung về sự ồn ào, náo nhiệt của thị trường chứng khoáng New York hoặc một cái trợ của nông dân, hay một hiệu sách đông người, tất cả đang tìm kiếm thông tin có ích cho mình. Tất cả mọi trạng thái hoạt động của con người, từ các thương vụ hàng tỷ đô la tới các vụ ve vãn, tán tỉnh lẫn nhau đều diễn ra trên xa lộ. Nhiều thương vụ liên quan đến tiền bạc được thanh toán bằng tiền dưới dạng số chứ không phải bằng tiền tệ thật. Thông tin dạng số của tất cả mọi thứ, không phải chí có tiền, sẽ thông qua sự trao đôi trung gian mới của thị trường này.
Thị trường thông tin toàn cầu sẽ là một công trình khổng lồ và sẽ kết hợp tất cả các phương tiện khác nhau. trên bình diện thực tế, công trình đó sẽ giúp cho bạn có sự lựa chọn rộng rãi đối với tất cả mọi thứ, bao gồm cả việc bạn kiếm sống và đầu tư như thế nào, bạn sẽ mua sắm những gì và bạn sẽ phải trả bao nhiêu cho những thứ đó, bạn của bạn sẽ là những ai và bạn sẽ sử dụng bao nhiêu thời gian cho bè bạn, và đâu sẽ là nơi an toàn để cho bạn và gia đình bạn sống. Môi trường làm việc của bạn và ý nghĩa của bạn về điều gọi là “được giáo dục” cũng sẽ thay đổi gần như không nhận thấy được. Ý thức về tính đồng nhất, về bạn là ai và bạn thuộc về đâu, sẽ được mở rộng ra đáng kể. Tóm lại,hầu như tất cả mọi việc rồi sẽ được thực hiện khác đi. tôi không mong đợi những điều đó sẽ sảy ra trong nay mai, và tôi hiện đang làm tất cả những gì có thể được để thúc đẩy cho quá trình đó xảy ra.
Bạn không chắc là bạn sẽ tin vào điều này? Hay bạn muốn tin vào nó? Có lẽ bạn sẽ từ chối tham gia.Người ta nói chung, thường làm những việc khi có một vài công nghệ mới đe doạ sẽ thay đổi những gì họ đã quen thuộc và cảm thấy thoải mái với chúng. Trước hết, xe đạp, một vật đã xuất hiện kỳ cục; xe hơi, một kẻ sâm nhập quá ồn ào; máy tính bờ túi, một mối đe doạ việc học toán học; và radio, sự kết thúc của quá trình đọc viết.
Nhưng rồi qua thời gian, những máy móc đó đi vào trong đời sống hàng ngày của bạn, bới chúng mang tới sự tiện lợi và tiết kiệm sức lao động, và chúng cũng đồng thời khuyến khích bạn đi vào những đỉnh cao sáng tạo mới. Chúng ta hoan nghênh đón mừng chúng. Chúng nhận được sự tin cậy và có mặt bên cạnh các công cụ khác của chúng ta. Một thế hệ mới trưởng thành cùng với chúng, thay đổi và nhân tính hoá chúng. Tóm lại, chơi cùng với chúng.
Điện thoại là một bước tiến lớn lao trong thông tin hai chiều. Nhưng lúc mới ra đời, nó bị lên án là vật gây phiền toái. người ta cảm thấy khó chịu, cảm thấy bất tiện với kẻ thâm nhập mới vào trong gia đình họ. Dù vậy, dần dà con ngươi nhận ra rằng họ chẳng những có thêm một công cụ mới và họ còn học được cách liên lạc mới. Một câu chuyện phếm trên điện thoại không được lâu hoặc trang trọng bằng một cuộc đàm thoại trực diện. ngoài chuyện chưa quen ra, đối với nhiều người, nó là công cụ không hữu hiệu. Trước khi điện thoại ra đời, muốn thực hiện bất cứ một cuộc nói chuyện nào, người ta phải mất chọn một buổi chiều hoặc một buổi tối để đi thăm và có thể là một bữa cơm nữa. Một khi điện thoại có mặt ở hầu khắp các trụ sở làm việc và gia đình, người ta sáng tạo cách để tận dụng đặt tính độc nhất vô nhị của phương tiện liên lạc này. và khi điều đó phát triển dộng ra, các cách thể hiện đặc biệt của nó,các mánh khoé,các nghi thức văn hoá của nó phát triển theo. Trong khi tôi đang viết quyển sách này, một hình thức liên lạc mới-thư điện từ còn gọi là E-Mail- đang diễn ra theo quá trình tương tự: thiết lập nên các qui chế và tập tục riêng của nó.
Antoine de Saint-Exupesry, một phi công đồng thời là nhà văn người pháp, viết trong cuốn hồi ký Gió, cát và các vì tinh tú, vào năm 1939, dần dà, chiếc máy điện thoại sẽ trở thành một phần trong cuộc sống của nhân loại.
Ông viết về cách thức con người phản ứng trước kỹ thuật mới, và sử dụng cách đón chào chậm chạp của đại chúng đối với công trình đường xe lửa hồi thế kỷ thứ XIX làm ví dụ.
Ông mô tả dân chúng đã từng ca thán những đầu máy xe lửa sơ khai phun khói mù mịt với tiếng động cơ thét gào như những con quỷ sắt. rồi khi nhiều đường day được nắp đặt, các thị trấn bắt đầu xây dựng các trạm xe lửa. Hàng hoá và các dịch vụ đã phát triển theo. Nhiều việc làm thích thú bắt đầu từ đó. Xuất hiện một nên văn hoá phát triển theo hình thái độ khinh miệt đi tới chỗ công nhận nó. cái công cụ mà trước đây bị coi là con quái vật thì lúc này đã trở thành một phương tiện chuyên trở tốt nhất, mạnh nhất, phục vụ cho đời sống hàng ngày của họ. Một lần nữa sự thay đổi trong nhận thức của chúng ta được phản ảnh trong ngô ngữ chúng ta sử dụng. Hồi đó, chúng ta gọi xe lửa là “con quỷ sắt”.
Và Saint-Exsupery đặt câu hỏi: “vậy thì ngày nay người dân quê gọi xe lửa là gì nếu không phải là một anh bạn hiền lành cứ đúng 6 giờ chiều mỗi ngày là chạy ngang qua nhà mình?”
Chỉ có một sự thay đổi duy nhất có ảnh hưởng lớn đến lịch sử thông tin liên lạc sảy ra vào khoảng năm 1450, khi Johann Gutenberg, một người thợ rèn ở Mainz, Đức, phát minh và giới thiệu một máy in loại di chuyển được đầu tiên ở châu âu (lúc đó Trung Quốc và Triều tiên đã có máy in rồi).Sự kiện đó đã thay đổi vĩnh viễn nền văn hoá phương tây. Phải mất hai năm Gutenberg mới sắp xong chữ cho bộ Kim thánh đầu tiên, nhưng một khi đã sắp chữ xong, ông có thể in ra hàng loạt bộ. Trước thời Gutenberg, tất cả các sách đều phải chép bằng tay, hiếm khi hoàn thành xong một bản chép trong vòng một năm. Chiếc máy in của Gutenberg thời bấy giờ thật chẳng khác gì chiếc máy in lazer tốc độ nhanh hiện nay.
Chiếc máy in mang lại cho phương Tây không chỉ có cách sản xuất sách nhanh chóng hơn mà còn nhiều lợi ích khác. Cho đến lúc đó, mặc dù nhiều thế hệ đã đi qua, nhưng cuộc sống vẫn còn mang tính cộng đồng và hầu như là không thay đổi mấy. Hầu hết mọi người chỉ biết những gì bản thân họ được nhìn thấy hoặc được kể lại. Hầu như chẳng có mấy ai ra khỏi ngôi làng của họ. Như nhà văn James Burke, một tác giả tôi mến mộ, đã viết:
“Trên thế giới này, tất cả kinh nghiệm đều mang tính riêng tư: chân trời của họ thật là nhỏ hẹp, và cộng đồng hầu như chỉ nhìn ngược vào phía trong. Tất cả những gì tồn tại ở thế giới bên ngoài chỉ là lời đồn đại”.
Chữ in đã thay đổi tất cả,. Nó là phương tiện thông tin đại chúng đầu tiên- lần đầu tiên kiến thức, quan điểm,và kinh nghiệm được trao đổi với nhau dưới một hình dạng cụ thể, lâu bọn và có thể di chuyển được. Chữ in đã giúp nới dộng tầm nhìn của con người vượt ra khỏi danh giới ngôi làng họ sống, người ta bắt đầu quan tâm tới những gì đang sảy ra ở các nơi khác. Nhà máy in mọc lên như nấm tại các thành phố thương mại và trở thành những trung tâm trao đổi tri thức. Khả năng biết đọc biết viết trở thành một kỹ năng quan trọng, nó đã cách mạng hoá nền giáo dục và thay đổi các cấu trúc xã hội.
Trước thời Gutenberg, trên toàn lục địa Châu Âu chỉ có khoảng 30.000 đầu sách, gần như tất cả đều là kinh thánh. Vào năm 1500, có khoảng trên 9 triệu cuốn với đủ loại đề tài. Truyền đơn và các loại giấy tờ in khác bị ảnh hưởng chính trị, tôn giáo, khoa học và văn học. Lần đầu tiên trong lịch sử, những người bên ngoài giới khoa bảng chính thống sử dụng chác loại thông tin viết.
Xa lộ thông tin sẽ biến đổi nền văn hoá của chúng ta cũng sâu sắc, mạnh mẽ như máy in của Gutenberg đã làm ở thời trung cổ.
Máy điện toán cá nhân đã và đang thay đổi thói quen làm việc của chúng ta, nhưng nó chưa thực sự thay đổi cuộc sống của chúng ta nhiều. Khi những chiếc máy thông tin rất mạnh của ngày mai được nối mạng với nhau trên xa lộ,con người, máy móc, các cuộc vui chơi giải trí, và các dịch vụ thông tin, đều có thể tiếp cận được. Bạn có thể liên lạc được với bất cứ ai, tới bất cứ nơi nào, và với những ai muốn liên lạc với bạn; bạn có thể đọc lướt qua, dù ngày hay đêm, sách báo của hàng ngàn thư viện. Chiếc máy ảnh mà bạn bỏ quên hay bị đánh cắp sẽ báo một cách chính xác cho bạn biết hiện giờ nó đang ở đâu, dù cho nó là một thành phố khác. Từ trụ sở làm việc, bạn có thể trả lời câu hỏi từ gia đình của bạn. những thông tin hiện nay khó có thể có được, ngày mai sẽ trở nên dễ dàng:
– Xe buýt của anh chạy đúng giờ không?
– Hiện nay trên con đường bạn đi làm việc hàng ngày có tai nạn nào xảy ra không?
– Học bạ của con bạn đang học tại trường tốt xấu ra sao?
– Liệu có ai đồng ý đổi vé xem hát vào ngày thứ năm theo vé ngày thứ tư của bạn không?
– Cửa hàng nào, dù ở bất cứ nơi đâu, có thể giao cho bạn một đồng hồ đeo tay vừa để coi giờ vừa để bắt mạch với giá rẻ nhất vào sáng ngày mai?
– Hiệu giặt ủi đã giặt xong áo choàng của bạn chưa?
– Triệu chứng của một cơn đau tim như thế nào?
-Liệu cá có nhận biết được màu sắc không?
-Mình đang ở đâu vào lúc 9 giờ 2 phút tối ngày thứ năm vừa qua nhỉ?
Chẳng hạn, bỗng dưng bạn muốn thử một nhà hàng mới khai trương và muốn được xem thực đơn, dự án ngân hàng mục rượu vang, và các món đặc sản trong ngày của cửa hàng đó. có thể bạn đang nghĩ không biết các nhà bình luận nói gì về các món ăn bạn thích nhất.
Bạn có thể cũng muốn biết sở Y tế đã xếp hạng vệ sinh của khu vực bạn ở thụôc hạng nào. nếu bạn nghi ngờ nhà hàng bên cạnh, mà bạn muốn thông qua báo cáo của cảnh sát để biết mức độ an toàn của nó. nếu bạn vẫn còn thích thú đi du lịch ư? Vậy bạn phải đặt khách sạn, phải có bản đồ, phải có bản hướng dẫn lái xe theo luật giao thông. Hãy lấy các bản hướng dẫn đã in sẵn hay bảo máy đọc cho bạn nghe- và cập nhật thêm trong khi bạn đang lái xe trên đường.
tất cả những thông tin đó đều có thể có được và hoàn toàn thuộc về bạn, bởi vậy có thể khai thác bất cứ phần nào bạn thích thêo bất cứ cách nào và trong bất cứ bao lâu tuỳ bạn muốn. bạn muốn xem một chương trình vào lúc thuận tiện cho bạn chứ không phải vào đúng lúc chương trình đó được phát sóng.
Bạn có thể đi mua sắm, đặt thức ăn, liên lạc với bạn bè đồng môn, hoặc bạn muốn gửi thông tin của bạn cho những ai muốn sử dụng nó vào lúc nào tuỳ thích. Chương trình thời sự hàng đêm sẽ bắt đầu vào thời điểm bạn muốn và sẽ kết thúc vào lúc bạn dự định.
Bạn sẽ lướt qua những đề tài do bạn hoặc do một cơ quan dịch nắm được sở thích của bạn. bạn có thể yêu cầu gửi cho bạn những báo cáo của Tokyo hoặc của Boston hay của Seattle, yêu cầu cung cấp thêm chi tiết của một chuyên mục thời sự nào đó, hoặc có thể hỏi liệu người viết chuyên mục bạn ưa thích có thể bình luận thêm vêsự kiện nào đó. và nếu bạn muốn, người ta sẽ gửi bảng tin thời sự đó tới cho bạn.
Sự thay đổi trọng đại đó khiến cho người ta lo sợ. Hàng ngày, trên toàn thế giới, người ta hỏi nhau về mạng lưới đó thường với nỗi lo sợ hãi hùng. Điều gì sẽ sảy đến với việc làm của chúng ta? Liệu con ngưới có thể rời khỏi cái thế giới vật chất hàng ngày sống bằng máy điện toán của họ? liệu cái hố sâu ngăn cách giữa người giàu và kẻ nghèo có bị khoét rộng thêm ra? Liệu máy điện toán có thể giúp đỡ được gì cho những người dân bị mất quyền bầu cử ở East St. Lous hay đang chết đói ở Ethiopia? Những thách thức lớn lao sẽ sảy đến với mạng lưới và những thay đổi mà nó mang lại. Trong chương 12, tôi sẽ bàn về nhiều mối quan ngại chính đáng mà tôi thường được nghe đi nghe lại.
Tôi đã suy nghĩ về những khó khăn, và nhận thấy rằng, sau khi phân tích đến cung, tôi vẫn tin tưởng và lạc quan. Một phần, vì đó là bảng tính của tôi, phần khác, do tôi là người nhiệt tình với những gì mà thế hệ tôi, thế hệ trưởng thành cung với máy điện toán, có khả năng thực hiện được. chúng tôi đã tạo ra những công cụ dùng để hướng tới những phương cách mới. tôi thuộc loại người tin rằng, dù cho có gì sảy ra đi nữa thì sự tiến bộ sẽ đến, chúng ta cần phải tạo ra những gì tốt nhất. Tôi vẫn còn rùng mình với cảm giác rằng tôi đang bước thẳng vào tương lai và nắm bắt ngay khả năng hé lộ ban đầu của cuộc cách mạng này. Nhưng tôi cảm thấy thực sự may mắn rằng tôi là người đang nắm lấy cơ hội để góp phần vào sự khởi đầu của sự thay đổi mang tính thời đại một lần thứ hai nữa.
Lần đầu tiên, khi còn là một thiếu niên, tôi đã trải qua sự phấn khích đặc biệt khi tôi hiểu ra rằng những chiếc máy điện toán kia rồi đây giá rẻ và máy sẽ mạnh hơn rất nhiều. Chiếc máy điện toán mà tôi đã chơi trò chơi tic-toe vào năm 1968 và hầu hết các máy điện toán thời đò là những máy chính; những con quái vật khó tính đó được đặt trong các hộp bảo vệ không bị ảnh hưởng bởi thời tiết. Sau khi chúng tôi sử dụng hết số tiền do Mothers’ Club cung cấp, Paul Allen, người bạn học của tôi thời đó và sau này đã cùng tôi thành lập ra Hãng Microsoft, và tôi đã sử dụng rất nhiều thời gian để tiếp cận với máy điện toán. Những máy điện toán thời đó hoạt động rất kém so với tiêu chuẩn máy điện toán hiện nay, nhưng chúng lại là nỗi kinh hoàng đối với chúng tôi bởi vì chúng thật to lớn, phức tạp và rất đắt, giá mỗi chiếc tới hàng triệu Mỹ kim. Người ta nối chúng bằng sợi dây điện thoại với thiết bị đầu ra là loại máy teletyp để cho nhiều người ở nhiều noi khác nhau có thể dùng chung được. Còn máy điện toán thuê giờ thì rất đắt. Khi tôi còn học trung học, giá thuê giờ loại máy trên là 40 Mỹ kim. Điều đó bây giờ nghe có vẻ kỳ quặc vì khi mà hiện nay có một số người có hơn một máy và không họ nghĩ rằng anh ta để đó bạn cũng có thể sắm riêng một máy được. Nếu bạn có 18.000 Mỹ kim,Hãng Digital Equipment (DEC) sẽ bán cho bạn một máy PDP-8. Mặc dù người ta gọi là ” máy điện toán mini” nhưng nó rất lớn so với máy ngày nay. Người ta phải đặt nó trên một giá đỡ chiều ngang O,6 m và chiều cao 2 m, nặng tới 120kg. Có một thời chúng tôi có một cái, và tôi nghịch nó suốt ngày.
Chiếc PDP-8 rất bị hạn chế so với chiếc máy chính mà chúng tôi có thể liên lạc được bằng điên thoại, thực ra, khả năng tính của nó còn kém hơn vài loại đồng hồ đeo tay hiện nay. Nhưng nó có thể lập trình giống như máy lớn, loại rất đắt tiền, bằng cách chỉ thị cho phần mềm. Mặc dù có những hạn chế, chiếc máy PDP-8 khơi dậy trong chúng tôi niềm mơ ước rằng rồi đây hàng triệu người sẽ có thể sắm được máy điện toán. Cứ mỗi một năm trôi qua, tôi lại càng tin chắc rằng máy điện toán nhất định sẽ rẻ hơn nhiều và sẽ rất phổ biến. Tôi chắc chắn rằng một trong những lý do khiến tôi quyết tâm phát triển máy điện toán cá nhân lúc đò là tôi muốn có riêng cho mình một chiếc.
Vào thời đó, phần mềm, cũng giống như phần cứng, đều rất đắt. Người ta phải viết cho mỗi loại máy. Và hễ mỗi lần phần cứng của máy điện toán thay đổi, và việc đó rất thường xảy ra, thì lại phải tốn rất nhiều thời gian để viết lại phần mềm khác. Một số hãng sản xuất máy điện toán có cung cấp khối lập trình phần mềm chuẩn kèm theo máy, nhưng hầu hết các phần mềm đều chỉ dược viết để giải quyết nhưng vấn đề riêng cho một số hãng buôn. Cũng có một vài phần mềm đa dụng, nhưng có rất ít phần mềm kết hợp mà bạn có thể mua đứt được.
Ba má tôi lo tiền học phí cho tôi tại Lakeside và cho tôi tiền để mua sách, nhưng tôi còn phải lo trả tiên thuê máy điện toán. Chính điều đó đã đẩy tôi nghiêng về hướng muốn kinh doanh phần mềm. Nhóm chúng tôi,trong đó có Paul Allen, tìm dược việc làm với tư cách là những lập trình viên phần mềm. Đối với học sinh các trừong trung học, số tiền 5.000 Mỹ kim được trả cho mỗi mùa hè – một phần bằng tiền và số còn lại được trừ vào tiền thuê máy điện toán -thật là một số tiền lớn. Đồng thời, chúng tôi cũng thương lượng để làm việc cho một số công ty khác trong đó có điều kiện là nếu chúng tôi phát hiện các sai sót trong phần mềm cho họ, chúng tôi được sử dụng máy điện toán của họ không mất tiền.
Một trong những chưong trình tôi đã viết là chưong trình về xếp lớp của học sinh. Tôi đã bí mật cài vào đó một vài lệnh và việc đó khiến tôi được xếp vào một lớp chỉ toàn là nữ sinh. Như tôi đã đề cập, thật khó lòng kéo tôi ra khỏi chiếc máy, nơi tôi có thể chứng minh một cách rỏ ràng về những thành công của mình. Tôi đã nghiện nó rồi.
Lúc đó, Paul hiểu biết về phần cứng nhiều hơn tôi. Vào một ngày he năm 1972, khi tôi mới 16 và Paul 18 tuổi, Paul đưa cho tôi bài báo dài cả trang 143 của tạp chí Electronics. Bài báo viết rằng một công ty còn non trẻ, tên Intel, đã cho ra đời một nhip vi xử lý với tên gọi 8008.
Chíp vi xử lý đơn giản nhưng nó chứa toàn bộ não của một máy điện toán Paul và tôi nhận thấy rằng bộ vi xử lý đầu tiên này còn rất hạn chế, nhưng Paul chắc chắn rằng sẽ có thể làm cho chúng mạnh hơn và máy điện toán sử dụng một chip sẽ được cải tiến nhanh chóng.
Vào thời đó, giới công nghiệp máy điện toán chưa họ nghĩ đến việc chế tạo ra một máy điện toán thực ra chỉ dùng một bộ vi xử lý. Bài báo dăng trên tạp chí Electronics chẳng hạn, miêu tả máy điện toán 8008 như là một máy thích hợp ” cho bất cứ chương trinh số hoc, chương trình điều khiển hay hệ thống làm ra quyết định nào, như là một đầu cuối thông minh “. Nhưng tác giả bài báo đã không nhận thấy rằng bộ vi xử lý lại có thể phát triển lên thành một máy điện toán đa năng. Các bộ vi xử lý thời đó còn chậm và bị hạn chế về số lượng thông tin mà chung xử lý. Chưa có những ngôn ngữ lập trình phức hợp. Mỗi một ứng dụng đều phải được lập trình với hàng tá các lệnh đơn giản mà mạch tổ hợp có thể hiểu được.
Người ta coi chiếc máy 8008 như là một gánh nặng, cứ phải lặp di lặp lại các nhiệm vụ đơn giản một cách rất nhàm chán. Loại này được sử dụng rất phổ biến trong thang máy và máy tính bờ túi.
Nói cách khác, một bộ vi xử lý giản đơn được gắn vào một ứng dụng,như các nút điều khiển trong thang máy, chỉ là một công cụ đơn, một cái trống hay một cái còi, trong tay của một nhạc sĩ nghiệp dư; tốt cho nhịp điệu cơ bản hoặc cho những hoà âm không phức tạp. Tuy nhiên, một bộ vi xử lý mạnh với những ngôn ngữ lập trình thích hợp giống như một dàn nhạc hoàn hảo. Với một phần mềm đúng, cũng như với một dàn nhạc hay, nó có thể chơi tất cả các thể loại.
Paul và tôi tự hỏi chúng tôi phải lập trình như thế nào để cho máy 8008 có thể thực hiện được, Paul điện thoại cho hãng Intel để hỏi xem họ có thể cung cấp cho chúng tôi một tài liệu hướng dẫn nào được không. Chúng tôi hơi ngạc nhiên khi nhận được tài liệu do họ gởi tới. Chúng tôi bắt tay vào nghiên cứu. Trước đây, tôi đã lập một phiên bản (version) của BASIC để sử dụng trong máy PDP-8 của Hãng DEC, và hết sức phấn khởi khi nghĩ rằng tôi có thể làm như vậy cho mạch tổ hợp của Hãng Intel. Nhưng trong khi nghiên cứu tài liệu hướng dẫn của máy 8008, tôi nhận thấy rằng đó chỉ là việc làm vô ích. Chiếc máy 8OO8 chưa phải là loại máy tinh vi, nó không có đủ transistor.
Tuy nhiên, chúng tôi đã hình dung ra cách sử dụng mạch tổ hợp nhờ đó để nâng công suất của những chiếc máy lên để chúng có thể phân tích số liệu thông tin về lưu lượng xe cộ lưu thông xe bằng cách trải một đoạn ống cao su ngang qua những quãng đường chọn trước. Khi một xe chạy qua ống cao su, nó đục một lỗ trên băng giấy đặt bên trong một hộp kim loại gắn ở một đầu ống. Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể sử dụng máy 8008 để xử lý các băng giấy đó để in ra các dồ thị và các số liệu thống kê khác. Chúng tôi đặt tên cho công ty đầu tiên của chúng tôi là ” Traf-O-Data”. Vào thời đó, cái tên này nghe có vẻ thi vị lắm.
Tôi viết rất nhiều phần mềm cho chiếc máy Traf-O-Data ngay trên xe buýt liên tỉnh trong các lần đi lại từ Seattle tới Pullman va Washington, và trong khi đó Paul vẫn tiếp tục học tại trường. Những mẫu thử đầu tiên hoạt động rất tốt, và chúng tôi hình dung rằng chúng tôi sẽ bán rất chạy loại máy mới của chúng tôi trên khắp đất nước. Chúng tôi sử dụng nó để xử lý các băng giấy về lưu lượng xe giao thông trên dường phố cho một vài khách hàng, nhưng không một ai thực sự muốn mua máy của chúng tôi, có lẽ chúng là sản phẩm của hai cậu nhóc.
Mặc dù có thất vọng,chúng tôi vẫn vững tin vào tương lai, thậm chí nếu đó không phải là các phần cứng,thì chí ít chúng tôi cũng có thể làm được điều gì đó với bộ vi xử lý. Sau khi tôi vào học tại đại học Harvard vào năm 1973, Paul vẫn cố sử dụng chiếc Chrysler New Yorker cà tàng của anh để đi từ Washington xuyên qua nước Mỹ đến Boston, để lập trinh cho máy điện toán mini tại Honeywell. Anh thừong hay ghé qua Cambridge để tiếp tục trao đổi với tôi về kế hoạch tương lai.
Mùa xuân năm 1974, tạp chí Electronics cho biết Hãng Intel cho ra đời mạch tổ hợp 8008 mới – có công suất mạch gấp mười lần mạch tổ hợp 8008 gắn trong máy Traf-O-Data. Máy 8008 không lớn hơn máy 8008 là mấy nhưng nó chứa nhiều hơn tới 2.700 transistor. Ngay lập tức, chúng tôi xem xét các bộ phận bên trong của một chiếc máy điện toán thực sự, với giá khoảng dưới 200 Mỹ kim. Chúng tôi bắt tay ngay vào việc soạn tài liệu.Tôi nói Paul ” Bây giờ thì hãng DEC sẽ không thể bán được chiếc máy PDP-8 nào nữa đâu ” Điều khá rõ ràng đối với chúng tôi là nếu mạch tổ hợp nhờ li ti đó lại có thể trở nên mạnh hơn rất nhiều lần thì sự cáo chung của những cỗ máy cồng kềnh kia đang đến.
Tuy nhiên, các nhà sản xuất máy điện toán lại không nhận ra rằng chính bộ vi xử lý đó mới là mối đe doạ. Họ chỉ không thể hình dung được là một mạch tổ hợp nhỏ bé kia lại có thể tạo nên một máy điện toán “thật sự”. Thậm chí ngay cả các nhà khoa học của Intel cũng không thể nhìn thấy khả năng tiềm ẩn đầy đủ của nó. Đối với họ, chiếc máy 8008 không gì khác hơn là sự cải tiến trong công nghệ tổ hợp. Trong một thời gian ngắn, các nhà sản xuất máy điện toán đã đúng. Máy 8008 chỉ là một sự tiến bộ nhỏ nhoi. Nhưng Paul và tôi nhìn lại những hạn chế của mạch tổ hợp mới đó và hình dung ra một loại máy điện toán khác hoàn toàn mang tính riêng tư, có khả năng sắm được và có thể thích nghi được. Điều đó đã hết sức rõ ràng đối với chúng tôi bởi vì các mạch tổ hợp mới đó rẻ đến mức rồi chúng sẽ có mặt ở khắp nơi.
Phần cứng của máy điện toán, có một thời rất hiếm, rồi đây cũng sẽ có mặt khắp nơi, và giá thuê máy điện toán sẽ không còn quá đắt như trứơc nữa. Chúng tôi nghĩ rằng người ta sẽ áp dụng mọi ứng dụng mới vào máy điện toán nếu như nó không quá đắt như vậy. Rồi đây, phần mềm sẽ là chìa khoá để khai thác mọi khả năng tiềm tàng của những máy này. Paul và tôi suy đoán rằng các công ty Nhật và IBM chắc sẽ nắm phần sản xuất hầu hết phần cứng. Chúng tôi tin tưởng rằng chúng tôi sẽ đi lên với những phần mềm đầy sáng tạo và mới mẻ. Và tại sao lại không chứ? Bộ vi xử lý sẽ thay đổi cơ cấu của nền công nghiệp. Và có thể hai chúng tôi tìm được một chỗ đứng trong đó.
Đờ tài này cũng là đề tài chung của các trường đại học. Bạn có tất cả mọi loại kinh nghiệm mới, và ước mơ hiện tại ấp ủ cho những ước mơ về tương lai. Lúc bấy giờ chúng tôi còn trẻ và nghĩ rằng chúng tôi còn đủ thời gian. Tôi đăng ký học thêm một năm nữa tại trường đại học Harvard, và luôn suy nghĩ tìm cách để cho ra đời công ty sản xuất phần mềm của chúng tôi. Chúng tôi đề ra một kế hoạch khá đơn giản. Từ phòng ngủ của tôi tại ký túc xá, chúng tôi gởi đơn tới tất cả các công ty máy điện toán lớn, xin được viết phiên bản BASIC cho mạch tổ hợp Intel mới,nhưng không một nơi nào trả lời. Đến tháng 12, chúng tôi cảm thấy khá thất vọng. Tôi dự định sẽ trở về Seattle nghỉ phép, và Paul vẫn sống ở Boston. Vào một buổi sáng, với cái lạnh buốt tận xương của vùng Massachusetts, vài hôm trước khi tôi rời khu vực này, Paul và tôi đang lang thang quanh quầy báo tại Quảng trừong Harvard và Paul họ hững cầm lên tạp chí Popular Electronics số tháng Giêng Đây chính là khoảnh khắc tôi đã miêu tả ở phần mở đầu Lời Tựa của quyển sách này. Chính nó đã biến ươc mơ của chúng tôi về tương lai thành hiện thực.
Trên trang bìa của tạp chí là một bức ảnh chụp một máy điện toán rất nhọ, không lớn hơn chiếc lò nứong bánh mì điểm tâm là mấy. Nó có một cái tên có vẻ trang trọng hơn cái tên Traf-O-Data của chúng tôi; Máy điện toán Altair 88OO. ( Altair là đích đến trong bộ phim khoa học giả tưởng nhiều tập Star Trek). Máy không có màn hình và cũng chẳng có bàn phim. Nó có 16 nút bấm đề ra lệnh trực tiếp nhấp nháy được,và tất cả chỉ có thế. Một phần của vấn đề là máy Altair 8800 thiếu phần mềm. Và người ta không thể lập trình cho nó được, và việc đó khiến cho nó trở thành một vật mới lạ hơn là một công cụ.
Nhưng cái mà máy Altair có lại là chíp vi xử lý của máy Intel 8080 được dùng như bộ não của máy. Khi chúng tôi nhìn thấy nó, chúng tôi hoang mang thực sự. ” Ôi; Nó đã ra đời mà chúng tôi không được góp phần; Người ta viết phần mềm thực sự cho tổ hợp rồi.” Tôi đã đoán chắc là nó sẽ xảy ra sớm hơn và tôi đã muón được tham gia ngay vào thời kỳ đầu. Cơ hội để được tham gia ngay vào các giai đoạn đầu của cuộc cách mạng máy điện toán cá nhân là cơ hội ngàn năm có một, nên tôi đã chớp lấy.
Hai mươi năm sau, tôi cũng suy nghĩ giống như vậy về những gì diễn ra hiện nay. Lúc đó, tôi no sợ rằng người khác cũng sẽ có phiên bản giống như tôi đã làm; ngày nay, tôi biết đang có hàng ngàn người làm như vậy. Cái di sản của cuộc cách mạng trước đây là 50 triệu máy điện toán cá nhân đã được bán ra hàng năm trên toàn thế giới,và vận hội đó đã được lập lại trong nghành công nghiệp máy điện toán. Đã có biết bao người thắng và kẻ thua.Lần này, có không biết bao nhiêu công ty đang cố lao vào thật sớm trong khi sự thay đổi đang diễn ra hàng ngày và có không biết cơ man nào là cơ hội.
Khi nhìn lại khoảng thời gian 20 năm trước đây, rõ ràng một số đông công ty đã vội vàng lao mình vào cuộc đến mức họ không kịp thích ứng và thua thiệt là chuyện hiển nhiên. Rồi đây, hai mươi năm sau nữa, khi chúng ta nhìn lại thời kỳ này, chúng ta cũng sẽ thấy một dạng tương tự như vậy xảy ra. Tôi biết, trong khi tôi viết điều này, đang có ít ra là một thanh niên sẽ lập một công ty mới rất lớn, tin tưởng vào tấm nhìn sâu rộng của anh ta vào cuộc cách mạng thông tin này là đúng. Hàng ngàn công ty sẽ được thành lập để khai thác những đổi thay sắp tới này.
Năm 1975, Paul và tôi đã quyết định một cách ngây thơ rằng chúng tôi sẽ cho ra đời một công ty, chúng tôi đang hành động giống như những nhân vật trong chuyện phim của Judy Garland và Mickey Rooney, những người đã reo mừng:” Chúng tôi sẽ trình diễn ngay tại các chuồng gia súc ” Không còn thời gian để mà lãng phí nữa. Công trình đầu tiên của chúng tôi lúc đó là tạo ra ngôn ngữ BASIC cho chiếc máy điện toán xinh xinh của chúng tôi.
Chúng tôi đã nhét quá nhiều thứ vào trong bộ nhớ nhờ của chiếc máy. Chiếc Altair chỉ có khoảng 4.000 ký tự nhớ. Ngày nay, hầu hết máy điện toán cá nhân có từ 4 đến 8 triệu ký tự nhớ. Nhiệm vụ của chung tôi lúc đó càng trở nên phức tạp hơn vì chúng tôi thực sự không có trong tay một chiếc Altair nào, và cũng chưa bao giờ được nhìn thấy nó. Nhưng việc đó không thành vấn đề vì những gì chúng tôi quan tâm tới là chip vi xử lý 8080 mới của Intel và chúng tôi cũng chưa bao giờ được nhìn thấy nó. Không họ nản lòng, Paul nghiên cứu tài liệu để tạo mạch tổ hợp, và sau đó viết một chưong trình giúp cho chiếc máy lớn tại Harvard có thể bắt chước chiếc máy Altair nhỏ nhắn kia. Việc đó chẳng khác nào đưa toàn bộ một dàn nhạc hoàn chỉnh ra chỉ để chơi một bản song tấu đơn giản. Ấy thế mà lại thành công.
Để viết được những phần mềm tốt, đòi hỏi người viết phải tập trung tư tưởng, và viết ngôn ngữ BASIC cho máy Altair cũng là công việc khá đau đầu Khi suy nghĩ, tôi thường phải đi tới đi lui trong phòng bởi nó giúp tôi tập trung được suy nghĩ vào một vấn đề duy nhất và tránh bị phân tán tư tưởng. Tôi nhốt mình trong phong ngủ trong suốt mùa đông năm 1975. Paul và tôi không ngủ nhiều và không còn biết ngày hay đêm nữa. Khi tôi thực sự buồn ngủ, nơi tôi ngủ thường là bàn làm việc hay sàn nhà. Có một số ngày chúng tôi không ăn và cũng không họ gặp mặt một ngưòi nào
cả. Nhưng sau 5 tuần. Rất đúng lúc và chúng tôi đặt tên cho công ty là ” Microsoft”.
Chúng tôi biết rằng thành lập một công ty có nghĩa là chấp nhận sự hy sinh. Nhưng đồng thời chúng tôi cũng nhận ra rằng hoặc chúng tôi thành lập công ty vào lúc đó hoặc sẽ không bao giờ nữa. Vào mùa xuân năm 1975, Paul từ bỏ nghề lập trình và tôi cũng quyết định nghỉ phép.
Tôi đưa vấn đề này ra bàn với Ba má tôi, cả hai người đều khá hiểu biết về kinh doanh, Ba má tôi đều hiểu rằng tôi rất muốn thành lập công ty sãn xuất phần mềm và Ba má tôi đã ủng hộ ý định đó. Kế hoạch của tôi là nghỉ học để tập trung thời gian thành lập công ty rồi sau đó sẽ trở lại trường để hoàn tất chương trình. Tôi chỉ muốn nghỉ phép dài hạn. Không giống như một số sinh viên khác, tôi yêu mến trường đại học. Tôi từng nghĩ rằng thật là vui thích khi được cùng ngồi bàn chuyện với biết bao những con ngưòi thông minh cùng lứa tuổi. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng cánh cửa mở để thành lập một công ty phần mềm có thể không bao giờ trở lại. Vì thế cho nên tôi lao vào thế giới kinh doanh khi tôi chỉ mới 19 tuổi đầu.
Người ta thường yêu cầu tôi giải thích sự thành công của Hãng Microsoft. Họ muốn biết bí quyết nào đã đưa công ty từ chỗ chỉ có hai người thành một cong ty có trên 17.000 nhân viên với doanh số bán ra hàng năm trên 6 tỷ. Tất nhiên, câu trả lời không đơn giản chút nào, và sự may mắn có vai trò của nó trong đó, nhưng tôi nghĩ rằng yếu tố quan trọng nhất là tầm nhìn ban đầu của chúng tôi.
Chúng tôi nghĩ điều gì sẽ xảy ra sau máy Intel 8080, và hành động theo hướng đó. Chúng tôi tự hỏi ” Điều gì sẽ xảy ra nếu như giá tiền mua máy điện toán sẽ rẻ gần như cho không?”
Chúng tôi tin rằng máy điện toán rồi sẽ có mặt ở khắp nơi vì giá rẻ và phần mềm mới có nhiều lợi thế hơn. Chúng tôi mở của hiệu bán máy điện toán để thử vận may, và sản xuất phần mềm để bán trong khi chưa một người nào làm như vậy. Nhờ tầm nhìn ban đầu của chúng tôi đúng giúp cho mọi việc về sau dễ dàng hơn, Chúng tôi vào cuộc đúng nơi và đúng lúc. Chúng tôi đên đích trứoc, và những thành công ban đầu tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi thu hút nhân tài. Chúng tôi thiết lập mạng lưới bán hang trên toàn thế giới,và sử dụng lợi tức để đầu tư vào viêc nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới. Ngay từ đầu,chúng tôi đi đúng hướng.
Bây giờ, chúng tôi có cả một chân trời mới, và một câu hỏi mới nảy sinh “Điều gì sẽ xảy ra nếu như việc thông tin liên lạc rồi đây sẽ là việc gần như không tốn tiền?”
Đ nghĩ về sự nối mạng tất cả các máy của gia đình và cơ quan vào trong một mạnglưới có tốc độ cao đã và đang châm ngòi trí tưởng tượng của dân tộc này mà từ khi có chương trình không gian chưa có gì có thể khơi dậy như thế. Và không chỉ có dân tộc này, trí tưởng tượng của các dân tộc khác trên toàn thế giới rồi sẽ bừng lên. Hàng ngàn công ty sẽ có tầm nhìn như vậy, và từng cá nhân cũng thế, hiểu được những bước đi ban đầu, và việc thực hiện sẽ xác định thành công của họ.
Tôi dành rất nhiều thời gian để suy nghĩ về kinh doanh bởi tôi rất yêu thích công việc tôi làm. Ngày nay, phần lớn suy nghĩ của tôi đều dồn vào cho xa lộ. Hai mươi năm trước đây, khi tôi nghĩ về tương lai của vi chip của máy điện toán cá nhân, tôi cũng không biết chắc rồi nó sẽ dẵn dắt tôi đi đến đâu.Tuy nhiên,tôi vẵn kiên trì theo hướng đã chọn, và tin tưởng rằng chúng tôi đang đi đúng hướng chúng tôi cần đến khi mọi việc ngày càng trở nên rõ ràng hơn. Hiện nay, trước mắt tôi còn nhiều bất trăc, song tôi vẫn giữ niềm tin như thủa nào. Thật khá căng thẳng thằn kinh nhưng cũng thật là thích thú.
Hầu hết mọi người cũng như mọi công ty đang đánh cuộc với tương lai của họ bằng cách xây dựng những nhân tố để biến xa lộ thông tin thành hiện thực. Tại hãng Microsoft, chúng tôi tích cực làm việc để hình dung ra cách làm thế nào để có thể bắt đấu từ vị trí chung stôi đang đứng hiện nay, đi đến điểm chúng tôi có thể phát huy tất cả tiềm năng của những tiến bộ mới của kỹ thuật. Lúc này là thời điểm đầy hứng thú, chẳng những cho các công ty có liên quan mà còn đối với tất cả những ai nhận thức được những lợi ích của cuộc cách mạng này.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.