Con Gái Quỷ Medusa

CHƯƠNG 3



Một tháng chín mưa bão! Vô vàn những tảng mây xám sà sâu xuống dưới như muốn hôn lên mặt đất. Trông chúng thật giống những dải sương mù đậm đặc. Người lái xe phải bật đèn pha giữa ban ngày. Cả tôi cũng bật đèn cho đến tận mục tiêu mà người bạn đồng hành của tôi đã chọn trước. Chúng tôi dừng xe lại bên lề, rồi bước xuống. Bà Sarah Goldwyn mở cái ô lớn màu đen ra, nó đủ rộng cho cả hai người. – Nào, anh bạn, việc bây giờ nghiêm trọng đây. Tôi cúi người chui xuống dưới cái ô. – Bà nghĩ thế sao? – Đúng vậy! Chúng tôi băng qua đường rồi vòng qua một lùm cây rộng, đến với nhóm đàn người đang tụ họp ở nghĩa trang phía bên kia. Tôi khoác tay bà Sarah Goldwyn. Phải chú ý để làm sao bà già đừng trượt ngã trên nền đất ướt.
– Ổn cả chứ? – Tôi chưa già đâu, John! – Xin lỗi bà! Một câu nói tiêu biểu của bà Sarah. Cả tôi cũng không rõ năm nay bà thật sự bao nhiêu tuổi. Chắc chắn phải trên bảy mươi, nhưng bà vẫn còn khỏe hơn không ít thanh niên. Sarah Goldwyn là người bản lĩnh, là người khi cần sẽ dám đối mặt với khó khăn. Thêm vào đó, bà say mê tất cả những gì đặc biệt, nằm ngoài vương quốc của những cân nhắc thực tế. Sarah là một món quà lớn của số phận, bà chủ nhà của nữ thám tử Jane Collins đã không ít lần cung cấp cho tôi những lời khuyên quý báu và giúp đỡ tôi một cách hữu hiệu. Cả trong vụ này, bà cũng tham gia nhiệt tình không kém gì Jane. Nhưng hiện thời, tôi vẫn chưa nắm chắc được sự việc. Mọi thử nghiệm hỏi han đều chỉ dẫn đến một câu trả lời:
– Người ta chỉ nên nói chuyện lột da gấu sau khi đã giết xong nó, John ạ! Tôi đành chấp nhận và nén tò mò cùng bà Sarah Goldwyn đi về cái nghĩa trang nằm ở vùng đông bắc London này. Một cánh đồng chết chóc, chẳng phải chỉ nằm sát một tỉnh lộ mà còn rất hoang vắng giữa những cánh rừng. Nhìn mỏi mắt vẫn không thấy ngôi làng nào. Đã từ lâu, người ta không đưa người về đây chôn nữa. Những linh hồn đang an nghỉ ở đây là những binh lính từ thời đại chiến thế giới lần thứ hai, và nghĩa trang trông cũng tiêu điều cũ kỹ y như vậy. Dưới những hàng cây ướt đẫm buồn rầu, những hàng bia mộ màu xám đơn giản trông càng u ám, tối tăm hơn. Nhiều bia mộ đã bị dây leo quấn đầy, rất khó phát hiện. Trong nghĩa trang không có đường, người ta đơn giản đạp lên cỏ và cây dại mà đi. Những ai tới đây bằng xe đều phải đậu ở ngoài. Cả người lái với chiếc xe xúc nhỏ cũng đã làm như vậy. – Họ đã đến rồi. – Sarah Goldwyn nói. – Nhưng ta cũng chưa bị muộn lắm đâu.
– Tôi cũng nghĩ vậy. Một nhóm nhỏ đàn ông đứng xung quanh chiếc xe xúc đất, nhìn lưỡi xẻng ngoạm vào lòng đất. Trong đó có hai người mặc cảnh phục. Một người đã nghe thấy tiếng chúng tôi. Anh ta quay lại, giơ tay ra.
– Các ngài làm ơn đi cho, ở đây chẳng có việc gì để nhìn cả.
– John Singlair của Scotland Yard. – Tôi tự giới thiệu.
– Xin lỗi ngài, tôi không biết…
– Không sao! – Tôi giới thiệu bà Sarah rồi hỏi xem công việc đã tới đâu.
– Chúng tôi vừa mới bắt đầu.
– Vậy là chúng tôi đến đúng lúc.
– Tôi cũng nghĩ vậy, thưa ngài. Sarah và tôi hơi chen lên phía trước để nhìn thấy nấm mộ. Đây không phải là mộ một người lính. Ngôi mộ này còn mới. Có người đã lợi dụng nét hoang vắng của nghĩa trang để chôn trộm. Những người đàn ông đứng đó đã nghe được đoạn trao đổi giữa viên cảnh sát và tôi. Họ quay đầu nhìn hai chúng tôi nhưng không ai lên tiếng.
Tiếng xe đào đất rít lên khô khốc. Những âm thanh khó chịu, lặp đi lặp lại, như đâm vào màng nhĩ. Cả khuôn mặt bà Sarah cũng nhăn lại trong một nụ cười chua chát. Chúng tôi đứng gần sát ngôi mộ, chiếc hàm thép của xẻng xúc đất ngày càng ngoạm sâu hơn xuống dưới. Nó dứt từng tảng đất ướt ra khỏi lòng đất rồi ném chúng sang bên.
Tôi thúc vào mạng sườn bà Sarah.
– Bà không muốn nói cho tôi biết chúng ta phải làm gì ở nghĩa trang này hay sao?
– Chưa phải lúc.
– Bà định giữ bí mật đến phút cuối sao?
– Chính thế đấy, John ạ.
– Dưới mộ này là một quan tài, hay Jane đã kể điều gì khác?
– Không, cô ấy không kể. Cô ấy chỉ muốn anh vào cuộc, Jane cảm thấy trận chiến này vượt quá sức cô ấy. – Cô ấy quyết định vậy là hay đấy. Nhưng cho phép tôi hỏi, đây có phải chuyện cương thi không? Bà Sarah nở một nụ cười hóm hỉnh.
– Chẳng phải lúc nào ra nghĩa trang cũng gặp cương thi cả đâu. Đây là một vụ giết người hàng loạt mà công luận không hề biết tới. Nhưng không phải vì thế mà kém phần trầm trọng và bí hiểm.
– Tôi sẽ gặp nạn nhân của vụ giết người hàng loạt này trong nấm mộ đây?
– Chính thế đấy, John ạ.
– Jane đã biết hết mọi chuyện và muốn giữ bí mật với tôi?
– Đúng vậy!
– Tại sao?
– Cô ấy không nói lý do. Những thông tin mà cô ấy điều tra ra chỉ được báo cho thân chủ biết. Nhưng theo tôi, có lẽ sự việc đã tới lúc không thể tiếp tục nằm trong bí mật được nữa.
Bà Sarah tiến lên phía trước một bước để nhìn cho rõ hơn. Tôi cầm ô bước theo bà, lòng thầm công nhận bà già đã khiến tôi tò mò hơn hẳn. Người lái xe đào đất là một tay thợ lành nghề. Tôi thậm chí dám đặt cả đồ sứ của mình lên chiếc xẻng kia. Rõ đây không phải là lần đầu tiên anh ấy đào mộ. Những người thợ hiện đại như anh đã khiến tất cả ngành đào mộ truyền thống bị tiêu tan. Đám đất bên phải đã cao dần.
Tất cả những người đứng đó không một ai lên tiếng. Mưa không ngừng rơi nhè nhẹ và khiến không khí càng nặng nề hơn. Có lẽ trong số người ở đây, chỉ có tôi là không rủa thầm ông trời. Sau một mùa hè nóng như ở vùng nhiệt đới, tôi thật sự mừng vui trước tiết thu lành lạnh.
Một người đàn ông đội mũ màu nâu mặc áo bành tô sáng màu đi về phía tôi. Ông ta tự giới thiệu là Jim McHart, làm việc cho thành phố London, chịu trách nhiệm chăm sóc nghĩa trang này. Đã từ lâu người ta không cho phép chôn ai ở đây, vì vậy mà thật dễ dàng xin giấy phép khai quật một ngôi mộ chôn trộm. Hơn thế nữa, Sir James, sếp của tôi, đã tự tay dàn xếp việc này. Ông tin chắc rằng tôi và Jane chẳng đời nào lại đi xin khai quật mộ nếu việc không thật sự cần thiết.
– Ông đã nghi ngờ ai chưa? – Người đàn ông hỏi chúng tôi.
– Chưa, thưa ông McHart.
Một vài giọt mưa lăn qua vành mũ của ông ta, rơi xuống cỏ.
– Nếu thế thì chẳng tốt chút nào cả. – Ông ta nhận xét.
– Tôi biết, nhưng ta hãy chờ kết quả ở đây xem sao đã.
– Mafia phải không?
– Ý ông nói sao?
– Ai mà chẳng biết, bọn Mafia thích tìm những nơi đặc biệt để chôn kẻ thù đã bị xử lý của chúng. – McHart cười khẽ.
– Quả là ông có lý.
– Vậy là chúng ta có thể tin rằng, kể cả ở đây…
– Không, hoặc chỉ là một nỗi nghi ngờ. Bọn Mafia thường sẽ giấu nạn nhân của chúng ở nơi khác. Ví dụ xuống dòng sông Themse, xuống không biết bao nhiêu hồ nước quanh London và cả chuyện thiêu xác cũng sẽ tiện lợi hơn nhiều. Một nấm mồ mới đào trên một nghĩa trang chôn binh lính như ở đây sẽ rất dễ bị phát hiện.
– Vậy thì tôi rất tò mò muốn biết ai nằm trong quan tài kia.
Ông ta giơ tay gạt những giọt nước trên vành mũ rồi lại quay người đi. Suốt cả câu chuyện, ông ta chẳng thèm quan tâm đến bà Sarah Goldwyn, dù chỉ là một nửa ánh mắt.
Ngay lập tức, bà coi ông ta là thứ chẳng ra gì. Tôi đồng ý với bà. Tôi thấy hơi mệt mỏi. Có lẽ do thời tiết mà cũng có thể do vụ án gần đây nhất. Vụ án đã dẫn chúng tôi vào một sàn nhảy nằm dưới một nhà thờ, dẫn chúng tôi vào một nhóm người mà chúng tôi mãi mãi cảm thấy lạ lùng. Họ chỉ là tấm vỏ bên ngoài, che đậy cho những sự việc trầm trọng hơn. Chính ở đó, chúng tôi đã gặp con quái vật, một thực thể bị biến đổi gien một cách bí hiểm đã tồn tại hàng ngàn năm trời chỉ trong hình dạng một nắm tế bào. Nhờ vào Sheila Conolly, con thú bây giờ không còn tồn tại nữa, nhưng vụ án đã dấy lên trong chúng tôi những câu hỏi không lời giải đáp và thổi vào lòng tôi nỗi lo âu, rằng những lực lượng đen tối đã tấn công kể cả vào những không gian trong sạch như các nhà thờ và tìm cách mài sắc thêm những kiến thức của chúng. Quả là chúng ta luôn phải cảnh giác tối đa. – Tôi chạm tới quan tài rồi! – Giọng người lái xe đào đất giật tôi ra khỏi dòng suy nghĩ. Bà Sarah và tôi nhìn xuống dưới ngôi mộ. Người lái xe đã rời cabin, bước xuống, đạp đôi chân đi ủng cao su thật dày qua lớp bùn ướt, đến đứng cạnh chúng tôi
. – Quan tài, ha ha… – Anh ta cười cáu kỉnh.
– Chỉ có một quan tài, chẳng có gì hơn. Nhưng nhìn nó có vẻ còn mới, tôi biết chính xác như vậy. Thế nào? Tôi có cần phải kéo nó lên không?
– Chắc là không cần đâu. – Tôi nói lớn và rõ ràng.
– Để việc đó cho tôi.
– Chẳng lẽ ông muốn nhảy xuống dưới?
– Đúng vậy.
Sarah giữ chặt lấy tay tôi.
– Có lẽ anh sẽ ngạc nhiên đấy, John. – Bà thì thào.
– Nhưng tôi cảm thấy lo, tự nhiên tôi mong đây chỉ là chuyện giả vờ.
– Bà đã biết tin gì hay sao?
– Cẩn thận đấy, John.
Người lái xe đào đất đưa cho tôi một cây đục, tôi có thể thọc nó vào giữa hai lớp gỗ và cậy nắp quan tài. Tôi trượt theo đất ướt xuống mộ. Đôi chân tôi từ từ chìm vào lớp bùn ướt, rồi tôi cúi người xuống, tìm ổ khóa giữa nắp và thành quan tài. Tôi chưa muốn dùng cây đục ngay. Quan tài bê bết đất, rất khó tìm ổ khóa. Tôi quyết định dùng dụng cụ.
– Chúng tôi giúp được gì cho ngài thanh tra không?
– Có, nhưng chỉ cần một người thôi. – Tôi gọi về phía hai cảnh sát viên.
– Vâng. Một cảnh sát viên tay cầm mai, trèo xuống dưới mộ với tôi. Trước mặt hai chúng tôi bây giờ là chiếc quan tài, phía trên cao bây giờ trông những lùm cây càng u ám hơn. Một không khí buồn rầu trĩu nặng tưởng như không thể có giữa ban ngày. Chúng tôi phối hợp nhịp nhàng, nghe thấy tiếng rắc, rồi tiếng gãy. Hai cái khóa quan tài hầu như đồng thời bật lên.
– Có giở nắp lên không, thưa ông?
– Để tôi làm.
– Vâng.
Một cảm giác lạ đột ngột ùa tới khi hai tay tôi chạm vào nắp quan tài. Nội tâm tôi căng thẳng. Tôi vào thế cảnh giác tối đa. Rồi tôi giở nắp quan tài lên, đẩy nó sang bên, nhìn vào trong. Tất cả những người có mặt đã dồn đến đứng xúm xít quanh bờ huyệt, cả họ cũng muốn nhìn xem ai nằm bên trong. Đó là những mảnh vụn, những mảnh đá vụn. Tôi lắc đầu. Một loạt câu hỏi nổ bùng ra trong đầu óc như những tia chớp, rồi tôi nhìn kỹ hơn. Không, không phải những mảnh đá bình thường. Đây là những mảnh vụn của một con người đã bị hóa đá.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.