Con Trai Của Bình Minh

CHƯƠNG 12



Fear-Gleidhidh,” Grace lẩm bẩm với chính mình, di chuyển từ ngữ khắp màn hình và cố gắng hiểu nghĩa cả câu. Fear-gleidhidh nghĩa là “người bảo vệ”; nàng đã đủ quen thuộc với từ đó để nhận ra nó ngay lập tức. Trong những tháng qua nàng đã dành quá nhiều thời gian với những tài liệu tiếng Xen-tơ trời đánh thánh vật này đến nỗi nàng học cách nhận ra rất nhiều danh từ, mặc dù đôi khi cách đánh vần làm nàng lạc lối. Thậm chí cả với sự giúp đỡ của một bộ băng giá hai trăm đô la hứa hẹn sẽ dạy nàng cách phát âm tiếng Xen-tơ, và nàng đã mua chúng với niềm hi vọng ngốc nghếch là nó sẽ giúp nàng hiểu được cú pháp mơ hồ của thời kì Trung cổ, thì nàng vẫn phải mất hàng giờ mới dịch được vài câu.
Nhưng cái cunhachd thì có nghĩa quái quỉ gì chứ? Di ngón tay xuống trang giấy trong từ điển Xen-tơ – Anh ngữ, nàng không thể tìm được một từ như thế. Nó có phải là cunbhalach, nghĩa là “ổn định,” hay cunbhalachd nghĩa là “xét đoán” không? Không, không thể là cái đầu tiên, vì nếu nàng đọc đúng thì câu đó sẽ là “Người bảo vệ có Cunhachd.” Chữ cái viết hoa không nhất thiết phải mang ý nghĩa nào cả, bởi vì câu đó chắc chắn không thể nào mang nghĩa “Người bảo vệ có Sự ổn định.”
“Người bảo vệ có Sự xét đoán”? Grace sắp xếp lại các từ ngữ trên màn hình một lần nữa, tự hỏi liệu nàng có đọc nhầm động từ hay làm lộn cú pháp lần thứ một triệu rồi không. Không có các lớp học, nàng tốn nhiều thời gian để học tiếng Xen-tơ hơn bất kì ngôn ngữ nào nàng từng nghiên cứu. Mặc dù vậy nàng đang khá hơn.
Nàng kiểm tra lại tài liệu, cúi gần và dùng kính lúp để nghiên cứu những chữ cái bị mờ. Không, động từ chắc chắn là “có”. Cunhachd là một chướng ngại vật. Nàng chuyển sự chú ý sang nó, và chú ý thấy chữ n hơi bị lem. Có thể nào nó là chữ m không? Trở lại cuốn từ điển, nàng tra từ cumhachd, và sự đắc thắng trào lên. Cumhachd nghĩa là “quyền năng.”
“Người bảo vệ có Quyền năng.” Nàng thọc tay vào tóc, nhấc lên một lọn dài và để nó trượt qua kẽ ngón tay. Từ đồng nghĩa với quyền năng là gì? Quyền lực, quyền, sức mạnh, ý chí. Tất cả những cái đó đều khớp, tuy nhiên mỗi cái đều mang ý nghĩa hơi khác một chút. Nếu nàng đã dịch đúng câu này, thì quyền năng mà Người bảo vệ có là gì? Quyền năng đối với Kho báu, hoàn toàn kiểm soát được nó chăng? Tiền là quyền năng, giống như người xưa vẫn nói, nhưng biên niên sử cũng nói rằng Kho báu “to lớn hơn vàng.” Vậy thì nó có nghĩa là mặc dù rất có thể có một kho báu liên quan đến tiền bạc, đó không phải là Kho báu được cung kính nhắc đến ở đây.
Vậy thì Kho báu đó là gì, và kiểu quyền năng nào Người bảo vệ có từ đó? Nếu Niall Đen là người sở hữu một quyền năng tối thượng như thế, tại sao chàng lại phí đời làm một kẻ phiến loạn ở vùng Cao nguyên hẻo lánh phía tây? Tại sao một Hiệp sĩ thánh chiến, được coi là một người đàn ông mộ đạo, lại trở thành một người có dục vọng cũng khét tiếng như tài năng dùng gươm của chàng?
Nàng vẫn hoàn toàn mù tịt sau hơn hai giờ làm việc nữa. Kho báu hoặc là “một sự hiểu biết ý Chúa,” cái gì đó chắc chắn là thuộc về tín ngưỡng, hoặc là “bằng chứng về ý Chúa,” một thứ cũng kém sáng tỏ tương đương cái trước. Nó sử hữu sức mạnh để “lật nhào vua chúa và các vương quốc trước nó,” và “chế ngự quỷ dữ.”
Nàng đọc lớn những từ trên màn hình. “Người bảo vệ sẽ vượt-hay du hành, hay bước qua những ranh giới của thời gian, hay mùa-giống như cách Chúa Jesus Christ chúng ta, để thực hiện cuộc chiến của Người chống lại Quỷ dữ.” Nghe giống như là Người bảo vệ sẽ tiếp tục cuộc chiến của Chúa Jesus với Satan, một việc khó mà phiên dịch thành bất kì loại sức mạnh to lớn nào, mà là một nỗ lực để sống cuộc đời đáng trọng, không tì vết – bản thân việc đó cũng đủ khó khăn, và từ những gì nàng đã đọc về Niall Đen thì chàng thậm chí còn không thèm thử.
Vậy Kho báu là cái gì, và Quyền năng là gì? Điều huyền bí của tôn giáo chăng? Rõ ràng Parrish tin rằng vàng là thật; ngoài mặt thì mục tiêu ấy là đủ, nhưng nàng vẫn cứ trở lại với Kho báu lớn hơn cả vàng, và tự hỏi có phải còn thứ khác ngoài sự giàu có dính tới nó hay không. Nếu thế thì là gì? Không một Hiệp sĩ thánh chiến nào từng phản bội bí mật của Kho báu, mặc dù vài người trong số họ đã bị tra tấn rất tàn khốc. Có lẽ phần lớn bọn họ đều không biết gì để mà nói, nhưng chắc chắn Đại Thủ Lĩnh biết, và ông ta đã mang xuống mồ điều bí mật chưa được tiết lộ kia. Thay vào đó ông ta đã nguyền rủa Vua nước Pháp và Giáo hoàng, và trong vòng một năm sau cả Philip lẫn Clement đều đã chết, khiến mọi người tin vào điều dị đoan của thời đó là các Hiệp sĩ thánh chiến cùng hội cùng thuyền với quỷ dữ.
Dần dần Grace diễn giải câu từ lủng củng. “Người bảo vệ sẽ bước trên thời gian để chế ngự quỷ dữ.” Đôi khi đặt những từ ngữ trong ngữ cảnh hiện đại giúp nàng nhìn xuyên qua những thế kỉ xa xôi để tìm được cách dịch hợp lý nhất. Nàng thử lại lần nữa. “Người bảo vệ sẽ vượt qua mùa trong năm chống lại quỷ dữ.” Mùa nào? Những năm tiếp sau sự huỷ diệt của Hội chăng? Có phải Người bảo vệ được lệnh chiến đấu với Philip và Clement thay mặt cho Hội không? Nếu thế, thay vào đó Niall Đen đã giao tranh ở trên giường và trong những ngọn núi và trảng cỏ của Scotland.
Nó không có nghĩa gì cả, và nàng quá mệt để tiếp tục. Grace lưu tệp tin lại, rồi tắt máy tính. Trong vòng sáu tháng nàng đã dịch tất cả những câu chuyện về các cuộc chiến đấu và chinh phục của Niall Đen, phần bằng tiếng Latinh, tiếng Pháp và tiếng Anh, nhưng những phần bằng tiếng Xen-tơ vẫn khiến nàng thúc thủ. Nghĩ tới đó, một vài phần bằng tiếng Latinh không hợp lý gì cả, bởi vì vì lý do nào đó một thực đơn ăn kiêng lại dính vào. Việc cẩn thận dùng một lượng muối nhất định thì có liên quan gì tới lịch sử của các Hiệp sĩ thánh chiến? Và tại sao lượng nước họ uống lại dựa trên cân nặng của họ? Nhưng nó vẫn ở đó, ngay trung tâm một đoạn văn dài về các nhiệm vụ của Người bảo vệ: Victus Rationem Temporis, cách ăn kiêng vì thời gian, hay cho thời gian.
Nàng dừng lại giữa lúc đang cởi áo khoác. Thời gian. Thời gian thì liên quan gì đến chuyện này, đến nỗi nó nảy ra cả trong bản tiếng Latinh và tiếng Xen-tơ? Nghĩ tới việc đó, trong những tài liệu tiếng Pháp cũng có cái gì tương tự như thế. Nàng nhanh chóng trở lại chiếc bàn ọp ẹp nàng dùng như bàn làm việc, lật dở các tài liệu tới lúc nàng tìm được trang cần tìm. “Chàng sẽ không bị trói buộc bởi những sợi xích của thời gian.”
Bước đi trên thời gian. Không bị trói buộc bởi những sợi xích của thời gian. Ăn kiêng cho thời gian. Có một sợi chỉ chung ở đây, nhưng nàng không thể hiểu được nó. Tất cả chúng gắn với thời gian, nhưng đó là phép ẩn dụ, hay là một thứ dựa trên khái niệm? Và thời gian thì có liên quan gì tới các Hiệp sĩ thánh chiến?
Chà, đó không phải là một điều bí ẩn mà nàng có thể giải thích được bằng cách lo lắng về nó; nàng sẽ phải hoàn thành bản dịch của mình, một dự án mà giờ đây nàng đã thấy được đoạn kết. Ba tuần nữa, có lẽ là một tháng, và nàng sẽ hoàn thiện phần bằng tiếng Xen-tơ. Tiếng Xen-tơ khó đến nỗi nàng để lại nó sau cùng và nàng không thể chắc chắn về bản dịch của mình, nhưng nàng đã làm tốt nhất có thể. Còn nó có nói cho nàng biết điều gì ngoài thứ được cho là vị trí kho vàng của các Hiệp sĩ thánh chiến hay không thì còn phải xem đã.
Sau khi cởi quần áo lên giường, nàng đặt chiếc máy tính và tất cả giấy tờ của mình gọn gàng trong cặp, và để nó trong tầm với dễ dàng bên cạnh giường. Nếu nàng đột ngột phải đi, nàng không muốn phí thời gian góp nhặt mọi thứ lại với nhau.
Nàng tắt đèn và nằm trên chiếc giường hẹp, lồi lõm, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ xám xịt vào làn tuyết rơi nhè nhẹ. Ba mùa đã qua, mùa hè nhường chỗ cho mùa thu, màu sắc mờ dần thành những vệt đơn sắc của mùa đông. Đã tám tháng kể từ khi cuộc đời cũ của nàng chấm hết. Nàng đã sống sót, nhưng nàng không thể nói rằng mình còn sống.
Trái tim nàng trống trải và ảm đạm như mùa đông. Sự căm thù dành cho Parrish đã giữ nguyên nỗi đau, không bị chạm đến và không giảm bớt. Nàng biết nó ở đó, biết rằng ngày nào đó nàng sẽ mất kiểm soát với nó, nhưng nàng sẽ trả cái giá ấy khi đến lúc.
Nàng cầu nguyện cho Harmony mỗi ngày. Nàng đã lấy được hộ chiếu dưới tên Louisa Croley, trong trường hợp nàng phải vội vã ra khỏi đất nước. Sau khi có cái đó, nàng đã để lại Louisa và lấy một cái tên khác, cũng như một nghề nghiệp khác. Marjorie Flynn tồn tại trong hai tháng, rồi nàng lại tiếp và trở thành Paulette Bottoms. Một nghề lao động phổ thông khác, một căn phòng rẻ tiền khác. Khu vực Minneapolis-St.Paul rộng lớn đủ để nàng lẩn mình trong đó, không bao giờ gặp người quen cũ của nàng, vì thế nàng không gặp khó khăn gì trong việc đổi tên. Nàng không kết bạn, theo lời khuyên của Harmony. Nàng dành dụm từng đồng có thể và đã tiết kiệm được gần bốn ngàn đô, tính cả phần tiền còn dư sau khi nàng đã mua chiếc xe tải. Nàng sẽ không bao giờ để mình bị bất lực như sau vụ án mạng nữa.
Không có nghĩa là nàng còn có thể như thế nữa, cho dù không có tiền bạc hay phương tiện di chuyển. Một phần trong sự bất lực của nàng là việc hoàn toàn thiếu hiểu biết với cuộc sống trên đường phố, và nàng không còn ngây thơ như vậy nữa. Khuôn mặt nàng lạnh lùng, một chiếc mặt nạ vô hồn, và nàng bước đi với sự cẩn trọng, sự sẵn sàng, nói cho những kẻ săn người trên đường phố biết rằng nàng không phải một con mồi dễ dàng. Vào ban đêm, nàng một mình tập lại những đòn Matty đã dạy nàng, và nàng cẩn thận sắp xếp căn phòng nhỏ buồn tẻ của nàng thành nơi cung cấp sự bảo vệ và cơ hội tối đa cho chính mình.
Nàng không bao giờ không mang vũ khí. Nàng đã mua một khẩu súng lục rẻ tiền và mang nó theo mình, nhưng nàng cũng có một con dao, dắt bên dưới áo sơ mi. Nàng có chiếc tua vít mài nhọn trong ủng, ghim cài tóc trong cổ tay áo, một chiếc bút chì trong túi quần. (trời, giống nữ ram-bô quá) Tìm một nơi để luyện tập với khẩu súng không tồn tại của nàng không dễ dàng gì; nàng phải lái xe ra xa thành phố, nhưng nàng đã làm được, nếu không phải là tài năng thực sự thì ít nhất cũng đạt đến trình độ thuần thục và quen thuộc với vũ khí, để có thể tự tin mang theo nó.
Nàng không nghĩ có ai trong cuộc đời trước đây của nàng sẽ nhận ra nàng bây giờ, thậm chí cả khi nàng mặt đối mặt với người bạn ấy. Mái tóc dài, dày của nàng chỉ được thả xuống trong căn phòng riêng tư; nàng mang một bộ tóc giả rẻ tiền màu nâu nhạt đi làm, và vào những lúc khác nàng búi tóc thành một búi trên đỉnh đầu và đội mũ lưỡi trai lên. Nàng gầy nhẳng, nặng không tới một trăm pound (45kg), hai gò má nhô cao hai bên má hóp lại. Nàng đã ngừng giảm cân thành công, nhưng nàng vẫn phải nỗ lực mới ăn được, và nàng không ngừng luyện tập để giữ sức khoẻ. Nàng mặc quần bò chật và đi giày cứng màu đen, và một chiếc áo khoác viền lông để chống lại mùa đông lạnh giá ở Minneapolis. Theo lời khuyên xuất sắc của Harmony nàng đã mua ít mỹ phẩm rẻ tiền và học cách dùng mascara, chổi phấn, và son môi để trông nàng không giống như vừa mới bước ra từ tu viện nữa.
Một vài người đàn ông đã tiếp cận nàng, nhưng khuôn mặt trống rỗng, đông cứng và tiếng “Không” dứt khoát là đủ để xua đuổi họ. Nàng thậm chí còn không hình dung được việc đi uống cà phê với một người đàn ông. Chỉ trong mơ bản năng giới tính của nàng mới thức dậy, và nàng không thể kiểm soát được nó. Niall Đen quá thực trong những suy nghĩ của nàng, chiếm trọn tâm trí nàng quá nhiều giờ ban ngày đến nỗi nàng không thể gạt bỏ chàng ra khỏi tiềm thức. Chàng ở đó, sống động trong những giấc mơ của nàng, chiến đấu và yêu đương, u ám và đẹp đẽ và đàn ông đến phát sợ, và nguy hiểm đến nỗi đôi khi nàng rùng mình sợ hãi mà thức dậy. Nàng chưa bao giờ mơ thấy chàng đe doạ nàng, nhưng Niall Đen của tiềm thức nàng không phải là một người đàn ông để người khác vượt mặt mà không bị trừng phạt.
Nàng cảm thấy sống động, một cách đau đớn, khi mơ về chàng. Nàng không thể giữ lại sự trống rỗng đã bảo vệ nàng lúc tỉnh; nàng đau đớn, khát khao và run rẩy trước những đụng chạm của chàng. Nàng chỉ mơ về hai lần làm tình thực sự khác, nhưng cả hai lần đều choáng váng.
Thật sai lầm khi nhớ lại những giấc mơ đó lúc này, khi nàng đang cố đi ngủ. Nàng biết thế, và không ngừng trở mình. Chẳng khác nào nàng mời gọi sự tái diễn. Nhưng những giấc mơ ân ái được chào đón hơn những giấc mơ về chiến trận, một việc không ngừng diễn ra trong suốt bốn tháng vừa qua. Chàng đâm và xuyên qua giấc ngủ của nàng, lội qua những vũng máu và cơ thể người chết, hình ảnh đó mạnh mẽ đến nỗi nàng có thể nghe thấy tiếng leng keng của gươm chạm gươm, nhìn thấy đàn ông trượt và vấp ngã, nghe thấy họ gằn lên cố gắng, nghe thấy những tiếng thét đau đớn và nhìn khuôn mặt họ méo mó trong những cơn đau trước khi chết. Được lựa chọn giữa cuộc thảm sát và sex, chắc chắn nàng sẽ chọn sex, nếu không phải vì mặc cảm tội lỗi ám ảnh nàng sau đó.
Sau một giờ nằm thao thức nàng thở dài, đành cam chịu một đêm thức trắng. Nàng mệt mỏi nhưng bộ óc của nàng từ chối ngừng làm việc, cứ trở đi trở lại những tài liệu, nghĩ về Niall, cố lắp ghép lại một vài phương cách trả thù Parrish. Nàng đã hi vọng tìm được gì đó trong tập tài liệu để dùng chống lại hắn, nhưng nếu nàng suy nghĩ tử tế thì nàng chắc đã nhận ra rằng chẳng có điều gì có thể đổ tội cho hắn trong những tài liệu gần bảy trăm năm tuổi kia. Những tài liệu đó thu hút nàng mạnh tới mức độ nàng không thể nào nhìn qua được sự ám ảnh của chính mình. Không, nếu nàng có thể chống lại Parrish bằng cách nào đó thì đó sẽ phải là một cái gì trực diện hơn, giống như là tự mình giết chết hắn vậy.
Nàng ra khỏi giường và bật đèn lên, đôi mắt nhức nhối, đôi môi mềm mại mím thành một đường thẳng. Trong suốt tám tháng qua nàng đã học cách chiến đấu bảo vệ bản thân, có khi còn giết người để phòng vệ, nhưng nàng không biết liệu nàng có thể giết người một cách máu lạnh được không. Nàng đi đi lại lại, ôm chặt lấy mình để xua đi cái lạnh ban đêm. Liệu nàng có thể giết Parrish được không? Nàng có thể bước lên, dí khẩu súng vào đầu hắn và bóp cò được không?
Nàng nhắm mắt lại, nhưng hình ảnh tới trong đầu nàng không phải là chính nàng bắn chết Parrish, mà là vẻ hoàn toàn dửng dưng, gần như chán nản, khi hắn bắn Ford và Bryant. Nàng nhìn thấy khuôn mặt đột nhiên trống rỗng của Ford, cơ thể anh trở nên mềm nhũn khi đổ rầm xuống.
Hàm răng nàng nghiến chặt, bàn tay cuộn thành nắm đấm. Ồ, có chứ, nàng có thể giết Parrish.
Vậy thì sao nàng không chỉ việc làm thế? Nàng đã lái xe qua nhà hắn vài lần khi nàng còn đang làm việc cho dịch vụ lau dọn; nàng chưa từng nhìn thấy hắn hay xe ô tô của hắn, nhưng mà nàng cũng không mong chờ việc đó. Nếu hắn ở nhà, xe hắn sẽ ở trong ga ra, và Parrish không phải loại đàn ông thích làm vườn. Nàng chẳng biết gì về lịch làm việc của hắn, đã không tiêu nhiều ngày để theo dõi nhà hắn hòng theo đuôi hắn. Nàng đã thực hiện những bước để bảo vệ bản thân, nhưng trên thực tế nàng đã chẳng làm gì để báo thù cho gia đình. Thay vào đó nàng lại tập trung vào những tài liệu, tự thuyết phục mình rằng sẽ có gì đó hữu ích trong đó, lừa mị bản thân để hầu như không còn chú ý thời gian và đánh mất mình trong những bản dịch.
Nhưng tự lừa dối bản thân đến đây là hết. Nàng cần làm gì đó với Parrish hoặc là lặng lẽ bỏ đi và dành phần còn lại của đời mình than khóc và trốn tránh.
Được rồi. Nàng sẽ làm. Nàng sẽ theo dõi Parrish, và giết hắn.
Grace cảm thấy sức nặng của quyết tâm đè lên nàng. Nàng không có những tố chất của kẻ sát nhân, và nàng biết như thế. Mặt khác, nàng không hề tìm kiếm bất kì điều gì như thế này; Parrish đã bắt đầu tất cả. Sách Cựu ước đã nói, “Không được giết người,” nhưng nó cũng nói, “Một mắt trả một mắt.” Có lẽ nàng đang duy lý hoá, nhưng nàng chọn ý nghĩa là một khi đã xảy ra vụ sát nhân, xã hội hay gia đình người bị nạn có quyền kết thúc sự tồn tại của kẻ giết người.
Thế nào cũng được. Ngày mai nàng sẽ bắt đầu theo dõi hắn như một con thú.
Tuy nhiên, buổi sáng tới cùng với nhận thức mới: nàng phải làm việc. Nàng không thể dành cả ngày ngồi một chỗ bí mật và theo dõi nhà Parrish. Chiếc xe tải cũ kĩ của nàng sẽ lộ diện ngay, và trong trường hợp nào nó cũng dễ bị chú ý. Thực sự theo dõi, đi theo hắn và chộp lấy cơ hội đơn giản là không thể được. Nàng phải biết trước hắn sẽ ở đâu, và ở đó đợi hắn.
Theo tất cả những gì nàng biết, thậm chí hắn còn không có trong thành phố. Suốt mùa đông hắn thường đi nghỉ dài hạn ở những vùng khí hậu ấm áp hơn, mỗi lần đi hết một tháng.
Chỉ có một cách để tìm ra. Suốt giờ nghỉ trưa của nàng trong một công ty dịch vụ lau dọn khác, nàng dừng lại ở cửa hàng thức ăn nhanh và dùng một cột điện thoại trả tiền để gọi về Tổ chức.
Những ngón tay của nàng di chuyển không ngập ngừng, ấn những con số quen thuộc. Đến tận tiếng chuông đầu tiên trong tai nàng nàng mới nhận ra mình đang làm gì, và trái tim nàng đập cuồng loạn trong lồng ngực. Trước khi nàng có thể dập máy xuống giọng nói đều đều, không tình cảm của người tiếp tân đã trả lời. “Tổ chức Amaranthine Potere. Tôi chuyển cuộc gọi cho ai ạ?”
Grace nuốt nước bọt. “Ông Sawyer có ở văn phòng hôm nay không ạ?” “Xin chờ một chút.”
“Không, đừng –” nàng bắt đầu nói, nhưng đường dây đã được chuyển và một tiếng chuông khác vang lên. Nàng hít một hơi thật sâu và chuẩn bị hỏi lại câu hỏi với thư kí của Parrish; nàng sẽ cần phải giả giọng một chút, vì Annalise đã từng khá quen với
“Parrish Sawyer.” Giọng điệu trôi chảy, có văn hoá của hắn làm nàng choáng váng, hoảng loạn. Nàng chết cứng tại chỗ, trí óc trống rỗng khi thực sự nghe lại giọng nói đáng hận ấy.
“Xin chào?” hắn nói, gắt hơn… Grace hổn hển.
“Đây có phải là một cuộc gọi khiêu dâm không?” hắn hỏi, nghe vừa buồn chán lại vừa bực mình. “Tôi thực sự không –” Rồi hắn dừng phắt, và nàng có thể nghe thấy tiếng thở của chính hắn trong vài giây dài vô tận. “Gracie,” hắn nói, ngâm nga tên nàng. “Thật tuỵêt vì cô đã gọi.”
Nàng cảm thấy bị bao bọc trong đá, một sự lạnh lẽo chẳng liên quan gì tới thời tiết mười lăm độ bên ngoài. Nàng không thể nói, không thể cử động, chỉ có thể nắm chặt ống nghe bằng những ngón tay trắng bệch không còn chút máu.
“Cô không nói chuyện được sao, bạn thân mến? Tôi muốn nói chuyện với cô, giải thích sự hiểu lầm kinh khủng này. Cô biết tôi sẽ không để bất kì chuyện gì xảy ra với cô mà. Luôn luôn có gì đó giữa chúng ta, nhưng tôi đã không nhận ra nó mạnh mẽ nhường nào cho tới tận lúc cô bỏ đi. Hãy để tôi giúp cô, bạn yêu quí. Tôi sẽ giải quyết mọi chuyện.”
Hắn là kẻ nói dối tuyệt hay, nàng lờ mờ nghĩ. Giọng nói ấm áp, quyến rũ của hắn rỉ rả sự cảm thông, sự tin cậy; nếu nàng không nhìn thấy hắn giết người, chắc nàng sẽ tin từng lời từ cái miệng ấy tuôn ra.
“Gracie,” hắn nói, phỉnh phờ, thì thầm. “Nói cho tôi biết phải gặp em ở đâu. Tôi sẽ đưa em đi tới nơi bí mật nào đó, chỉ hai chúng ta thôi. Em sẽ không phải lo lắng gì cả.”
Hắn không nói dối. Nàng đã nghe thấy dục vọng trong giọng hắn. Sợ hãi, muốn bệnh, cuối cùng nàng cũng dập máy và mò mẫm trở lại xe tải. Nàng cảm thấy bẩn thỉu, như thể hắn đã thực sự chạm vào nàng.
Lạy Chúa, sao mà hắn cả gan, làm sao hắn có thể nghĩ là nàng lại để hắn chạm vào nàng? Nhưng không có từ để nào ở đây cả, nàng nhận ra. Nàng khởi động xe tải và cẩn thận lái đi, không làm bất kì việc gì gây chú ý, nhưng trái tim nàng đập nhanh tới nỗi nàng muốn xỉu. Hắn không biết chắc nàng đã trông thấy hắn đêm đó, vì thế hắn phòng trường hợp nàng không thấy và cố thuyết phục nàng tới với hắn. Nàng không bao giờ có bất kì nghi ngờ nào về việc hắn sẽ giết nàng; giờ thì nàng biết rằng hắn sẽ cưỡng đoạt nàng trước.
Những bông tuyết mỏng manh trôi xuống kính chắn gió của nàng, lúc đầu chỉ có vài bông, lúc nàng tới căn nhà tiếp theo trong danh sách của nàng thì tuyết đã rơi đủ để phủ đầy nắp xe tải. Đây là một trong những ngôi nhà nàng ít muốn tới dọn nhất; Bà Eriksson lúc nào cũng ở đó, cẩn thận xem xét từng cử động của Grace mặc dù nàng mong bà ta đi xem ti vi hay là gì đó. Nhưng bà ta không chuyện phiếm, như vài người vẫn làm, và hôm nay Grace biết ơn sự im lặng ấy. Nàng dọn dẹp trong mơ màng, đầu óc quay cuồng trong khi cẩn thận lau sàn và phủi và hút bụi.
Bà Eriksson vứt một đống quần áo trên sô pha. “Câu lạc bộ chơi bài Brít của tôi sẽ tới đây tối nay và tôi phải nướng bánh; sẽ rất có ích nếu cô gập chỗ quần áo này cho tôi trong lúc tôi bật lò nướng.”
Người phụ nữ này không ngừng cố gắng bắt người lau dọn làm thêm nhiều việc phụ, không được trả tiền. Grace giả vờ giơ tay lên nhìn đồng hồ. “Tôi xin lỗi,” nàng lịch sự nói. “Tôi phải tới một căn nhà khác trong vòng nửa giờ nữa. Tôi chỉ có đủ thời gian để lau xong sàn nhà cho bà thôi.” Đó là một lời nói dối; hôm nay là một ngày nhẹ nhàng với nàng, và nàng chỉ còn một ngôi nhà nữa phải dọn, vào lúc bốn giờ. Nhưng Bà Eriksson cũng có thể đã nói dối về câu lạc bộ bài Brít, và có khi cả về cái bánh nữa.
“Cô thật là không chịu hợp tác,” người phụ nữ gay gắt nói. “Cô đã từng từ chối đề nghị của tôi, và tôi đang nghĩ về việc thay hãng dịch vụ. Nếu thái độ của cô không thay đổi, tôi sẽ phải nói với cấp trên của cô.”
“Tôi chắc chắn chị ấy sẽ rất vui được sắp xếp dịch vụ giặt đồ cho bà.”
“Tại sao tôi phải dùng dịch vụ đó của cô ta, trong khi cô quá là đáng thất vọng trong mọi dịch vụ khác?”
“Chị ấy sẽ chỉ định người khác, nếu bà thích.” Grace không nhìn lên, nhưng nhét tấm giẻ lau chùi của nàng vào trong chiếc túi vải bạt nàng dùng để mang các dụng cụ lau chùi, rồi không nói một lời cắm phích máy hút bụi và bật nó lên. Tiếng động nhấn chìm mọi lời bà Eriksson nói, và Grace máy móc đẩy tới đẩy lui chiếc máy ngang qua tấm thảm. Người chủ hãng dịch vụ có số của bà Eriksson; chị ta có thể chỉ định người khác tới dọn nhà, nhưng bà Eriksson vẫn sẽ không sai người ta gấp quần áo hay rửa đĩa được trừ khi bà ta có trả tiền.
Bà Eriksson ngồi xuống ghế sô pha và bắt đầu gấp quần áo, vừa gấp vừa lườm, nhưng đầu óc Grace lập tức trở lại với Parrish.
Mọi thứ bên trong nàng đều thu lại vì khiếp sợ. Nàng thậm chí không thể tưởng tượng ra được nỗi kinh hoàng khi ở trong vòng tay hắn. Hắn sẽ phải giết nàng, bởi vì nàng sẽ phát điên nếu hắn chạm vào nàng, trí óc nàng sẽ đóng lại hoàn toàn.
Làm sao hắn biết được? Làm sao hắn đoán được là nàng trên điện thoại? Loại bản năng hoang dã nào đã giúp hắn phát hiện ra nàng quá nhanh chóng và chính xác như thế? Quan trọng hơn là hắn có ngay lập tức gọi điện cho cảnh sát Minneapolis và bảo với họ nàng đang ở khu vực này hay không?
 
Parrish đúng là đã gọi điện ngay lập tức, nhưng cho Conrad chứ không phải sở cảnh sát. “Cô St. John vừa mới gọi tới văn phòng tôi,” hắn nói trơn tru, giọng hài lòng và vui sướng. “Không nghi ngờ gì nữa, cô ta chỉ muốn biết tôi có đó không, và cô ta trông đợi Annalise sẽ trả lời điện thoại. Liên lạc với nguồn của chúng ta ở công ty điện thoại ngay lập tức và tìm xem cuộc gọi đó tới từ đâu.” Hắn liếc vào chiếc Rolex. “Cuộc gọi tới chỗ tôi lúc mười hai giờ hai mươi ba.”
Hắn gác máy mà không chờ Conrad trả lời, nếu hắn ta có định trả lời. Parrish dựa ra sau trong chiếc ghế da to bự, thở mạnh khi sự háo hức như nước trào qua người hắn. Grace! Sau sáu tháng ròng rã đáng nguyền rủa, suốt thời gian ấy cô ta chỉ đơn giản là biến mất khỏi Chicago, ai mà nghĩ được tự cô ta sẽ liên lạc chứ?
Conrad chắc chắn đã tìm được nơi cô ta làm việc ở Chicago, trong một đống rác của Ý nơi hầu hết người làm được trả lương ngoài sổ. Người phụ nữ gầy hơn Grace nhưng đôi khi cô ta mang theo một chiếc cặp nhỏ, giữ rịt bên mình, và có một mái tóc vàng hoe, xoăn xoăn. Mái tóc vàng xoăn cũng được báo cáo liên quan tới một vụ ẩu đả kì lạ bên ngoài Thư viện Newberry. Newberry tình cờ lại là một trong những thư viện nghiên cứu hàng đầu nước Mỹ, một điều mà Grace chắc chắn biết, và một nguồn tư liệu cô ta sẽ cần. Từ đó Parrish biết rằng cô ta đang làm việc với tập tài liệu, và Grace rất giỏi trong công việc của mình. Cô ta chắc đã hiểu tại sao hắn muốn tập tài liệu rồi.
Nhưng rồi cô ta lại biến mất một lần nữa, đơn giản là không quay lại nhà hàng, và không ai ở đó biết nơi cô ta sống. Conrad đã kiểm tra các hãng xe buýt, tàu hoả, hãng hàng không, nhưng không ai nhận ra một người phụ nữ tóc vàng xoăn mang một chiếc máy tính theo cả. Cô ta đã biến mất, và cả Conrad cũng không thể lần theo dấu cô ta.
Giờ cô ta đang ở đâu? Minneapolis hay trốn ở nơi thâm sơn nào đó? Tại sao cô ta lại gọi? Cô ta đã không nói gì nhưng hắn gần như chắc chắn rằng cô ta chính là người gọi, chỉ từ cái tiếng hổn hển khe khẽ phản trắc kia.
Hắn sẽ sớm biết, nếu không phải là vị trí hiện tại của cô ta thì ít nhất cũng là nơi cô ta đã ở khi thực hiện cuộc gọi. Cảnh sát phải có lệnh toà án để truy cập vào loại thông tin đó trong công ty điện thoại, nhưng hắn không hề bị cái quy định lố bịch của họ cản trở. Ít nhất Conrad cũng biết chỗ để bắt đầu tìm kiếm cô ta, và giờ thì lòng kiêu hãnh của hắn đang bị trêu ngươi; hắn vẫn còn bực tức vì đã để một kẻ vô danh tiểu tốt bé nhỏ như Grace St. John trốn thoát.
Tại sao cô ta lại muốn biết hắn có ở trong văn phòng hay không? Hắn khẽ cười với mình. Chẳng lẽ Grace bé nhỏ đang toan tính trả thù ư? Cô ta nghĩ cô ta sẽ làm được gì, bước thẳng vào phòng hắn và chĩa súng vào mặt hắn? Cô ta biết hệ thống an ninh của toà nhà, biết rằng cô ta sẽ không qua nổi sảnh.
Mặc dù vậy có lẽ hắn sẽ để cô ta qua, kéo cô ta lại với hắn. Hắn có thể dễ dàng áp đảo cô ta, rồi hắn sẽ có cô ta.
Hắn có thể làm việc khuya; toà nhà sẽ vắng tanh, và cô ta sẽ cảm thấy tự tin hơn. Hắn sẽ sắp đặt để bảo vệ nhìn đi chỗ khác một cách tiện lợi, nhưng không để cho nó quá dễ khiến cô ta nghi ngờ. Hắn sẽ đón lõng cô ta trong cửa, sẵn sàng tước bất kể loại vũ khí gì cô ta mang theo; hắn sẽ không cho cô ta cơ hội để mà bắn bừa.
Có lẽ hắn sẽ chờ một nơi thoải mái và thuận tiện hơn để chiếm cô ta. Có lẽ hắn sẽ chiếm cô ta ngay trên bàn, nằm dài ngang qua bề mặt kính. Cô ta sẽ vật lộn và đấm đá và hắn sẽ xoa dịu cô ta, thì thầm với cô ta, và hôn cái miệng gợi cảm kinh ngạc của cô ta. Cô ta sẽ cực kì mềm mại bên dưới hắn, cực kì bất lực.
Hắn đã hoàn toàn bị khuấy động, gần như thở gấp. Một lần sẽ không thể đủ, giờ thì hắn đã biết. Hắn muốn lên đỉnh trong miệng cô ta, và hắn muốn cảm nhận cực khoái của cô ta. Hắn muốn nghe tiếng cô ta thét tên hắn trong khoái lạc.
Rồi hắn sẽ giết cô ta. Thật đáng tiếc, nhưng phải làm.
 
“Cô ta gọi từ một cột điện thoại trả tiền ở cửa hàng McDonald tại Roseville,” Conrad báo cáo. “Không ai để ý đến cô ta, nhưng cú điện thoại khác ông nhận được trong khoảng thời gian đó đến từ một nguồn hợp pháp.”
“Roseville.” Parrish cân nhắc vị trí đó. Nó là một khu ngoại thành ở phía đông bắc trung tâm thành phố. “Anh có người theo dõi chỗ đó phòng trường hợp cô ta quay lại không?”
“Có.” Conrad đã quan tâm tới chi tiết đó ngay lập tức. Con người nói chung là những sinh vật của thói quen, dính vào cùng một lộ trình trong nhiều tháng, nhiều năm. Grace đã chứng tỏ khả năng khó đoán khác thường, nhưng hắn không thể mạo hiểm cho là cô ta sẽ ngay lập tức bỏ đi tới những nơi chẳng ai biết. Nếu cô ta vẫn còn trong thành phố, chẳng chóng thì chày cô ta cũng sẽ đi ngang qua cửa hàng McDonald đó – nếu không phải là hôm nay, thì là ngày mai. Nếu không phải ngày mai thì có thể là ngày này tuần sau. Hắn là một người nhẫn nại; hắn có thể chờ.
“Vậy là cô ta đã trở lại đây,” Parrish hồ hởi. “Gan góc đấy chứ hả? Tôi không bao giờ trông chờ chuyện đó. Anh có nghĩ cô ta sẽ cố giết tôi không?”
“Có,” Conrad bình thản nói. Mặt khác, không còn lý do hợp lý nào cho sự trở về Minneapolis của cô ta. Quá nhiều nguy hiểm.
“Có lẽ chúng ta sẽ để cho cô ta thử.” Parrish mỉm cười, đôi mắt hắn sáng lên vì dự đoán. “Để cô ta tới chỗ chúng ta, Conrad. Chúng ta sẽ sẵn sàng.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.