Công Viên Khủng Long Kỷ Jura

3. NGÔI NHÀ NGHỈ



 

ammond hỏi, giọng thân ái:

 

– Cà phê thêm nhé?

 

– Đủ rồi, cám ơn – Henry Wu từ chối, dựa vào ghế. – Tôi không thể ăn thêm cái gì được nữa.

 

Họ đang ngồi trong phòng ăn của ngôi nhà nghỉ của Hammond, nằm trong một góc công viên không xa phòng thí nghiệm mấy. Wu phải thừa nhận rằng ngôi nhà nghỉ Hammond xây riêng cho lão thật trang nhã, với những đường nét Nhật. Và buổi ăn tối tuyệt hảo cho dù là phòng ăn chưa có đầy đủ nhân viên phục vụ.

Nhưng có một điều gì đó nơi Hammond khiến Wu thấy khó chịu. Ông già này khác người trong một phong cách nào đấy… một sự khác biệt khó nhận ra. Trong suốt buổi ăn, Wu đã cố gắng khẳng định xem đó là điều gì. Một phần, là khuynh hướng ưa nói chuyện huyên thiên, lặp đi lặp lại những chuyện cũ. Một phần, đấy là tính dễ xúc cảm, vừa mới nổi giận đấy, thì kế đó đã tình cảm ủy mị. Nhưng tất cả những thứ đó có thể hiểu là xẩy ra cùng với tuổi già một cách đương nhiên. Hammond đã gần bảy mươi bảy rồi, còn gì.
Nhưng còn có điều khác. Sự lảng tránh bướng bỉnh. Sự khăng khăng theo đường lối của mình. Và, vào lúc cuối, một sự từ chối hoàn toàn việc đối phó với tình huống mà công viên đang phải đương đầu.

 

Wu đã bị choáng váng bởi bằng cứ hiển nhiên là lũ khủng long đang sinh san. sau khi Grant hỏi về DNA loài lưỡng cư, Wu đã có ý định đi ngay tới phòng thí nghiệm và kiểm tra các thứ lưu trữ ở computer. Bởi vì, nếu các khủng long đang sinh sản, mọi thứ về công viên phải xem xét lại – các phương pháp phát triển gen, phương pháp điều khiển gen, mọi thứ. Thậm chí chất lysine xúc tác cũng đáng nghi ngờ. Và nếu thật đúng là các con thú này sinh sản được thì chúng cũng có thể sống được trong thiên nhiên…

 

Henry Wu muốn kiểm tra các số liệu ngay lập tức. Nhưng Hammonđ đã bướng bỉnh nhất định bảo ông cùng đi ăn tối với lão.

 

Hammond đẩy ghế lui khỏi bàn ăn, bảo Wu:

 

– Nào, bây giờ, Wu, anh phải dành bụng cho món kem. Marita làm món kem gừng tuyệt diệu nhất.

 

– Được rồi. – Wu nhìn cô gái phục vụ xinh đẹp yên lặng làm việc. Anh nhìn theo cô ta đi ra khỏi phòng, và rồi liếc nhìn lên màn hình điều khiển từ xa gắn trên tường. Màn hình tối đen.

 

– Màn hình điều khiển của ông không hoạt động đấy.

 

– Thật ư? – Hammond ngước nhìn – Chắc là do giông bão. – Lão với tay đến điện thoại sau lưng – Tôi sẽ kiểm tra với John ở phòng điều khiển.

Wu có thể nghe lách tách tĩnh điện vang ra trong ống nghe. Hammond nhun vai, và đặt lại ống liên hợp lên giá:

 

– Liên lạc điện thoại trở ngại. Hoặc có lẽ Nedry vẫn đang dùng các đường dây để chuyển số liệu. Gã ấy có cả một lô lỗi kỹ thuật cần điều chỉnh cho xong trong tuần này. Nedry là một thiên tài trong việc này, nhưng chúng ta phải thúc hối gã, khi gần đến đích, để chắc rằng gã làm mọi thứ đúng.

 

– Có lẽ tôi nên đến phòng điều khiển để kiểm tra xem sao.

 

– Không, không. Chẳng có lý do gì. Nếu có vấn đề gì thì chúng ta đã được cho biết. À, đây rồi .

 

Marita trở lại phòng, với hai đĩa kem. Hammond nói:

 

– Anh phải ăn in ít thôi. Kem được làm với gừng, trồng phía đông của đảo. Đấy là một thói xấu của người già, kem. Nhưng vẫn…

 

Wu nhúng muỗng vào đĩa kem. Bên ngoài, chớp lóe lên và có tiếng sấm rền. Wu nói:

 

– Sấm nổ gần ghê. Tôi mong là giông bão không làm mấy đứa trẻ sợ.

 

– Đáng ra, tôi không nên nghĩ về điều này. – Hammond nếm món kem – Nhưng tôi không thể không lo sợ một vài chỗ.

 

Wu cảm thấy nhẹ nhõm trong thâm tâm. Có lẽ rốt cuộc rồi ông già cũng sắp đối diện với sự thật:

 

– Những nỗi sợ gì?

 

– Anh biết đấy. Công viên thật sự xây dựng cho trẻ em. Trẻ con trên thế giới thích khủng long, và trẻ con sắp sửa khoái chí – chỉ khoái chí thôi – với chỗ này. Những khuôn mặt nhỏ nhắn sẽ rạng rỡ vui thích khi cuối cùng được thấy những con thú kỳ diệu này. Nhưng tôi sợ… tôi sẽ không sống để thấy điều đã Wu à. Tôi có thể không sống đến lúc thấy niềm vui trên những khuôn mặt ấy.

 

Wu cau mày:

 

– Tôi nghĩ rằng còn có những vấn đề khác nữa.

 

– Nhưng không có vấn đề nào đè nặng trong trí tôi bằng vấn đề này. Tôi sẽ không sống để thấy những khuôn mặt khoái trá, sáng rực của chúng. Đây là chiến thắng của chúng ta, công viên này. Chúng ta đã thực hiện những gì chúng ta đề ra từ đầu. Và, anh nhớ là, ý định đầu tiên của chúng ta là dùng kỹ thuật di truyền mới này để kiếm tiền. Thật nhiều tiền.

 

Wu biết Hammond sắp sửa tuôn ra một trong những “bài nói” cũ rích của lão. Ông đưa tay lên:

 

– Tôi đã biết điều này, ông Hammond…

 

– Nếu anh sắp mở một công ty kỹ thuật sinh học, Wu, anh sẽ làm gì? Anh sẽ tạo nên những sản phẩm đề giúp loài người chống đau yến bệnh tật? Bỏ lỗi cho tôi. Đấy là một ý tướng chẳng mấy tốt đẹp. Một cách sử dung rất tầm thường một kỹ thuật mới.

 

Hammond buồn bã lắc đầu, nói tiếp:

 

– Tuy nhiên, anh nhớ là các công ty kỹ thuât di truyền nguyên thủy như Genetech và Cetus, đều bắt đầu với công việc chế tạo y dược. Những phương thuốc mới cho nhân loại. Mục đích cao thượng. Chẳng may, các phương thuốc đương đầu với mọi loại rào chắn. Nội việc thử nghiệm của FDA không thôi cũng đã mất từ năm đến tám năm, nếu anh gặp may. Thậm chí còn tệ hơn, có những sức ép ở thị trường. Giả dụ như anh chế được một phương thuốc thần kỳ chữa được ung thư hay bệnh tim – như Genetech đã làm. Giả dụ như anh muốn định giá một ngàn hay hai ngàn đô la một liều. Anh có thể tưởng đấy là quyền ưu tiên của anh. Bởi vì, anh phát minh ra thuốc, anh trả phí tổn để chế tạo và thử nghiệm, anh phải có được quyền định giá bao nhiêu tùy anh. Nhưng anh có thật sự cho rằng Nhà nước sẽ để cho anh làm việc ấy? Không đâu, Wu, họ sẽ không để anh làm. Ngưởi bệnh sẽ chẳng trả một ngàn đô la cho phương thuốc cần đến, họ sẽ chẳng biết ơn, họ sẽ nổi giận. Họ sẽ la toáng lên là bóc lột. Và thế là chuyện đó sẽ xảy ra. Giấy phép sản xuất sẽ bị từ chối. Đơn xin của anh sẽ bị trì hoãn. Một điều gì đó sẽ ép buộc anh xem lại lý do – và bán thuốc của anh với giá thấp hơn. Từ một quan điểm doanh thương, việc ấy làm cho sự giúp đỡ nhân loại thành ra một việc làm ăn liều lĩnh. Cá nhân tôi, tôi sẽ không bao giờ giúp nhân loại.

 

Wu đã từng nghe lý luận này trước đây. Và anh biết là Hammond cũng có lý; một vài ngành dược theo kỹ thuật sinh học quả thật đã phải chịu đựng những trì hoãn và những vấn đề giấy phép kinh doanh không thể giải thích được.

 

Hammond tiếp:

 

– Bây giờ, hãy nghĩ xem vấn đề sẽ khác như thế nào nếu anh kinh doanh việc giải trí. Không một ai cần thiết giải trí. Đấy không phải điều nhà nước phải xen vào. Nếu tôi định giá năm ngàn đô một ngày ở trong công viên tôi, ai sẽ ngăn cản tôi? Xét cho cùng, không một ai cần thiết phải đến đây. Và, khác xa với việc bị trấn lột một bảng giá cao chắc chắn sẽ làm tăng thêm sự hấp dẫn của công viên. Một chuyến viếng công viên trở thành một dấu hiệu của địa vị, và mọi người Mỹ thích điều đó. Người Nhật cũng vậy, và dĩ nhiên họ còn có nhiều tiền hơn.

 

Hammond ăn hết chỗ kem và Marita yên lặng đem đĩa đi. Lão nói:

 

– Cô ta không phải là người ở đây. Ngưởi đảo Haiti. Mẹ cô ta là người Pháp. Nhưng, bất cứ trường hợp nào, Wu, anh hãy luôn nhớ rằng mục đích nguyên thủy đứng sau việc chỉ đạo đường lối xây dựng đảo này của tôi trước hết là không có sự can thiệp của chính quyền, bất cứ chính quyền nào trên thế giới.

 

– Nói về phần còn lại của thế giới thì…

 

Hammond mỉm cười:

 

– Chúng ta đã thuê một vùng đất ở Azores, dành cho công viên kỷ Jura châu Âu. Và anh biết là từ lâu, chúng ta đã có được một đảo Guam, dành cho công viên Nhật Bản. Việc xây dựng hai công viên này sẽ bắt đầu vào đầu năm tới. Cả hai sẽ mở cửa trong vòng bốn năm tới. Và lúc đó, doanh số thu nhập lên đến mười tỉ đôla một năm, còn hàng hóa, và những lợi nhuận phụ thuộc sẽ gấp đôi con số ấy. Tôi thấy không có lý do gì để quấy rầy các con vật cưng của lũ trẻ.

 

– Hai mươi tỉ đôla một năm. – Wu lắc đầu, nói qua hơi thở.

 
– Anh đã tìm thấy gã chưa? – Arnold hỏi ngay, khi người bảo vệ bước vào phòng.

 

– Không thấy, thưa ông Arnold.

 

– Hãy tìm gã bằng được.

 

– Tôi nghĩ là ông ấy không có trong tòa lầu, ông Arnold à.

 

– Vậy thì tìm ở khu nhà khách, ở nhà bảo quản, ở nhà tắm, phòng vệ sinh, tìm khắp nơi, nhưng phải tìm cho ra gã.

 

– Vấn đề là… – người bảo vệ do dự – ông Nedry là người mập mạp, phải ông ta không?

 

– Phải đấy. Một gã mập. Một gã vụng về mập mạp.

 

– Vậy thì, Jimmy gác ở hành lang chính nói anh ta thấy ông ấy đi vào garage.

 

Muldoon quay lại:

 

– Vào garage? Khi nào?

 

– Cách đây khoảng mươi, mười lăm phút.

 

– Chúa ơi! – Muldoon kêu lên.

 
Harding đạp thắng, chiếc Jeep trượt dài rồi dừng lại. Trong ánh dèn pha, Ellie thấy một đàn aptorsaur lạch bạch đi qua đường. Có sáu con, mỗi con to cỡ một căn nhà, và con con to bằng cỡ con ngựa. Mấy con aptorsaur di chuyển yên lặng và vội vàng, không hề nhìn chiếc Jeep và hai ánh đèn pha. Một con dừng lại bên một vũng nước ở vệ đường cúi đầu uống mấy hớp nước, rồi tiếp tục đi.

 

Nếu đấy là một đàn voi, chúng sẽ ngạc nhiên khi thấy chiếc xe đến, chúng sẽ hí lên, quay vòng lại để bảo vệ voi con. Nhưng những con thú này chẳng tỏ vẻ gì sọ hãi. Ellie hỏi:

 

– Chúng không trông thấy chúng ta à?

 

– Không thấy, nhưng không hẳn vậy. Dĩ nhiên, về nghĩa đen chúng có thấy chúng ta nhưng chúng ta thật sự không có ý nghĩa gì đối với chúng cả. Chúng tôi hiếm khi dùng xe vào ban đêm, vì thế chúng không có kinh nghiệm gì về xe cả. Chúng ta chỉ là một vật lạ, một vật là có mùi trong môi trường của chúng, không là một biểu hiện đe dọa, và vì thế chúng không quan tâm. Thỉnh thoảng tôi phải ra ngoài vào ban đêm, chăm sóc một con thú bệnh, và trên đường về, các con thú này chắn đường cả tiếng đồng hồ, hoặc hơn.

 

– Rồi ông làm sao?

 

– Mở một băng cassette ghi tiếng rống của con khủng long bạo chúa. Tiếng rống sẽ làm chúng di chuyển. Không phải chúng để tâm gì đến con khủng long bào chúa. Những con aptorsaur này quá to đến nỗi không thể có con thú nào khác ăn thịt nó được. Chúng có thể làm gãy cổ con bạo chúa bằng một cú quật đuôi.

 

– Nhưng chúng sẽ thấy chúng ta. Nếu chúng ta ra khỏi xe…

 

Harding nhún vai:

 

– Có lẽ cũng sẽ chẳng phản ứng gì. Khủng long có cái nhìn rất tinh, nhưng chúng có hệ thống thâu nhận hình ảnh cơ bản của loài lưỡng cư. Chúng nhìn rõ những vật cử động. Chúng không thấy rõ những vật bất động.

 

Mấy con thú tiếp tục đi, da chúng ánh lên trong mưa. Harding gài số xe:

 

– Giờ thì chúng ta đi được rồi.

 
Wu và Hammond đã chuyển qua phòng khách. Hai người ngồi nhìn cơn bão qua cửa kính lớn. Wu nói:

 

– Tôi ngờ rằng ông thấy những áp lực vào công viên của ông, cũng như những áp lực vào các thứ thuốc của Genetech.

 

– Tôi thấy họ không thể làm được.

 

– Các nhà khoa học có thể cưỡng ép ông. Thậm chí muốn ngưng công việc.

 

– Ô họ không thể làm điều ấy. – Lão gẩy một ngón tay vào Wu – Anh có biết tại sao các tay khoa học gia đó sẽ ráng làm việc ấy không. Chỉ vì họ muốn làm công việc khảo cứu, dĩ nhiên. Đấy là những gì họ từng muốn làm, khảo cứu. Không muốn hoàn thành bất cứ điều gì. Không muốn thực hiện một tiến bộ nào. Chỉ cứ khảo cứu. Vâng họ sẽ ngạc nhiên khi đến đây.

 

– Tôi không suy nghĩ đến vấn đề ấy.

 

Hammond thở dài:

 

– Tôi chắc chắn là đối với các nhà khoa học, họ rất thú vị khi khảo cứu. Nhưng sẽ dẫn đến vấn đề là các con thú này quá đắt, không thể dùng cho khảo cứu. Đây là kỹ thuật kỳ diệu, Wu, nhưng cũng là thứ kỹ thuật đắt tiền đáng sợ. Cái chính là, chúng chỉ có thể được nuôi dưỡng như là việc giải trí.

 

Hammond nhún vai:

 

– Đấy, nó phải là như thế.

 

– Nhưng nếu có những cố gắng đóng cửa công viên…

 

– Hãy đương đầu với những sự việc chết tiệt ấy, Wu. – Hammond bắt đầu khó chịu – Đây không phải là Mỹ. Thậm chí đây cũng không phải là Costa Rica. Đây là đảo của tôi. Tôi là chủ sở hữu. Và không có gì ngăn được tôi mở cửa công viên kỷ Jura cho tất cả các trẻ con trên thế giới. – Lão chặc lưỡi – Hay chí ít, cho những trẻ con giàu có. Và tôi nói thật, chúng sẽ thích công viên này.

 
Từ chỗ ngồi phía sau xe Jeep, Ellie nhìn ra cửa sổ xe. Họ đã chạy qua cánh rèng mưa rơi dày đặc ít nhất cũng hai mươi phút rồi và chẳng thấy gì nữa kể từ khi mấy con aptorosaur băng qua đường.

 

Harding chăm chú lái xe. Ông nói:

 

– Bây giờ chúng ta đang ở gần bờ sông. Con sông ở đâu đó bên trái chúng ta.

 

Đột nhiên ông lại đạp mạnh thắng. Chiếc xe trượt dài rồi dừng lại ngay trước một đàn thú nhỏ màu xanh lục. Ông bảo hai người:

 

– Ấy, thế mà thú vị lại được thấy nhiều thú vào đêm nay. Đây là những con compys.

 

Những con procompsognathus, Ellie nghĩ, và ước gì có Grant ở đây cho ông ta xem. Đây là con thú mà họ đã thấy ở bản Fax, ở Montana. Những con thú nhỏ màu lục đậm ríu rít chạy nhanh về phía bên kia đường rồi đứng cao lên bằng hai chân sau, nhìn chiếc xe, kêu chíu chít, trước khi chạy tiếp vào bóng đêm.

 

– Kỳ lạ thật. – Harding nói – Không hiểu chúng chạy đi đâu. Compys thường không đi đâu ban đêm, cô biết đấy. Chúng lao lên cây và chờ trời sáng.

 

– Vậy tại sao chúng chạy ra đường vào giờ này? – Ellie hỏi.

 

– Tôi không nghĩ ra được. Cô biết compys là loài ăn xác súc vật chết, như loài chim ó. Hễ đâu có con vật chết là chúng biết ngay, và chúng có khứu giác cực nhạy. Chúng có thể ngửi thấy mùi một con vật đang hấp hối cách hàng dặm.

 

– Chúng ta có nên theo chúng không? – Elhe hỏi.

 

– Tôi cũng thấy tò mò. Vâng. Tại sao không? Chúng ta hãy xem xem chúng đi đến đâu?

 

Ông quay xe, lái chạy theo lũ compys.

 
TIM
 
Tim Murphy nằm trong chiếc Land Cruiser, má tì vào tay nắm cửa xe. Cậu bé mơ màng chầm chậm tỉnh lại. Cậu chỉ muốn ngủ. Cậu nhấc mình và cảm thấy đau ở xương gò má, tay chân, và đầu như búa bổ.

 

Cậu chống cùi chỏ ngồi dậy, mở mắt và nôn ọe đầy áo sơ mi. Cậu nghe mùi thật chua và đưa lưng bàn tay chùi miệng. Đầu cậu nhức nhối, chóng mặt như say sóngg, thấy trời đất như chuyển động, tưởng như mình đang lắc lư trên một con tàu.

 

Tim rên rỉ và lăn người tránh chỗ vừa nôn.

 

Cậu đang ở trong chiếc Land Cruiser, nhưng chiếc xe hẳn phải nằm nghiêng, vì cậu đang nằm ngửa bên trong cánh cửa chỗ ngồi hành khách, nhìn lên tay lái và mấy cành cây ở bên ngoài đang đong đưa trong gió. Mưa gần như đã tạnh, nhưng những giọt nước tiếp tục rơi lên người cậu, qua khung cửa kính trước đã vỡ.

 

Hết sức thận trọng, Tim đứng dậy. Đứng trên cánh cửa xe, cậu nhìn ra bên ngoài qua cửa kính chắn gió vỡ. Thoạt tiên cậu thấy những tàn lá dày đặc, chuyển động trong gió. Nhưng đó đây có thể thấy những khoảng trống, và bên kia tán lá, mặt đất – một mặt đất ở khoảng sáu mét phía dưới cậu.

 

Cậu nhìn chòng chọc, không hiểu nổi. Chiếc Land Cruiser đang nằm nghiêng trên những cành của một cây lớn, cách mặt đất sáu mét, lắc lư đưa tới đưa lui trong gió.

 

– Eo ơi? Eo ơi? – cậu lặp đi lặp lại – Eo ơi.

 

Cẩn thận, Tim với tay ra vặn nắm cửa sau.

 

Tay nắm cũng kẹt.

 

Làm thế nào ra khỏi xe?

 

Cậu nghe tiếng khịt mũi và nhìn xuống. Một bóng đen lướt ngang dưới cậu. Đấy không phải là con khủng long bạo chúa. Bóng đen này to mập và phát ra những tiếng khìn khịt khi nó đi ngang. Chiếc đuôi đập tới đập lui và Tim có thể thấy cái đầu nhọn dài.

 

Đấy là con stegosaur, rõ ràng là đã lành bệnh. Tim tự hỏi không biết mấy người kia đâu cả rồi: Gennaro, Ellie và ông bác sĩ thú y. Cậu thấy mấy người ấy lần cuối cạnh con stegosaur. Cách đây bao lâu? Cậu nhìn đồng hồ nhưng mặt đồng hồ đã nứt rạn, không thế thấy mấy con số. Cậu vớ chiếc đồng hồ và liệng nó qua một bên.

 

Con stegosaur khịt mũi và tiếp tục đi. Bây giờ chỉ còn tiếng gió thổi qua cành cây và âm thanh kẽo kẹt của chiếc Land Cruiser khi nó đưa tới đưa lui.

 

Cậu phải ra khỏi nơi đây.

 

Tim nắm chắc tay nắm, ráng sức xoay, nhưng tay nắm kẹt cứng, chẳng nhúc nhích lấy một tý. Rồi cậu nhận ra rằng cửa sau đã khóa chốt. Cậu kéo chốt và xoay tay nắm. Cánh cửa sau mở bung xuống, rồi kê lên một cành cây cách vài tấc ở phía dưới.

 

Cửa chỉ mở thành một khe hẹp, nhưng Tim nghĩ là cậu có thể luồn người qua được. Nín thở, cậu bò thật chậm ra phía sau xe. Chiếc Land Cruiser kêu răng rắc nhưng vẫn ở nguyên chỗ cũ. Bấu chặt vào hai bên thành cửa, Tim từ từ hạ mình xuống lọt qua khe cửa hẹp. Bây giờ cậu đang nằm sấp, người úp vào mặt trong cánh cửa nghiêng nghiêng, hai chân thò ra khỏi xe.

 

Ngay khi cậu làm thế, cành cây oằn xuống và cánh cửa mở rộng hơn, cậu tuột khỏi chiếc Land Cruiser và rơi – lá quét qua mặt cậu – thân hình nảy từ cành này qua cành khác đau buốt – đầu choáng váng.

 

Một cú chạm mạnh và cậu dừng lại. Tim nằm vắt người qua một cành cây lớn, bao tử đau như xé.

 

Tim nghe thấy một tiếng “rắc” khác và nhìn lên chiếc Land Cruiser đen thui cách cậu chừng một mét rưỡi ở phía trên.

 

Một tiếng rắc khác. Chiếc xe rời chỗ.

 

Tim buộc mình phải rời chỗ, phải leo xuống. Cậu thường thích leo cây. Cậu là một tay leo cây giỏi. Và đây là một cây dễ leo, khoảng cách các cành rất gần nhau, gần như là một chiếc cầu thang.

 

“Rắcccc…”

 

Rõ ràng là chiếc xe đang di chuyển.

 

Vội vã, Tim bò toài người leo xuống, trượt qua các cành cây ướt, cảm thấy nhựa cây nhơn nhớt nơi tay, cậu xuống chưa được một mét thì chiếc Land Cruiser kêu “rắc” một lần cuối, và rồi chầm chậm, thật chậm, tuột dần xuống. Tim có thể nghe thấy các chấn song màu lục và hai đèn trước chao đảo, và rồi chiếc Land Cruiser rơi tự do, đã nhanh hơn lao về phía cậu, dội vào cành cây lớn Tim vừa nằm vắt người trước đó. Và chiếc xe dừng lại.

 

Mặt cậu chỉ cách chấn song xe có mấy phân, chấn song lõm vào như miệng một con quái vật, hai mắt là hai đèn trước. Dầu nhớt rỏ cả lên mặt Tim.

 

Cậu vẫn còn cách mặt đất ba mét rưỡi, cậu với tìm một cành khác và leo xuống. Phía trên cậu thấy cành cây oằn xuống vì sức nặng của chiếc Land Cruiser, và gây. Chiếc xe tuôn xuống chỗ cậu và cậu thấy không có cách gì tránh được, cậu không thể leo xuống nhanh hơn chiếc xe được, vì thế cậu thả người rơi xuống.

 

Cậu va vào cành này đến cành khác, cảm thấy đau khắp người, nghe chiếc Land Cruiser sàn sạt tuôn xuống qua các cành cây như một con quái vật đuổi sát theo cậu, và rồi Tim chạm mặt đất xốp, và cậu lăn thật nhanh hết sức mình ép người vào sát thân cây khi chiếc xe Land Cruiser lộn nhào rơi xuống với một tiếng rầm rổn rảng của kim loại, làm tung tóe những tia lửa điện châm chích vào da cậu và kêu xèo xèn khi rơi xuống mặt đất ướt xung quanh.

 

Chầm chậm, Tim đứng dậy. Trong bóng tối, cậu nghe tiếng khìn khịt và thấy con stegosaur trở lại, rõ ràng là tiếng rơi của chiếc Land Cruiser làm nó chú ý. Con khủng long bước từng bước yên lặng, chiếc đầu thấp chĩa tới trước và các đĩa sụn hình quạt chạy dài thành hai đường dọc theo sống lưng. Nó có cử chỉ của một con rùa to quá cỡ. Ngờ nghệch và chậm chạp.

 

Tim chụp một hòn đá ném về phía con vật.

 

– Đi chỗ khác, này.

 

Hòn đá chạm vào dãy sụn và văng đi. Con stegosaur tiếp tục đi tới.

 

– Đi đi! Đi.

 

Cậu ném một hòn đá khác, trúng vào đầu con stegosaur. Con vật ụt ụt lên mấy tiếng, chầm chậm quay lui, tìm cách lẩn tránh phía nó vửa mới đi đến.

 

Tim tựa người vào chiếc Land Cruiser móp méo và nhìn quanh trong bóng đêm. Cậu phải trở lại với mấy người kia, nhưng cậu không muốn bị lạc đường. Cậu biết là mình đang ở đâu đó trong công viên, có lẽ không xa con đường chính mấy. Nếu cậu có thể định được phương hướng. Cậu không thể thấy được nhiều trong bóng tối.

 

Rồi cậu nhớ lại cặp kính nhìn đệm.

 

Cậu leo vào xe qua kính chắn gió bể phía trước tìm kính đêm và chiếc máy vô tuyến. Chiếc máy bể và tắt câm, vì thế cậu để lại. Nhưng cặp kính vẫn hoạt động tốt. Cậu mang thử vào, và yên tâm khi thấy màu lục của lân tinh.

 

Mang kính đêm, cậu thấy khoảng hàng rào bị nằm rạp xuống về phía trái, và cậu đến bên hàng rào. Hàng rào cao ba mét rưỡi nhưng con bạo chúa đã đè bẹp xuống dễ dàng. Tim bước qua thật nhanh, đi xuyên qua một đám tán lá rậm rạp, và bước ra con đường chính.

 

Qua kính đêm, cậu thấy chiếc Land Cruiser thứ hai nằm lật nghiêng. Cậu chạy tới bên xe, thở thật sâu và nhìn vào trong xe. Chiếc xe trống. Không có dấu hiệu gì của tiến sĩ Grant và tiến sĩ Malcolm.

 

Họ đi rồi?

 

Mọi người đã đi đâu cả.

 

Đột nhiên cậu cảm thấy sợ kinh khủng khi thấy mình đứng một mình trên con đường rừng vào ban đêm với chiếc xe trống hoác. Và cậu quay quanh một vòng, thấy màu xanh lục của cây rừng qua kính đêm. Có cái gì đó xam xám bên cạnh đường khiến cậu chú ý. Đấy là quả bóng của Lex. Cậu nhặt lên và phủi bùn đi.

 

– Lex!

 

Cậu la lớn hết sức mình, bất kể chuyện các con thú có thể nghe tiếng cậu. Cậu lắng tai, nhưng chỉ có tiếng gió, và tiếng lách tách của nước mưa từ trên cây rơi xuống.

 

– Lex!

 

Cậu láng máng nhớ lại là em mình ở trong xe khi con khủng long tấn công. Lex có còn trong xe không? Hay là nó đã thoát ra khỏi xe. Diễn biến của vụ tấn công rối rắm trong trí cậu. Cậu không nhớ chắc những gì đã xẩy ra. Chỉ riêng việc nghĩ đến đã làm cậu khó chịu. Cậu đứng trên đường, thở dốc với nỗi kinh hoàng.

 

– Lex!

 

Bóng đêm dường như vây kín cậu. Cảm thấy khổ sở, cậu ngồi xuống một vỉa đá ướt lạnh bên vệ đường và thút thít. Cuối cùng, khi cậu ngừng khóc, cậu vẫn nghe tiếng thút thít. Tiếng thút thít nghe thoang thoảng, đến tử đâu đó xa xa trên dường.

 
Muldoon trở lại phòng điều khiển, mang theo một vali sắt đen. Ông hỏi:

 

– Bao lâu rồi?

 

– Nửa tiếng.

 

– Vào giờ này, chiếc Jeep của Harding phải về đến nơi rồi.

 

Arnold dụi tắt điếu thuốc:

 

– Tôi đoán chắc là họ sẽ về đến nơi trong ít phút nữa.

 

– Vẫn không thấy bóng dáng Nedry?

 

– Chưa. Không thấy

 

Muldoon mở vali, trong có sáu máy vô tuyến xách tay:

 

– Tôi sẽ giao thứ này cho mấy người trong tòa nhà này. – ông trao cho Arnold một máy – Hãy sạc điện đã. Đây là những radio dành cho trường hợp khẩn cấp, nhưng lâu nay chẳng ai sạc điện cả, tất nhiên thôi. Sạc chừng hai mươi phút, và rồi thử gọi mấy chiếc xe.

 
Henry Wu mở cánh cửa có ghi FERTILIZATION và bước vào căn phòng mờ tối. Không có ai ở đây cả; rõ ràng là mấy kỹ thuật viên vẫn còn ăn tối. Wu đi thẳng tới computer cuối phòng và bấm phần lưu trữ DNA. Phần lưu trữ này rất lớn, bởi mỗi phân tử DNA của một chủng loại cần đến một đĩa nhớ mười tỉ bít mới chứa hết chi tiết của tất cả các phiên bản. Anh sắp kiểm tra hết cả mười lăm chủng loại. Đấy là một lượng thông tin không lồ phải lục tìm hết.

 

Anh vẫn chưa hiểu rõ tại sao Grant cho rằng DNA của loài cóc nhái là quan trọng. Wu vẫn thường không đích thân phân biệt loại DNA này với loại DNA khác. Vả lại, phần lớn DNA ở động vật sống giống nhau. DNA vốn là một thứ vật chất có từ lâu đời đến mức khó tin. Con người đi dạo chơi trên các đường phố của thế giới ngày nay, bồng nựng những đứa trẻ hồng hào, khó có thể tin rằng thứ vật chất tại trung tâm thế giới đó – thứ vật chất đã bắt đầu cuộc khiêu vũ của đời sống – là một chất hóa học có từ lâu đời như bản thân quả đất. Phân tử DNA quá xưa đến nỗi sự tiến hóa của nó về bản chất đã chấm dứt cách đây hơn hai tỉ năm. Nó chẳng có gì mới hơn kể từ lúc ấy. Gần đây mới chỉ có một vài sự tổng hợp những gen cũ. Và việc này cũng không nhiều.

 

Khi bạn so sánh DNA của người và DNA của một vi khuẩn hạ đẳng, bạn thấy chỉ có mưởi phần trăm của chuỗi xoắn là khác nhau. Tính chất bảo thủ bẩm sinh này của DNA đã làm cho Wu bạo gan dùng bất cứ loại DNA nào anh muốn. Trong việc tạo nên khủng long, Wu đã sử dụng DNA như là một thứ chất dẻo hay một thứ đá của nhà điêu khắc. Anh đã tự do sáng tạo.

 

Anh bắt đầu cho máy điện toán chương trình tìm kiếm, biết máy sẽ mất hai hay ba phút để hoạt động. Anh đứng dậy, đi quanh phòng thí nghiệm, kiểm tra các dụng cụ theo thói quen cố hữu. Anh chú ý đến cái máy ghi ngoài cánh cửa phòng đông lạnh để theo dõi nhiệt độ phòng lạnh. Anh thấy có một đỉnh nhọn ở biểu đồ. Điều này kỳ dị, anh nghĩ. Có nghĩa là có ai đó đã vào phòng lạnh, và cũng mới vào thôi, trong vòng chưa quá nửa tiếng. Nhưng mà ai đã vào đấy vào ban đêm?

 

Computer kêu bíp bíp, cho biết phần đầu việc kiếm số liệu đã hoàn thành. Wu đến bên máy xem những gì đã xẩy ra, và khi anh thấy màn hình, anh quên mất phòng lạnh với đỉnh nhọn của biểu đồ nhiệt độ.

 

Kết quả đã rõ ràng: các chủng loại maiasaur, procompsognathus, othnielia, velociraptor, hypsilophodontid – những khủng long hiện đang sinh sản – đều có pha lộn rana, hay là DNA ếch nhái. Không một loài nào khác có. Wu vẫn không hiểu tại sao việc này làm cho chúng sinh sản được. Nhưng anh không còn cho là Grant không có lý nữa. Các khủng long đang sinh sản.

 

Anh đi gấp vào phòng điều khiển.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.