CUỘC GỌI TỪ THIÊN THẦN

Thành phố không bao giờ ngủ



“Đàn ông nói chuyện với đàn bà để có thể ngủ với đàn bà; đàn bà ngủ với đàn ông để có thể nói chuyện với đàn ông.”
– Jay MCNERNEY

Trong khi đó, tại New York…
– Chẳng có gì để làm cả: Jim không nghe máy. Madeline nói rồi ngắt máy trong khi chiếc taxi chở họ đang đỗ lại trước một nhà hàng nhỏ ở khu Greenwich Village.
Jonathan mở cửa cho cô xuống xe.
– Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, giờ này ở Manchester mới là năm giờ sáng! Anh chàng Jim của cô vẫn còn yên giấc trên giường, chỉ thế thôi…
Nữ cảnh sát điều tra đi theo anh chàng người Pháp vào trong quán… Ngay khi họ bước vào, chủ quán đã nhận ra viên cựu bếp trưởng:
– Jonathan! Đây luôn là một niềm vinh dự, anh biết không!
– Rất vui được gặp cậu, Alberto.
Chủ quán xếp họ ngồi vào một bàn nhỏ gần cửa sổ.
– Tôi sẽ mang ra cho các vị hai suất Special One, anh ta nói trước khi rời đi.
Madeline gọi lại cho Flaherty nhưng vẫn không có ai bắt máy. Có điều gì đó không ổn…
– Jim vốn là người tham công tiếc việc. Tôi biết anh ấy mà, với những gì anh đã kể cho Jim nghe, hẳn anh ấy phải huy động toàn bộ ảnh hưởng của mình để đẩy nhanh sự can thiệp của bên khoa học hình sự. Và vào giờ này, hẳn là anh ấy đã có được những kết quả đầu tiên.
– Hai ngày nữa là Giáng sinh rồi, các cơ quan nhà nước cũng hoạt động chậm lại. Cô đợi sáng mai gọi lại cho anh ta cũng được.
– Hừm, Madeline nhượng bộ anh. Nói cho cùng anh định cho tôi ngủ ở đâu đấy? Vì xin báo để anh biết là tôi đang mệt lử và …
– Cô đừng lo: chúng ta sẽ tới nhà Claire.
– Claire Lisieux? Vốn là bếp phó của anh tại Thống Soái ư?
– Đúng vậy, cô ấy có một căn hộ cách đây không xa. Tôi đã gọi cho cô ấy xin tá túc. Rất đúng lúc: cô ấy không ở New York dịp Giáng sinh này.
– Giờ cô ấy làm ở đâu?
– Bên Hồng Kông, tại một trong những nhà hàng của Joёl Robuchon.
Madeline hắt hơi, Jonathan chìa cho cô một tờ khăn giấy. Biết đâu Alice vẫn còn sống…, cô nghĩ, hai mắt rực sáng long lanh. Xáo trộn trước những điều Jonathan tiết lộ, cô cố gắng bắt giọng nói bên trong mình im tiếng, cố gắng kìm nén nỗi phấn khích, vẫn từ chối bùng lên sôi nổi trước khi nhận được những bằng chứng xác thực.
– Nóng hổi vừa thổi vừa ăn đây! Alberto kêu lên khi mang ra phục vụ món đặc sản của nhà hàng: hai miếng bít tết tái kẹp trong bánh mỳ giòn tan gia giảm thêm hành tây lát nhỏ, dưa chuột bao tử và khoai lang áp chảo.
Nằm ở phía Bắc Greenwich Village, ở góc University Place giao với Phố 14, quán Alberto’s là một trong những nhà hàng đích thực cuối cùng của Manhattan. Mở cửa 24/24h, toa ăn bằng kim loại có bầu không khí hoài cổ này thu hút một đám đông không dứt những người chơi đêm tới thưởng thức món ốp lếp, bánh mỳ nướng kiểu Pháp, xúc xích kẹp, bánh kẹp và bánh kếp.
Chủ nhà hàng là người Mỹ gốc Ý đặt trước mỗi đĩa một cốc sữa khuấy.
– Tối nay các vị là khách mời của tôi. Không, Jonathan, xin anh đừng trái lời tôi! Mà chắc chắn đây cũng là lần cuối cùng thôi…
– Tại sao thế?
– Họ cũng có ý muốn triệt hạ tôi rồi! Alberto thột lên rồi chỉ về phía một tờ thông báo dán trên hốc tường.
Nội dung tờ thông báo nói với các thực khách rằng, vì lý do tiền thuê tăng cao quá mức, nhà hàng đang hoạt động những ngày cuối cùng trước khi chính thức đóng cửa vào mùa xuân.
– Tôi rất lấy làm tiếc, Jonathan động lòng trắc ẩn.
– Ôi dào! Tôi sẽ mở gì đó khác ở một nơi khác ấy mà, anh ta vui vẻ cam đoan như vậy trước khi biến vào trong bếp.
Chỉ chờ có vậy, Madeline lao vào đánh chén phần sandwich.
– Tôi đói muốn chết, cô thú nhận sau khi đã ngoạm một miếng Special One.
Cũng đã đói ngấu, Jonathan không cần ai mời mới bắt chước cô. Họ vừa thưởng thức phần ăn vừa thán phục chiêm ngưỡng vẻ duyên dáng của nhà hàng. Nó có vẻ không chịu sự ảnh hưởng của thời đại, với kết hợp hài hòa những yếu tố của Art desco, những chi tiết crôm sáng loáng và đồ đạc chất liệu Formica. Trên bức tường đằng sau quầy, một loạt ảnh kèm lời đề tặng điểm mặt những nhân vật nổi tiếng – từ Woody Allen tới thị trưởng New York – từng đặt chân tới nhà hàng để thưởng thức một món mì hoặc cơm rang trộn pho mát Ý. Ở cuối phòng, chiếc máy hát tự động đang phát ca khúc Famous Blue Raincoat, một trong những ca khúc hay nhất của Leonard Cohen, bất chấp bầu không khí tăm tối và lời bài hát khó hiểu.
Jonathanathan kín đáo quan sát cô gái người Anh ngấu nghiến chiếc bánh kẹp.
– Lạ thật đấy, lần đầu tiên nhìn thấy cô tôi cứ nghĩ cô là kiểu phụ nữ ăn chay giữ dáng bằng lòng với khẩu phần hai lá xà lách mỗi ngày.
– Vẻ bề ngoài là vậy mà…, cô mỉm cười.
Lúc này đã hơn một giờ sáng. Hai người họ ngồi đối diện nhau trên băng ghế dài bọc vải giả da và tận hưởng khoảnh khắc nghỉ ngơi này. Dù đang rất mệt, cả hai vẫn có cảm giác như vừa bước ra khỏi một kỳ ngủ đông dài. Từ vài giờ qua, một lượng adrenaline mới mẻ đã khiến máu trong huyết quản họ chảy nhanh hơn. Jonathan đã từ bỏ vẻ uể oải và chua chát mà anh chủ động lún sâu vào từ hai năm nay. Về phần Madeline, cô cũng thôi không buộc bản thân tin rằng cuộc sống nhỏ bé không chút trục trặc của cô sẽ bảo vệ cô khỏi những loài quỷ dữ ẩn náu bên trong.
Khoảnh khắc sẻ chia không tưởng này, là “mắt bão của họ” , là khoảng tĩnh lặng tuyệt đối trước khi cơn bão quay trở lại, để tiếp tục hung tợn hơn và tàn phá dữ dội hơn. Họ không hối tiếc về lựa chọn đã đưa ra, nhưng họ cũng biết rằng điều chưa từng biết đến đang mở ra phía trước: sự trống rỗng, những câu hỏi, nỗi sợ… Liệu ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì? Cuộc điều tra mà họ đang tiến hành sẽ dẫn dắt họ tới đâu? Liệu họ có biết cách đối mặt với cuộc phiêu lưu này không hay khi thoát ra khỏi nó, lòng lại tổn thương hơn trước?
Một chiếc điện thoại di động rung trên mặt bàn. Họ cùng nhìn xuống. Trước đó họ đã máy móc đặt hai chiếc điện thoại cạnh nhau. Người ta đang gọi vào số của Jonathan, nhưng cái tên nhấp nháy trên màn hình lại là ” RAPHAЁL” .
– Tôi nghĩ cuộc gọi này là của cô đấy, anh vừa nói vừa đưa điện thoại cho cô. Cô thật táo tợn, dám lưu cả số của anh ta vào danh bạ của tôi!
– Tôi xin lỗi. Anh ấy đã hỏi tôi số của anh. Anh ấy không biết là tôi đã lấy lại được điện thoại rồi. Nhưng đợt rung vẫn kéo dài.
– Cô không nghe máy sao?
– Không, tôi không đủ can đảm.
– Nghe này, đây không phải chuyện của tôi và tôi không biết chính xác lúc lên đường cô đã nói gì với anh ta, nhưng tôi nghĩ cô không nên biệt tăm với bạn trai mình như thế…
– Anh có lý: đây không phải việc của anh.
Chiếc điện thoại ngừng rung, Jonathan nhìn cô gái vẻ trách móc.
– Anh ta có biết cô đang ở đây không? Cô nhún vai.
– Anh ấy nghĩ tôi đang ở Luân Đôn.
– Ở chỗ cô bạn Juliane của cô, phải thế không? Cô gật đầu xác nhận.
– Hẳn anh ta sẽ gọi cho cô bạn kia, Jonathan đoán. Anh ta sẽ biết cô không ở đó.
– Ngày mai tôi sẽ gọi lại cho anh ấy.
– Mai ư? Nhưng chờ đến lúc đó chắc anh ta lo phát ốm mất! Anh ta sẽ gọi điện tới các sân bay, các đồn cảnh sát, các bệnh viện,…
– Ngừng cái hoạt cảnh của anh lại đi! Đã đến nước đó sao anh không thêm vào cái cảnh “báo động bắt cóc” luôn thể?
– Vậy ra cô không có trái tim ư? Không động lòng chút nào trước gã trai tội nghiệp đang lo cho cô phát sốt phát rét?
– Anh làm tôi phát bực rồi đấy! Mà Raphaёl đâu phải một gã trai tội nghiệp!

– Phụ nữ các cô đúng là cùng một giuộc!
– Không phải vì anh gặp vấn đề với phụ nữ mà tôi phải giơ đầu chịu báng đâu nhé!
– Cô không trung thực với anh ta! Nói cho anh ta biết sự thực đi.
– Sự thực là sao?
– Là cô không còn yêu anh ta nữa. Anh ta chỉ là một bánh xe sơ cua trong cuộc đời cô, một chỗ dựa…
Cô giơ tay định tát anh, nhưng anh đã túm được cánh tay cô, tránh cái tát tai vừa kịp lúc.
– Tôi thực lòng khuyên cô nên bình tĩnh lại.
Anh đứng dậy, mặc lại áo khoác, cầm điện thoại lên rồi bước ra vỉa hè hút một điếu thuốc.

°

Bóng đèn nê ông của biển hiệu nhà hàng rực sáng trong đêm. Trời rét căm căm, lại thêm những cơn gió lốc giá buốt. Jonathan khum tay che để gió khỏi bạt lửa, nhưng trận gió mạnh đến nỗi anh phải bật đến hai lần mới châm được thuốc.

°

Madeline bực bội rời chỗ ngồi và chen đến tận quầy bar để gọi một ly whisky đúp rồi đem trộn lẫn với nước ép dứa. Trong máy quay đĩa, chất giọng khàn sâu lắng của Leonard Cohen đã nhường chỗ cho tiếng đàn ghi ta nhịp nhàng cùng bộ gõ của ban nhạc The Beatles, Ca khúc I Need You qua giọng hát của George Harrison. Đó là một giai điệu đặc chất “thập niên 60” , nhẹ nhàng và ngây ngô, do “thành viên thứ ba của Beatles” sáng tác tặng Pattie Boyd thời yêu đương, rất lâu trước khi cô rời bỏ anh để theo Eric Clapton.
Madeline quay trở lại bàn với ly cocktail trên tay. Cô nhìn qua cửa kính người đàn ông xa lạ cô vừa mới biết một tuần nay, nhưng cũng là người đã xuất hiện dày đặc trong suy nghĩ của cô những ngày gần đây, đến mức ám ảnh. Co mình trong chiếc áo măng tô, anh đang ngắm nhìn bầu trời. Ánh sáng trắng của ngọn đèn đường mang lại cho anh vẻ mơ mộng, hơi trẻ thơ và sầu muộn. Ở anh có điều gì đó thu hút và khiến người ta cảm động. Một vẻ quyến rũ mộc mạc, một gương mặt dễ tạo lòng tin. Nơi anh toát lên nét gì đó thẳng thắn, lành mạnh, tốt đẹp. Đến lượt mình, anh cũng quay ra nhìn cô và chính vào lúc ấy điều gì đó đã thay đổi. Rùng mình, cô cảm thấy dạ dày mình bỗng nhiên quặn thắt.
Vừa nhận ra thứ xúc cảm bất ngờ đó, tim cô đập rộn, chân cô run lên, lòng dạ bồn chồn.
Ấn tượng bất ngờ chụp lấy cô. Hoàn toàn xáo trộn, cô tự hỏi cái cảm giác náo động thình lình khiến cô không còn biết bấu víu vào đâu này là từ đâu ra. Cô không kiểm soát nổi chuyện gì nữa. Náo động, không có khả năng chống trả, cô không thể rời mắt khỏi mắt anh nữa. Lúc này đây, gương mặt anh trở nên thân thuộc như thể cô đã quen anh từ lâu lắm rồi.

°

Jonathan rít một hơi thuốc rồi nhả ra cụm khói màu xanh lơ mà phải hổi lâu sau nó mới tan đi vì tê cóng trong cái lạnh của đêm. Cảm thấy ánh mắt của Madeline đang dính chặt lấy anh từ bên kia cửa kính, anh quay lại, và lần đầu tiên ánh mắt họ thực sự gặp nhau.

Người phụ nữ này… Anh biết đằng sau vẻ ngoài cứng rắn và lạnh lùng của cô ẩn giấu một con người nhạy cảm và phức tạp. Chính nhờ có cô mà anh đã thoát ra khỏi trạng thái đờ đẫn bấy lâu. Lại một lần nữa, anh cảm thấy mối ràng buộc chưa từng có đang gắn họ với nhau. Những ngày vừa qua, họ đã nhanh chóng tìm hiểu về nhau. Họ đã nuôi dưỡng nỗi ám ảnh về nhau, hiểu thấu những bí mật sâu kín nhất của nhau, khám phá những điểm yếu của nhau, sự bấp bênh, sự bền bỉ của nhau, khám phá những mạnh mẽ và yếu đuối dường như dội lại nhau.

°

Trong vài giây, họ hợp nhất trong sự hòa hợp tuyệt đối. Một cái nhìn, một tia chớp, một bản năng sống. Khi cân nhắc đường đi và những rủi ro gặp phải để đến được với đối phương, họ đều phải thừa nhận rằng họ là twin soul: hai tâm hồn đồng điệu đã nhận ra nhau và tiến lên để đạt tới cùng một mục đích. Hiện tại, giữa họ đã tồn tại một thứ như thề hiển nhiên, một thứ tinh tế, một sự ham muốn. Một cảm giác nguyên sơ bắt nguồn từ những lo sợ và hy vọng thời thơ ấu. Niềm tin lớn lao rằng cuối cùng cũng đứng trước người có khả năng lấp đầy khoảng trống trong mình, khiến những e sợ của mình phải im tiếng và chữa lành những vết thương hình thành trong quá khứ.

°

Madeline đầu hàng và buông xuôi trước cảm giác mới mẻ này. Nó khiến người ta chếnh choáng như một cú nhảy vào khoảng không, không mang theo dù cũng chẳng có dây chun níu giữ. Cô nghĩ lại lúc họ gặp nhau… Đã chẳng xảy ra chuyện gì nếu họ không va phải nhau trong sân bay. Đã chẳng xảy ra chuyện gì nếu họ không vô tình cầm nhầm điện thoại của nhau. Nếu cô bước vào quán cà phê đó sớm hơn ba mươi giây hoặc muộn hơn ba mươi giây, họ đã chẳng bao giờ gặp nhau. Một loại duyên phận được sắp đặt. Trò đùa của số phận đã chọn cách đưa họ xích lại gần nhau vào một thời điểm quyết định. Tiếng gọi của thiên thần, như bà cô vẫn thường nói…

°

Đứng bất động trong đêm, Jonathan để mặc mình trôi dạt, thả mình vào cảm giác nóng rực đang thiêu rụi xiềng xích của quá khứ để vẽ nên bản phác thảo cho tương lai.
Phép màu kéo dài chưa đầy một phút rồi bỗng chốc tan biến. Điện thoại của anh đổ chuông trong túi áo. Là Raphaёl đang thử vận may lần nữa. Lần này, Jonathan chọn cách nhấc máy. Anh quay bước vào nhà hàng, trở lại bàn rồi chìa điện thoại cho Madeline.
– Của cô này.
Quay trở lại với thực tại thật khó.

°

Hai mươi phút sau.
– Đừng làm trò trẻ con! Cô sẽ chết rét với cái áo khoác mỏng dính đó cho mà xem!
Cái lạnh mỗi lúc một cắt da cắt thịt. Mặc độc chiếc áo len và áo khoác da ngắn, Madeline bước theo Jonathan dọc Phố 14, nhưng lại một mực từ chối khoác thêm chiếc áo măng tô anh đang đưa cho cô.
– Đợi đến ngày mai sốt 40 độ rồi thì cô sẽ bớt tự phụ đi thôi…

Đến góc Đại lộ 6, anh dừng tại một hàng tạp hóa để mua nước, cà phê và một túi bạt lớn chứa đầy những cành củi nhỏ cùng vài khúc củi lớn.
– Sao anh biết là có lò sưởi?
– Vì tôi biết ngôi nhà đó, cô nghĩ mà xem. Tôi đã đứng ra bảo lãnh giúp Claire mua nó.
– Hai người rất thân thiết với nhau phải không?
– Đó là một người bạn tốt, đúng thế. Được rồi, cô có mặc chiếc áo măng tô này hay không?
– Không, cảm ơn. Ở đây tuyệt thật đấy, cô mê mẩn khi được khám phá khu phố.
Trong một thành phố luôn luôn biến đổi, Greenwich Village giống như một điểm cố định được cách ly khỏi công cuộc hiện đại hóa. Khi Madeline đến Manhattan cùng Raph, họ chỉ ở khu Midtown, thăm thú Quảng trường Times Square, các bảo tàng và cửa hàng cửa hiệu loanh quanh Đại lộ 5. Ở đây, cô sẽ khám phá ra một New York được tháo gỡ hết những tòa cao ốc chọc trời. Một New York xứng đáng để sống hơn với những ngôi nhà duyên dáng xây bằng đá cát kết cùng mặt tiền bằng gạch và các bậc thềm đá gợi nhớ những khu phố tư sản của Luân Đôn xưa. Nhất là, trái ngược với những con đường thẳng tắp chia phần còn lại của thành phố thành những ô vuông bàn cờ, The Village đầy rẫy những con hẻm khúc khuỷu quanh co theo dấu những con đường đồng quê thưở trước, tàn tích của thời Greenwich chỉ là một thị trấn nhỏ bé nơi thôn dã.
Bất chấp cái lạnh căm căm và đêm đã khuya, các quán bar và nhà hàng vẫn còn nhộn nhịp. Trên những lối đi hai bên rợp bóng cây, họ gặp nhiều người chạy thể dục dắt theo chó, trong khi các sinh viên Đại học New York đang ăn mừng kì nghỉ bằng cách hát vang loạt Ca khúc Giáng sinh dưới những ngọn đèn đường.
– Đúng là một thành phố không bao giờ ngủ! Cô ghi nhận.
– Phải đấy, riêng về điểm này thì truyền thuyết không bịa đặt…
Trên đường tới Quảng trường Washington, Jonathan rẽ sang một con phố nhỏ lát gạch với lối vào có lắp cổng.
– Ngày xưa phố MacDougal Alley này là khu chuồng ngựa của các trang viên nằm rải rác quanh khu săn bắn, anh giải thích trong lúc ấn mã mở cổng. Có vẻ như đây là khu phố cuối cùng của Manhattan được chiếu sáng bằng hệ thống đèn đường chạy ga.
Họ bước vào một con ngõ cụt dài chừng một trăm mét. Thật khó mà tin nổi là người ta lại đang ở New York vào đầu thế kỉ XXI, bởi nơi đây có điều gì đó thật huyền diệu và siêu thực.
Họ dừng bước trước một ngôi nhà một tầng đẹp như tranh vẽ. Jonathan làm theo chỉ dẫn của Claire, nhấc chậu hoa bằng đất nung đặt dưới chân mặt tiền nhà lên để lấy chùm chìa khóa do bà gác cổng để lại.
Anh gạt cầu dao để bật đèn và hệ thống sưởi rồi đi chuẩn bị nhóm lửa trong lò sưởi. Madeline dạo bước hết phòng này sang phòng khác. Ngôi nhà được cải tạo rất có gu. Đồ đạc trong nhà theo phong cách hiện đại, nhưng chủ nhân vẫn giữ lại một vài yếu tố nguyên bản như những bước tường xây bằng gạch đỏ, những thanh xà lộ thiên và một giếng trời tuyệt đẹp mang lại cho nơi này vẻ đẹp lung linh huyền ảo.

Cô gái người Anh tò mò nhìn ngắm những bức ảnh treo trên tường. Claire Lisieux là một cô gái xinh xắn, vóc dáng cao lớn và khỏe khoắn. Ngay lập tức cô thấy ghen tị với những thứ đó.
– Anh không lấy làm lạ khi thấy mình xuất hiện trên quá nửa số ảnh treo trong ngôi nhà này sao?
– Làm sao lại thế được? Jonathan hỏi rồi quẹt diêm nhóm lửa.
– Chỗ nào cũng thấy mặt anh: Claire và Jonathan bên bếp lò, Claire và Jonathan ở chợ Cá, Claire và Jonathan tại chợ Dean and Deluca, Claire và Jonathan ở chợ sinh thái, Claire và Jonathan chụp hình lưu nhiệm cùng hết nhân vật nổi tiếng này đến nhân vật nổi tiếng nọ…
– Đó là bạn tôi. Cô ấy lưu giữ lại kỷ niệm cũng là chuyện bình thường thôi.
– Không kể bố cô ta thì anh là người đàn ông duy nhất xuất hiện trên những bức ảnh này!
– Cô đang khẩu chiến với tôi đấy à?
– Cô gái này là ai vậy? Tình nhân của anh sao?
– Không! Cô còn định hỏi tôi câu đó bao nhiêu lần nữa đây?
– Ấy vậy mà cô ấy đang phải lòng anh đấy, chuyện rõ rành rành như ban ngày.
– Tôi chẳng hay biết gì chuyện đó cả.
– Tôi thì dám khẳng định luôn.
– Có hay không chuyện đó thì khác gì nhau?
– Sau khi chia tay vợ, lẽ ra anh nên gần gũi Claire mới phải. Cô ta trẻ trung, xinh đẹp như nữ thần, thông minh phát tiết…
– Thôi đi, đủ rồi đấy.
– Không, giải thích cho tôi xem nào.
– Chẳng có gì để giải thích cả.
– Anh muốn tôi giải thích luôn chứ gì? Cô thách thức anh rồi chúi người về phía trước.
– Không, thực sự là không.
Jonathan cố lùi lại, nhưng lưng anh đã chạm vào lò sửa mà lửa thì bắt đầu bén.
– Dù thế nào thì tôi cũng sẽ giải thích đây! Claire Lisieux rất hoàn hảo: đó là một cô gái hiền lành, tử tế và đứng đắn. Cô ta sẽ là người mẹ lý tưởng nếu anh muốn có thêm con. Anh đánh giá cao và hết sức tôn trọng cô ta, nhưng… biết nói thế nào nhỉ?… Như thế thì quá dễ dàng, quá hài hòa…
Madeline vẫn tiến lại gần. Lúc này, môi cô chỉ còn cách môi Jonathan vài xăng ti mét. Cô nói tiếp:
– Ấy vậy mà, đó lại không phải điều anh tìm kiếm trong tình yêu, phải không nào? Anh thì anh cần đam mê, cãi cọ, chinh phục kia. Tóm lại, Claire không phải mẫu phụ nữ dành cho anh…
Jonathan ngập ngừng chưa trả lời. Anh cảm thấy hơi thở của Madeline đang hòa trộn vào hơi thở của mình. Cô đẩy sự khiêu khích lên đến đỉnh điểm:
– Thế còn tôi? Tôi có phải phải mẫu phụ nữ dành cho anh không?

Anh áp sát cơ thể mình vào cô rồi hôn cô.

°

Jonathan đã không làm tình từ khi chia tay Francesca. Vậy nên anh cởi áo khoác và áo len cho cô gái rất vụng về. Cô vừa cởi cúc áo sơ mi của anh vừa nhay nhẹ cổ anh. Anh gỡ ra để vuốt ve khuôn mặt cô và nếm kĩ hơn vị ngọt môi cô. Từ cô toát ra một mùi hương thơm mát và nồng đượm của cam quýt, bạc hà và oải hương.
Thân thể mảnh mai dong dỏng của Madeline quấn vào anh rồi cả hai cùng đổ người xuống trường kỷ. Hông họ uốn lượn. Cơ thể họ hòa vào nhau để tạo nên một khối điêu khắc chuyển động không ngừng, những đường cong và chỗ hõm nhấp nhô trong ánh sáng mờ tỏ của mặt trăng.
Tóc họ, mùi cơ thể họ, da thịt họ, môi họ hòa quện vào nhau. Đôi mắt gắn chặt vào gương mặt đối phương, họ buông mình cho lạc thú xâm chiếm.
Bên ngoài, cuộc sống vẫn tiếp tục, trong thành phố không bao giờ ngủ.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.