Cuộc Lữ Hành Kỳ Diệu Của Nilx Holyerxon Qua Suốt Nước Thụy Điển

Phần 3: Việc Lấp Cái Hồ



Mà thật vậy, cái trại tựa hồ vắng tanh sau khi Yarrô đi rồi. Con chó và con mèo thấy ngày dài quá, vì chúng không có dịp để cãi nhau về Yarrô nữa, và bà chủ thì nhớ tiếc những tiếc bập mỏ lẹp kẹp vui mừng của nó mỗi khi bà bước vào phòng. Nhưng kẻ thấy thiếu Yarrô hơn cả là Per Ôla, đứa bé con, vì suốt đời nó chẳng có bạn chơi và như thế.

Khi biết Yarrô đã trở về hồ Tôkern để ở lại với những con vịt khác, thì nó không để cho vịt đi mất như vậy, mà chỉ nghĩ đến việc làm sao đem Yarrô trở lại trại. Per Ôla đã trò chuyện nhiều với Yarrô, những khi con vịt còn nằm trong cái rổ của nó, và nó tin chắc rằng vịt hiểu nó. Nó xin mẹ đưa nó đến bên bờ hồ để có thể tìm thấy Yarrô, và nói cho vịt bằng lòng trở về nhà với nó. Mẹ nó không nghe, nhưng đứa bé không chịu chỉ vì chút việc nhỏ ấy mà từ bỏ ý định của mình.

Ngày hôm sau, cái ngày mà Yarrô biến mất, Per Ôla ra ngoài sân. Ở đây nó chơi những trò chơi như mọi ngày, Kaêxar nằm trên các bậc thềm và khi phải đi vắng, mẹ nó bảo con chó: “Trông Per Ôla, nghe chưa Kaêxar!”

Cứ như mọi khi thì Kaêxar đã nghe lệnh bà chủ, và đứa bé đã được trông nom cẩn thận. Nhưng mà đã mấy hôm nay, Kaêxar đã không còn là nó nữa. Nó biết rằng những chủ trại, những nông dân, những trai cày ở quanh cái hồ Tôkern đã bàn nhau về việc tát cạn cái hồ, họ sắp sửa quyết định thực hiện việc đó. Những con vịt sẽ mất đi và chẳng bao giờ Kaêxar sẽ còn có dịp đi săn một cuộc săn ra trò nữa. Chỉ nghĩ đến tai họa đó là Kaêxar đã khổ não đến nỗi chẳng nghĩ đến việc trông nom Per Ôla.

Và đứa bé vừa ở lại một mình trong vườn, là liền thấy đã đến lúc đi ra hồ Tôkern và nói chuyện với Yarrô. Nó mở một cái cửa nhỏ, theo lối đi hẹp, băng qua các đồng cỏ, xuống hồ Tôkern còn trông thấy ngôi nhà là nó còn đi chầm chậm, nhưng sau thì nó rảo bước. Nó rất sợ mẹ nó hay một ai đó gọi lại và thế nó đi xa hơn.

Per Ôla không có ý làm một việc gì có lỗi, nó chỉ muốn làm cho Yarrô phải trở về, nhưng nó đoán biết rằng mẹ nó sẽ không tán thành việc nó định làm.

Đến bờ hồ, Per Ôla gọi Yarrô nhiều lần. Rồi nó chờ một lúc lâu không thấy Yarrô đến. Per Ôla trông thấy nhiều chim giống như con vịt trời. Chúng bay, chẳng để ý gì đến nó, cho nên nó hiểu rằng chẳng con nào trong bọn có thể là Yarrô cả.

Vì Yarrô không đến gặp nó, nên đứa bé nghĩ có thể tìm ra nó dễ hơn ở ngay trên mặt hồ. Ở đây có vài chiếc thuyền tốt, nhưng đều bị kéo lên trên bờ cả. Chỉ có một chiếc thuyền con cũ, ván đã hở ra cả, là đang trôi nổi tự do trên mặt nước, nhưng bởi vì nó quá hư nát nên chẳng một ai nghĩ đến việc dùng nó cả.

Tuy vậy, Per Ôla cứ leo qua mạn, xuống thuyền không lo rằng nước đã đầy cả lòng thuyền. Nó không đủ sức dùng chèo để bơi, trái lại nó cứ việc đung đưa thân hình sang phải rồi sang trái ở trong lòng thuyền. Tất nhiên là không một người lớn nào có thể làm cho một chiếc thuyền con đi được trên hồ Tôkern bằng cách ấy cả; nhưng mà khi nước sâu và tai nạn có thể xảy ra, thì những trẻ nhỏ lại có khả năng lạ lùng để đi liều, không sợ nguy hiểm trên mặt sóng. Chỉ một chốc là Per Ôla đã được đưa ra trên mặt hồ Tôkern mồm gọi Yarrô.

Chiếc thuyền con cũ cứ bập bềnh giữa hồ, những kẻ hở giữa các tấm ván rộng dần ra và nước tràn vào. Tuy vậy, Per Ôla chẳng chút mảy may lo sợ. Ngồi trên một chiếc ghế nhỏ, đằng mũi, nó gọi tất cả những con chim nó trông thấy và ngạc nhiên vì Yarrô không đến.

Dù sao thì cuối cùng Yarrô cũng trông thấy Per Ôla; nghe gọi nó bằng cái tên mà những con người đã đặt cho nó, thì nó hiểu rằng đứa bé đã đến tìm nó; Yarrô sung sướng quá vì có một con người đã thực sự có lòng thương nó. Nó lao xuống với Per Ôla như một mũi tên ngồi bên cạnh, và để cho Per Ôla vuốt ve; cả hai đều vui mừng vì được gặp lại nhau. Nhưng bỗng Yarrô nhận thấy tình hình chiếc thuyền đã ngập nước đến một nửa và sắp đắm. Yarrô cố thuyết phục Per Ôla là phải gắng trở vào đất liền, vì Per Ôla không biết bơi, cũng không biết bay. Per Ôla chẳng hiểu chút gì ngôn ngữ của Yarrô. Thế là chẳng do dự nữa, Yarrô bay đi tìm cứu viện.

Một lát sau, Yarrô đã trở lại với một con người bé tí, bé hơn cả Per Ôla rất nhiều. Nếu con người bé nhỏ kia không biết nói năng và cử động, thì đứa bé đã cho rằng đó là một con búp bê.

Con người bé nhỏ ra lệnh cho Per Ôla phải tức khắc cầm lấy cái sào dài ở lòng chiếc thuyền con, và cố gắng chồng thuyền về một trong các hòn đảo mọc đầy sậy. Per Ôla làm theo ngay. Được con người bé nhỏ giúp sức, nó có thể đưa chiếc thuyền con đi. Chỉ chống vài cái là đến một hòn đảo và Per Ôla đặt chân lên đất, chính đúng cái lúc mà chiếc thuyền con ngập nước và hoàn toàn đắm luôn.

Trông thấy thế, đứa bé cũng biết rằng bố mẹ nó sẽ mắng rất dữ và nó đã bật khóc, nếu không được những ý nghĩ khác làm cho quên ngay điều đó. Thật vậy, một đàn chim to lông xám bay đến đỗ cạnh nó và con người bé nhỏ kia dẫn cả đàn đến phía nó. Con người nói cho nó biết những chim đó là ai và cắt nghĩa cho nó hiểu những lời nói của chim. Per Ôla thích quá đến mức quên hết mọi việc.

Trong lúc ấy, ở trại người ta nhận thấy đứa bé đi đâu mất và người ta bổ đi tìm. Người ta tìm trong kho lúa mì, dưới giếng, dưới hầm nhà. Rồi tất cả mọi người kéo nhau lên các đường lớn, và các đường kiệt hỏi thăm làng xóm, láng giếng có trông thấy nó không. Sau cùng, người ta tìm đến tận hồ Tôkern. Nhưng chẳng thấy nó đâu cả, và Kaêxar con chó, chẳng làm chút gì để đưa chủ đi theo dõi dấu vết cả. Trái lại, nó cứ nằm dài hết sức yên tĩnh, tựa hồ việc ấy chẳng liên quan gì đến nó hết.

Trời đã hơi chiều, người ta thấy dấu chân của Per Ôla gần bến đó, và người ta nhận thấy là chiếc thuyền con cũ đã không còn ở chỗ của nó ở ven bờ nữa. Thế là người ta hiểu những gì đã xảy ra. Chủ trại và các anh nhà liền đẩy các thuyền ra giữa hồ, lùng sục khắp nơi để tìm chú bé. Họ chèo đi khắp mọi phía trên mặt hồ Tôkern, cho mãi đến tận tối mà chẳng tìm thấy dấu vết của Per Ôla đâu cả. Chiếc thuyền cũ chắc đã đắm thẳng xuống hồ, và đứa bé đã nằm dưới đáy nước rồi.

Chiều tối, mẹ Per Ôla đi lang thang trên bãi cát ven hồ. Tất cả mọi người đều đinh ninh rằng đứa bé đã chết đuối rồi, nhưng bà thì không thể cho là như thế được, và bà cứ tiếp tục đi tìm. Bà tìm giữa các đám lau sậy và cõi lạc; bà đi lại không biết mệt trên các bờ hồ lầy lội; không nghĩ là mình đang lún sâu xuống bùn và lấm le bùn đất. Nỗi tuyệt vọng thật là vô hạn. Bà không khóc, nhưng vặn hai bàn tay và gọi tên con nghe đứt ruột. Chung quanh bà nghe kêu lên nào thiên nga, nào vịt trời, nào dẽ gà. Bà tưởng là chúng đi theo bà, vừa kêu rên, vừa than khóc như bà. “Chúng cũng phải phiền muộn mới kêu than như thế”, bà tự nhủ. Nhưng rồi bà bỗng nhớ ra là bà đang nghĩ đến chim, mà chim thì chắc là không có chút lo nghĩ nào. Tuy nhiên, thật là nhanh, mặt trời đã lặn rồi, mà chúng vẫn chịu làm thinh. Trái lại, bà nghe tất cả chim chóc đang ở trên hồ Tôkern đều kêu, rồi lại kêu. Nhiều con cứ bay theo bà, dù bà cất bước đến đâu. Nhưng con khác bay qua, cánh khẽ lướt vào bà. Chung quanh bà, không trung chỉ còn là những lời than vãn và oán trách.

Nỗi lo sợ của chính bà làm cho bà cởi mở tấm lòng. Bà hiểu hơn bao giờ hết những tình cảm của các loài chim. Hoàn toàn như bà, chúng cũng lo lắng đến nhà cửa của chúng, con cái của chúng. Giữa bà và chúng nào có khác gì như cho đến nay bà vẫn tưởng.

Và bà nghĩ đến việc đã quyết định, có thể nói là tước của hàng nghìn thiên nga, vịt trời, chim cốc, nhưng chiếc tổ ấm cạnh hồ Tôkern. Thế là chúng phải biết bao lo lắng! Sau cái việc ấy thì làm sao mà chúng có thể nuôi nấng và dạy dỗ con cái chúng được? Bà đứng im lặng, miên man suy nghĩ. Thoạt mới nhìn thì hình như biến một cái hồ thành đất trồng trọt và đồng cỏ là một việc hữu ích và tốt lành, nhưng mà cũng phải có một cái hồ nào khác hồ Tôkern, một cái hồ mà không có một số chim đông đến như thế này cư trú chứ.

Bà nhớ rằng ngay ngày mai đây thôi, người ta sẽ quyết định tát cạn hồ Tôkern và bà tưởng là đã thấy trong việc này một lý do của việc con bà bị mất tích. Bà vội vàng chạy về trại, và nói ngay cho chồng nghe cái điều mà bỗng nhiên bà nghĩ ra. Bà nói với chồng về cái hồ, về các loài chim và bà nói với chồng rằng cái chết của Per Ôla phải là một sự trừng phạt của Chúa cho hai vợ chồng họ. Và tức thì, bà thấy chồng cũng cùng ý nghĩ như bà. Họ đã có một dinh cơ lớn, nhưng nếu việc tát cạn hồ mà hoàn thành thì phần lớn đất đai thu được ở đây sẽ thuộc về họ và sản nghiệp của họ sẽ tăng lên gần gấp đôi. Bởi thế mà họ đã thúc giục việc thực hiện dự định này hăng hái hơn bất kỳ một người nào trong số các cư dân ven hồ.

Thế là người chồng đứng lặng, tự hỏi có nên xem là một ý Chúa, cái việc hồ Tôkern đã bắt mất con trai họ ngay hôm trước cái ngày mà họ định ký hợp đồng về việc tát cạn hồ không. Vợ ông ta chẳng cần phải nói gì nhiều, thì ông ta đã trả lời:

– Có thể là Chúa không muốn chúng ta xen vào cái mà chính Chúa đã an bài. Mai tôi sẽ nói với những người kia, và tôi tin chắc rằng chúng ta sẽ quyết định là hiện nay không nên thay đổi chút gì cả.

Hồ Tôkern nay vẫn còn, rộng 44 km2, chỉ sâu có 1 m, nhưng chim vẫn đông như xưa.

Trong khi ông bà chủ bàn về dự định tát cạn cái hồ, thì Kaêxar nằm trước lò sưởi. Nó ngửng đầu lên và lắng tai nghe hết sức chăm chú. Khi nó đã chắc rằng việc nó làm là đúng, nó chạy đến phía bà chủ; nó đớp lấy váy bà, cắn vào hai hàm răng, và cứ thế đưa bà ra đến cửa.

– Gì thế, Kaêxar! Bà vừa nói vừa muốn gỡ ra. Rồi bỗng nhiên bà kêu lên: – Mày biết Per Ôla ở đâu à?

Kaêxar sủa một tiếng vui mừng và đâm bổ vào cánh cửa, rồi chạy thẳng về phía hồ Tôkern và bà chủ thì lao theo sau.

Và thế là chưa đến bờ hồ đã nghe tiếng một đứa trẻ khóc ở phía hồ. Per Ôla đã sống cái ngày thích thú nhất trong đời nó cùng với chú bé Tí Hon và đàn chim, nhưng giờ đây nó bỗng khóc, vì nó đói và sợ đêm tối. Khi mẹ nó và Kaêxar đến tìm nó thì nó cảm thấy sung sướng đến lạ thường.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.