Đảo kinh hoàng

Ngày Thứ Nhất



Rachel

CHA CỦA TEDDY DANIELS là một ngư dân. Ông đã mất chiếc thuyền của mình cho nhà băng vào năm 1931 khi Teddy mới mười một tuổi và dành cả phần đời còn lại làm thuê cho các thuyền đánh cá khác khi họ cần, làm công việc dỡ hàng trên bến cảng khi không có ai thuê, rồi đi bộ suốt quãng đường dài để trở về nhà vào lúc mười giờ sáng, ngồi xuống chiếc ghế bành nhìn chằm chằm vào đôi bàn tay, thỉnh thoảng lại lẩm bẩm một mình, đôi mắt mênh mông và u tối. Ông đã cho Teddy ra các hòn đảo khi cậu còn rất nhỏ, quá nhỏ để có thể giúp đỡ được gì trên thuyền. Tất cả những gì cậu bé có thể làm là tháo dây móc và buộc lại cần câu. Cậu đã cắt vào tay mình vài lần, máu lấm tấm trên các đầu ngón tay và chảy hoen xuống lòng bàn tay.

Họ đi vào lúc trời còn tối và khi mặt trời ló dạng, một màu ngà lạnh lẽo nhô lên từ rìa biển, những hòn đảo hiện ra trong lớp bụi mờ, nằm túm tụm lại với nhau như đang bị bắt quả tang âm mưu một chuyện gì. 

Teddy nhìn thấy những cái lán nhỏ màu tùng lam xếp thành hàng trên một bãi biển, khu điền trang bằng đá vôi đổ nát trên một bãi biển khác. Cha cậu chỉ cho cậu nhà tù trên đảo Deer và pháo đài quân sự của bang trên đảo Georges. Trên đảo Thompson là những thân cây cao đầy chim chóc với tiếng kêu rào rào như tiếng mưa đá hay tiếng thủy tinh vỡ. 

Tách ra khỏi những hòn đảo này là một hòn đảo có tên gọi là đảo Shutter, trông giống như một đồng tiền galleon của Tây Ban Nha bị tung xuống biển. Lúc đó, vào mùa xuân năm 1928, hòn đảo vẫn còn rậm rịt cây cối, và tòa pháo đài trải dài trên mũi đá cao nhất đảo bị dây leo thít chặt và bao phủ bởi những đám rêu mốc khổng lồ. 

“Sao nó lại được gọi là Shutter?” Teddy hỏi.

Cha cậu nhún vai. “Con và các câu hỏi của con. Lúc nào cũng là những câu hỏi.”

“Ôi, nhưng tại sao ạ?”

“Có những nơi được đặt một tên rất tình cờ và rồi dính liền với tên gọi đó. Có thể là do những tên cướp biển.” 

“Những tên cướp biển ư?” Teddy thích cái âm thanh của từ đó. Cậu có thể thấy họ, những người đàn ông to lớn với dải băng bịt mắt, đôi ủng cao, và thanh gươm sáng quắc.

Cha cậu nói, “Đó là nơi trước đây chúng lẩn trốn.” Tay ông vung về phía chân trời. “Những hòn đảo ấy. Chúng lẩn trốn và chôn giấu tiền vàng ở đó.”

Teddy tưởng tượng ra những rương vàng với ăm ắp tiền vàng tràn ra khắp phía. Sau đó cậu bị say, cậu nôn thốc nôn tháo xuống biển nhiều lần từ mạn thuyền của cha cậu.

Cha cậu rất ngạc nhiên vì hàng giờ trước đó trong suốt chuyến đi Teddy đã không nôn ọe mà chỉ bắt đầu khi đại dương đang lúc êm ả, lấp lánh trong một cơn tĩnh lặng của riêng mình. Cha cậu nói, “Không sao. Đó là lần đầu tiên của con. Không có gì đáng xấu hổ cả.”

Teddy gật đầu và lau miệng bằng chiếc khăn cha cậu đưa cho. Cha cậu bảo, “Đôi khi có một sự vận động cơ học mà con không thể nào cảm nhận được cho tới khi nó dâng trào trong người con.”

Thêm một cái gật đầu vì Teddy không tài nào nói cho cha cậu rằng không phải sự vận động cơ học đã làm bụng cậu cồn cào.

Tất cả chỉ tại đám nước này. Trải ra mênh mông xung quanh họ cho tới khi nó là thứ duy nhất còn sót lại của thế giới. Không hiểu sao Teddy tin rằng nó thậm chí còn có thể nuốt chửng cả bầu trời. Trước cái phút giây nôn thốc nôn tháo đó, cậu chưa hề nghĩ tới sự đơn độc này.

Cậu ngước nhìn cha mình, mắt cậu ướt và đỏ quạch, cha cậu nói, “Con sẽ ổn thôi,” và Teddy cố gắng mỉm cười.

Mùa hè năm 1938, cha cậu đi theo một con tàu săn cá voi ở Boston và không bao giờ trở về nữa. Mùa xuân sau đó, những mảnh vỡ còn sót lại của chiếc thuyền dạt vào bờ biển Nantasket ở thị trấn Hull nơi Teddy lớn lên. Một mảnh ván thuyền, một mẩu kim loại có khắc tên thuyền trưởng, những hộp xúp cà chua và khoai tây, hai cái bẫy tôm hùm méo mó và thủng lỗ chỗ.

Người ta tổ chức tang lễ cho bốn thuyền viên tại nhà thờ St. Theresa, lưng quay ra chính cái bờ biển đã cướp đi sinh mạng rất nhiều giáo dân của nó và Teddy đứng đó cùng với mẹ cậu lắng nghe những lời tưởng nhớ tới thuyền trưởng con tàu, người bạn đồng hành thứ nhất của ông và thuyền viên thứ ba trên tàu, một thủy thủ lão luyện tên là Gil Restak, vốn là nỗi kinh hoàng đối với các quán bar trong thị trấn Hull kể từ khi ông trở về sau Đại chiến với một gót chân đầy thương tích và những hình vẽ xấu xí nhung nhúc trên đầu. Mọi chuyện được tha thứ khi người ta chết đi, một trong những người pha đồ uống tại quán bar từng bị ông làm cho khiếp sợ nói.

Chủ chiếc thuyền, Nikos Costa thừa nhận rằng ông ấy gần như không biết gì về cha của Teddy, người mà ông nhận thuê trong những phút cuối cùng khi một thủy thủ bị gẫy chân vì ngã từ xe tải xuống. Tuy nhiên, vị thuyền trưởng đã nói những lời hết sức tốt đẹp về ông, rằng tất cả mọi người trong thị trấn này đều biết ông ấy có thể làm tốt công việc của một thủy thủ. Và đó không phải là lời khen ngợi cao quý nhất mà một người có thể dành cho người khác hay sao? Đứng trong nhà thờ, Teddy nhớ đến cái ngày ở trên thuyền của cha cậu hôm đó vì họ không còn ra biển cùng nhau lần nào nữa. Cha cậu vẫn cứ nói là họ sẽ còn đi nhưng Teddy biết ông nói thế chỉ để con trai mình giữ lại chút kiêu hãnh. Cha cậu không bao giờ thừa nhận chuyện đã xảy ra ngày hôm ấy nhưng hai cha con đã trao đổi một cái nhìn trên đường quay về, khi trở lại qua những hòn đảo nối đuôi nhau đó, với đảo Shutter đã lùi lại phía sau và đảo Thompson vẫn còn ở phía trước, khi hình dáng thành phố in trên nền trời trở nên thật cận kề và rõ nét khiến ta tưởng ta có thể nâng cả chóp của một tòa nhà. 

“Biển cả là thế đấy,” cha cậu nói, một tay khẽ xoa lưng cậu khi cả hai đang đứng dựa lưng vào đuôi tàu. “Có những người tìm tới nó. Có những người nó sẽ mang đi.” Và ông nhìn Teddy với một cái nhìn khiến cậu hiểu rằng cậu sẽ trở thành loại người nào khi lớn lên.

VÀO NĂM 1954, để tới được đó, họ phải đi phà từ thành phố, vượt qua một loạt những hòn đảo nhỏ vốn bị quên lãng như Thompson, Spectacle, Grape, Bumpkin, Rainford, và Long, bám chắc lấy mặt biển trống trải bằng những cồn cát cứng, những cây gai và những quần thể đá trắng như xương người. Ngoại trừ hai chuyến vận chuyển cố định vào thứ Ba và thứ Bảy thì con phà không có một lịch trình cụ thể nào. Con phà chẳng còn gì ngoài một lớp sàn bằng tấm phủ kim loại và hai cái ghế băng sắt kê dưới cửa sổ. Hai cái ghế này được bắt chặt vào sàn và vào hai chiếc cột lớn màu đen ở cả hai đầu với một đống khóa tay và xiềng xích treo ở phía trên. 

Hôm nay con phà không chở bệnh nhân tới viện mà chỉ có Teddy và người đồng sự mới của anh, Chuck Aule, với mấy cái túi vải bạt đựng thư từ và vài thùng thuốc men cung ứng. 

Teddy khởi đầu chuyến đi bằng việc quỳ gối trong nhà vệ sinh, gục đầu vào bồn rửa khi động cơ của con tàu kêu bình bịch và phát ra những tiếng lách cách, khi mũi anh tràn ngập thứ mùi oi nồng của xăng dầu và mùi biển cả vào cuối mùa hè. Anh chẳng nôn ra gì ngoài một ít nước nhưng cổ họng không ngừng thắt lại, bụng cồn cào, dạ dày quặn lên quặn xuống và không khí trước mặt cứ xoay tròn với những hạt bụi nhấp nháy như mắt người. 

Cơn nôn ọe cuối cùng kết thúc bằng một quả cầu oxy bị nén thoát ra khỏi miệng và nổ tung, dường như mang theo cả một phần lồng ngực của anh. Teddy ngồi thụp xuống sàn tàu kim loại, lau mặt bằng chiếc khăn mùi soa và nghĩ đây thật không phải là cách thích hợp để khởi đầu một mối quan hệ đối tác.

Anh có thể tưởng tượng ra cảnh Chuck sẽ kể với vợ anh ta khi trở về nhà – nếu như anh ta có vợ; Teddy thậm chí cũng chưa biết nhiều về anh ta tới mức đó – về cuộc gặp gỡ đầu tiên với huyền thoại Teddy Daniels rằng: “Em yêu, anh ấy khoái anh đến nỗi nôn cả ra tàu.”

Kể từ cái chuyến đi biển ngày còn bé đó, Teddy chưa bao giờ cảm thấy thích thú với sông nước và không vui vẻ gì với sự thiếu vắng đất đai, với cảnh không nhìn thấy mặt đất, thứ mà ta có thể vươn tay ra, chạm vào nó mà không bị mất hút đi. Anh tự trấn an mình rằng chuyện đó không có gì đáng lo ngại vì đó là điều hiển nhiên khi đi qua một thực thể bằng nước, nhưng sự thật lại không phải vậy. Ngay cả trong chiến tranh, đối với anh việc tập kích hàng giờ trên các bãi biển không đáng sợ bằng những mét cuối cùng khi thuyền sắp cập bến, khi phải thò chân xuống nước để lội vào bờ và những sinh vật lạ bắt đầu chui vào trong ủng.

Dù vậy, anh vẫn muốn đứng trên boong, hít thở không khí trong lành hơn là ngồi ở đây dưới sàn tàu tròng trành và nóng tới phát bệnh.

Khi chắc rằng cơn buồn nôn đã qua hẳn, khi dạ dày không còn nổi bong bóng và đầu không còn dập dềnh nữa thì anh rửa tay và mặt, xem lại bộ dạng bên ngoài của mình trong tấm gương nhỏ treo phía bên trên bồn rửa đã bị muối biển ăn mòn gần hết trông giống như có một đám mây nhỏ ở giữa mà Teddy cố lắm mới nhìn ra hình ảnh phản chiếu của mình, một người đàn ông tương đối trẻ, tóc húi cua theo kiểu người đi làm công vụ. Nhưng gương mặt anh đã hằn lên những chứng tích của chiến tranh và năm tháng, còn đôi mắt thì phản chiếu niềm ham mê đối với những cuộc truy đuổi và bạo lực mà Dolores đã có lần ví nó với đôi mắt của một con sói nhớ rừng. Mình còn quá trẻ để có cái vẻ khắc khổ ấy, Teddy nghĩ.

Anh chỉnh lại dây lưng để cho súng và bao súng sang bên cạnh hông. Anh lấy chiếc mũ trên nắp bồn cầu và đội lên đầu, sửa lại vành mũ hơi vểnh lên phía bên phải. Anh thắt lại cà vạt. Đó là một trong những chiếc cà vạt hoa lòe loẹt lỗi thời nhưng anh vẫn đeo vì cô ấy đã tặng nó cho anh, thả nó xuống trước mặt anh vào một lần sinh nhật khi anh đang ngồi trong phòng khách. Môi cô áp vào yết hầu trên cổ anh. Một bàn tay đặt trên má anh ấm áp. Lưỡi cô có vị cam. Rồi cô trượt vào lòng anh, tháo chiếc cà vạt anh đang đeo ra, Teddy vẫn nhắm mắt. Lặng lẽ hít thở mùi hương của cô. Tưởng tượng cô. Tạo ra hình ảnh cô trong đầu anh và giữ cô lại đó. 

Anh vẫn có thể làm được chuyện đó, chỉ cần nhắm mắt lại và anh lại thấy cô. Nhưng rồi những vệt màu trắng sẽ bắt đầu làm mờ đi phần nào đó, một bên dái tai, hàng lông mi, hay đường viền mái tóc cô. Điều đó vẫn chưa đủ để che mờ cô nhưng Teddy sợ rằng thời gian sẽ lấy cô đi khỏi anh, sẽ nghiền nát những khung ảnh trong đầu anh, làm chúng tiêu tan.

“Anh nhớ em,” anh nói và bước ra ngoài boong trước. 

Ở đây trời ấm và trong trẻo nhưng mặt nước như được dệt bằng những tia sáng màu gỉ sắt sẫm lại giữa một khoảng mênh mông xám nhợt xanh xao, như thể có một vật gì đó đang lớn dần lên từ dưới đáy biển âm u. 

Chuck nhấp một hơi từ chai rượu bỏ túi của mình rồi quay sang phía Teddy, nhướng một bên mày ra hiệu. Teddy lắc đầu, Chuck đút chai rượu vào túi áo khoác, khép lại vạt chiếc áo khoác ngoài xung quanh hông rồi nhìn ra biển.

“Sếp ổn chứ?” Chuck hỏi. “Trông sếp hơi xanh.”

“Tôi không sao,” Teddy nhún vai trả lời.

“Chắc chứ?”

Teddy gật đầu. “Chỉ là một cơn say sóng thôi.”

Họ đứng im lặng một lúc, biển dập dờn xung quanh họ với những hũ xoáy tối om và mượt như nhung. 

“Cậu có biết trước đây nó từng là một nơi giam giữ tù binh chiến tranh?” Teddy lên tiếng.

“Hòn đảo ư?” Chuck hỏi.

Teddy gật đầu. “Vào thời Nội chiến. Họ xây cả một pháo đài công sự và những doanh trại ở đó.”

“Bây giờ họ làm gì với cái pháo đài công sự ấy?”

Teddy nhún vai. “Không thể nói với cậu được. Chỉ còn lại một vài căn cứ quân sự trên những hòn đảo khác nhau. Phần lớn chúng là mục tiêu tập trận pháo kích trong thời kỳ chiến tranh. Giờ cũng chẳng còn lại mấy.”

“Thế còn bệnh viện thì sao?”

“Những gì mà tôi có thể nói là họ sử dụng các trụ sở quân đoàn cũ.”

“Ôi thế thì giống như là chúng ta đang quay lại căn cứ ấy nhỉ, hừm?”

“Đừng dại mà nghĩ thế.” Teddy quay lưng lại phía lan can tàu. “Thế cậu tới đây làm gì hả Chuck?”

Chuck mỉm cười. Anh ta to hơn nhưng thấp hơn Teddy một chút, có lẽ cao khoảng 1m75, tóc xoăn màu đen cắt gọn gàng, nước da màu ô liu và đôi bàn tay mảnh dẻ, thanh tú dường như trái ngược hẳn với phần còn lại của con người, như thể anh ta đã đi mượn chúng trong lúc chờ đợi hai bàn tay thật của mình được làm xong. Bên phía má trái có một vết sẹo nhỏ và anh ta gõ gõ ngón tay trỏ lên đó. 

“Tôi luôn bắt đầu bằng câu chuyện về vết sẹo này,” anh ta nói. “Sớm muộn gì thì mọi người cũng sẽ hỏi tới nó.”

“Được thôi.”

“Không phải là từ chiến tranh đâu,” Chuck nói. “Bạn gái tôi bảo rằng tôi nên nói là thế cho nó xong chuyện, nhưng…” Anh ta nhún vai. “Dù nó cũng là do chơi trận giả. Khi tôi còn bé. Tôi và những đứa trẻ khác bắn nhau bằng súng cao su ở trong rừng. Viên đá của bạn tôi đã trượt nên tôi mới ổn thế này chứ, đúng không?” Anh ta lắc đầu trước khi nói tiếp. “Viên đá của cậu ấy trúng vào một thân cây, một mảnh gỗ bay vào má tôi. Tôi đã có vết sẹo như thế đấy.”

“Do chơi trận giả.”

“Do chơi trận giả, đúng thế.”

“Cậu thuyên chuyển từ Oregon tới à?”

“Từ Seattle. Mới chỉ tuần trước.”

Teddy chờ đợi nhưng Chuck không giải thích gì thêm. 

“Cậu gia nhập đội tầm nã tội phạm được bao lâu rồi?”

“Bốn năm.”

“Vậy là đã đủ biết nó nhỏ bé thế nào.”

“Phải. Sếp muốn biết vì sao tôi bị thuyên chuyển đúng không?” Chuck khẽ gật đầu như thể vừa đưa ra một quyết định quan trọng. “Nếu tôi nói là do tôi đã chán ngấy cái cảnh mưa gió thì sao?”

Teddy ngửa lòng bàn tay lên trên lan can. “Nếu cậu nói vậy…”

“Nhưng nó đúng là nhỏ, như sếp nói. Trong lực lượng, mọi người đều biết nhau. Rồi cuối cùng là những, họ gọi chúng là gì nhỉ, những lời đồn thổi.”

“Cũng là một cách gọi.”

“Sếp đã tóm được Breck, đúng không?”

Teddy gật đầu.

“Làm thế nào mà sếp lại biết hắn sẽ đến đâu? Năm mươi người truy lùng hắn, tất cả bọn họ đều đi tới Cleveland. Còn sếp lại tới Maine.”

“Hắn đã một lần tới đó nghỉ hè với gia đình lúc còn nhỏ. Những gì hắn làm với các nạn nhân là những hành động người ta chỉ làm với ngựa. Tôi có nói chuyện với một bà dì của hắn. Bà ấy kể rằng lần duy nhất hắn cảm thấy hạnh phúc là khi hắn ở trong một trang trại nuôi ngựa gần nhà nghỉ của gia đình hắn ở Maine. Và thế là tôi tới đó.” 

“Và tặng cho hắn năm phát,” Chuck nói và nhìn xuống đám bọt biển dưới mũi tàu. 

“Lẽ ra phải bắn hắn thêm năm phát nữa,” Teddy nói. “Nhưng chỉ cần đến năm phát.”

Chuck gật đầu và nhổ một bãi nước bọt qua thành tàu. 

“Bạn gái của tôi là người Nhật. Sinh ra ở đây, nhưng sếp biết đấy… Lớn lên trong một trại tập trung. Nhiều nơi tình hình vẫn căng thẳng, Portlan, Seattle, Tacoma. Chẳng ai muốn nhìn thấy tôi với cô ấy.”

“Nên họ đã thuyên chuyển cậu.”

Chuck lại gật đầu, nhổ nước miếng rồi nhìn nó rơi lẫn vào trong đám bọt biển sục ngầu.

“Họ nói rằng nó sẽ rất mạnh,” anh ta nói.

Teddy nhấc cùi tay khỏi lan can tàu và đứng thẳng lên. Mặt anh nhớp nhúa, môi mằn mặn. Vì một lý do nào đó mà biển cả đã xoay sở để tìm thấy anh và anh đã không chống đỡ nổi khi bị một cú bụi nước táp vào mặt.

Anh sờ túi áo khoác ngoài để tìm bao thuốc lá hiệu Chesterfields của mình. “ ‘Họ’ là ai? Và ‘nó’ là cái gì?”

“Họ là những người viết các bản dự báo thời tiết,” Chuck nói. “Và nó là cơn bão. Một cơn bão mạnh, họ bảo thế. Rất mạnh.” Anh ta vẫy tay về phía bầu trời xanh xao, nhợt nhạt như đám bọt nước đang ngầu lên dưới mũi thuyền. Nhưng ở đó, dọc theo đường chân trời phía Nam những cụm mây màu đỏ tía như những miếng gạc đang tạo thành một đường viền mảnh mai rồi to dần lên như những vết mực. 

Teddy hít không khí vào trong lồng ngực. “Cậu nhớ chiến tranh chứ Chuck?” Chuck mỉm cười theo cái cách mà Teddy ngờ rằng hai người bọn họ đã tìm được sự đồng điệu và có thể đọc thấu tâm can nhau. 

“Một chút,” Chuck nói. “Hình như tôi nhớ tới các đống đổ nát. Vô số đống đổ nát. Con người cứ hay gièm pha các đống đổ nát nhưng tôi cho rằng nó có vị thế riêng. Có vẻ đẹp thẩm mỹ riêng. Tất cả đều phụ thuộc vào con mắt của người nhìn nó.”

“Cậu nói cứ như một tiểu thuyết gia rẻ tiền. Đã có ai nói với cậu điều đó chưa?”

“Nó cứ tự tuôn ra,” Chuck nói và lại tặng cho biển cả một nụ cười lặng lẽ, đoạn dựa lưng vào mũi tàu và duỗi người ra.

Teddy vỗ vỗ túi quần rồi lục chiếc túi bên trong áo vest. “Chắc cậu nhớ các báo cáo thời tiết đã tác động tới các quyết định ra quân của chúng ta như thế nào?”

“Có, tôi có nhớ,” Chuck vừa nói vừa lấy cùi tay xoa xoa lớp ria mọc lởm chởm trên cằm.

“Thế cậu có nhớ độ chính xác của các bản dự báo đó không?” Chuck nhíu mày như thể muốn Teddy biết là anh ta đang xem xét câu hỏi này một cách nghiêm túc. Rồi anh ta khẽ chép miệng và nói, “Khoảng ba mươi phần trăm, tôi đoán thế.”

“Tối đa là vậy.”

“Phải, tối đa,” Chuck gật gù.

“Vậy thì giờ đây, trở lại với thế giới như chúng ta đang…”

“Ối, như chúng ta đang nương náu, có thể nói như vậy.”

Teddy cố nén một nụ cười, cảm thấy rất khoái chàng trai này. Nương náu. Lạy Chúa tôi. 

“Ừ thì nương náu,” Teddy đồng tình. “Thế thì tại sao bây giờ cậu lại trở nên tin tưởng vào các bản dự báo thời tiết hơn trước đây?”

“Ừm,” Chuck nhìn thấy cái mỏm hơi lõm của một hình tam giác đang nhô lên phía chân trời. “Tôi cũng không chắc lòng tin của tôi thì có thể đo đếm được theo kiểu tăng hay giảm. Sếp có muốn làm một điếu không?”

Teddy dừng lại trong giây lát sờ tay vào các túi và phát hiện ra Chuck đang quan sát mình, một nụ cười láu lỉnh ngoác tới tận mang tai, ngay dưới vết sẹo.

“Tôi vẫn còn chúng khi lên tàu cơ mà,” Teddy nói.

Chuck nhìn qua vai anh. “Các nhân viên chính phủ. Cướp lúc nào không biết.” 

Chuck lắc ra một điếu từ bao thuốc hiệu Lucky của anh ta và đưa cho Teddy rồi châm lửa cho anh với chiếc bật lửa Zippo bằng đồng thau, mùi hôi của dầu hỏa lẫn vào mùi không khí mằn mặn xông vào cổ họng Teddy. Chuck đóng chiếc bật lửa, rồi lại bật lên bằng một cái vẩy cổ tay điệu nghệ và châm cho mình một điếu.

Teddy thở hắt ra, trong vài giây, cái đỉnh tam giác của hòn đảo chợt biến mất giữa làn khói thuốc. 

“Ở nước ngoài,” Chuck nói, “khi dự báo thời tiết tuyên bố khả năng đổ bộ của quân dù hay hành quân tới vị trí tập kết thì rõ ràng có nhiều sự rủi ro hơn đúng không?” 

“Đúng vậy.”

“Còn ở trong nước thì rủi ro chỉ là một chút lung lạc niềm tin thôi phải không? Đó là tất cả những gì tôi muốn nói, sếp.”

Hòn đảo bắt đầu hiện ra rõ hơn, không chỉ còn là một mẩu tam giác nhỏ, phần đáy bắt đầu lớn dần cho tới khi biển lại trải dài phía bên kia nó. Họ có thể nhìn thấy những sắc màu giống như những nét cọ vẽ, màu xanh lặng lẽ của cây cỏ mọc hoang, màu vàng rám nắng của dải bờ biển, màu nâu xám xịt trên bề mặt vách đá phía Bắc. Và trên đỉnh, khi tiến lại gần, họ bắt đầu trông thấy những đường vuông góc của các tòa nhà.

“Thật đáng tiếc,” Chuck nói.

“Cái gì cơ?”

“Cái giá của sự phát triển.” Anh ta đặt một chân lên đoạn dây chão dùng để neo thuyền rồi dựa lưng vào lan can tàu bên cạnh Teddy và cùng ngắm hòn đảo đang dần định hình. “Với những bước nhảy vọt – và những bước nhảy vọt vẫn đang diễn ra, đừng đùa, diễn ra hàng ngày ấy chứ – trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe thì một nơi như thế này sẽ không còn tồn tại nữa. Hai mươi năm sau người ta sẽ gọi một chỗ như thế này là man rợ. Một thứ phụ phẩm tai hại của ảnh hưởng Victoria đã lỗi thời. Nên dẹp nó đi, người ta sẽ nói thế. Sự hòa nhập, người ta cũng nói vậy. Sự hòa nhập là mệnh lệnh ngày nay. Các bạn được hoan nghênh đến với cộng đồng. Chúng tôi sẽ chữa trị cho các bạn. Tái thiết các bạn. Tất cả chúng tôi đều là Đặc vụ Quốc gia. Chúng ta là một xã hội mới, và ở đây không có chỗ cho sự loại trừ. Không có những chiếc máy xung điện Elbas.” 

Các tòa nhà lại biến mất sau đám cây cối nhưng Teddy vẫn có thể nhận ra hình dáng mờ mờ của một tòa tháp hình nón rồi đến những góc cạnh rắn rỏi nhô ra ngoài mà anh cho là của pháo đài cũ.

“Nhưng chúng ta sẽ mất quá khứ của mình để đảm bảo cho tương lai?” Chuck khẽ gẩy tàn thuốc xuống đám bọt biển. “Vấn đề là ở đó? Sếp sẽ mất gì khi quét một cái sàn nhà hả Teddy? Bụi bặm. Những mẩu bánh vụn mà có khi sẽ thu hút cả lũ kiến. Nhưng một chiếc khuyên tai mà cô ấy đánh rơi thì sao? Nó cũng nằm trong thùng rác đúng không?”

“ ‘Cô ấy’ là ai? Cái từ ‘cô ấy’ bỗng dưng xuất hiện từ đâu vậy Chuck?” Teddy hỏi.

“Lúc nào chẳng có một cô nào đó. Không đúng sao?”

Teddy nghe thấy tiếng rền rĩ của động cơ thay đổi tần số sau lưng họ, cảm thấy con phà hơi tròng trành dưới chân và anh có thể nhìn thấy tòa pháo đài hiện lên rõ hơn trên đỉnh vách đá phía Nam khi họ đi vòng sang phía Tây của hòn đảo. Những khẩu đại bác đã không còn nhưng Teddy vẫn có thể dễ dàng nhận ra vị trí các ụ pháo. Phía sau pháo đài, mặt đất cao dần thành những ngọn đồi mấp mô và Teddy hình dung ra những bức tường, nhìn không được rõ lắm từ chỗ anh đang đứng, và bệnh viện Ashecliffe nằm đâu đó sau những vách đá dựng đứng nhìn xuống phía bờ Tây. 

“Sếp cũng có một cô gái chứ? Sếp có vợ chưa?” Chuck hỏi.

“Đã từng,” Teddy nói và hình dung ra Dolores, cái cách cô nhìn anh trong tuần trăng mật của họ, khi cô quay đầu lại, chiếc cằm gần như chạm vào bờ vai trần của cô và những cơ bắp chuyển động dưới lớp da ở gần xương sống. “Cô ấy đã qua đời.” 

Chuck rời khỏi thành tàu, cổ anh đỏ lựng lên. “Ôi, Chúa ơi.”

“Không sao,” Teddy nói.

“Ồ không, không.” Chuck đặt bàn tay lên ngực Teddy. “Chuyện đó… Tôi có nghe nói. Không hiểu tại sao tôi lại có thể quên được. Vài năm trước đây đúng không?”

Teddy gật đầu.

“Chúa ơi, Teddy. Tôi thấy mình giống như một thằng ngốc. Thật đấy. Tôi xin lỗi.” 

Teddy lại nhìn thấy cô, lưng xoay về phía anh khi cô bước xuống tầng trệt của căn hộ, mặc một trong những chiếc áo sơ mi đồng phục cũ kỹ của anh, vừa đi vừa hát trước khi rẽ vào bếp, và khắp người anh lại tràn ngập một nỗi đau đớn rã rời, thấu tận xương tủy. Anh thà làm bất cứ chuyện gì – thậm chí bơi trong cái đám nước kia – còn hơn là nói về Dolores và về cái thực tế đau lòng là cô chỉ tồn tại vẻn vẹn ba mốt năm trên cõi đời này mà thôi. Chỉ có bằng ấy thời gian. Khi anh đi làm vào buổi sáng, cô còn có mặt. Nhưng buổi chiều, khi anh trở về thì cô đã ra đi. Nhưng nó cũng giống như vết sẹo của Chuck, anh nghĩ, một câu chuyện không thể đừng được trước khi họ có thể chuyển sang đề tài khác. Nếu không nó sẽ luôn luôn tồn tại giữa hai người những câu hỏi thế nào, ở đâu và tại sao?

Dolores đã qua đời được hai năm nhưng cô vẫn sống lại hàng đêm trong những giấc mơ của anh, và đôi khi mỗi sáng sớm anh vẫn mất một lúc lâu để tưởng rằng cô vẫn đâu đó trong bếp hay đang uống cà phê trên bậu cửa trước căn hộ của hai người ở Buttonwood. Đó là một trò đùa tàn nhẫn của trí óc, đúng thế, nhưng Teddy từ lâu đã chấp nhận cái logic của nó, việc thức dậy, xét cho cùng, cũng gần như trạng thái mới được sinh ra. Bạn tỉnh giấc không tiềm thức, chớp mắt và ngáp như lúc mới sinh rồi sắp xếp các mảnh vỡ theo thứ tự thời gian trước khi chuẩn bị bản thân cho hiện tại. 

Nhưng tàn nhẫn hơn rất nhiều là cái cách một danh sách tưởng như phi logic gần những đồ vật có thể châm ngòi cho những ký ức về vợ anh đã được cài vào đầu anh như một que diêm. Mà anh thì không bao giờ biết được đó sẽ là vật gì, đôi khi là một lọ muối, dáng đi của một người phụ nữ lạ trên phố đông, một chai Coca Cola, một vệt son môi trên miệng cốc, một chiếc gối ôm. 

Nhưng trong tất cả những ngòi nổ đó, không có gì kém logic hơn xét về mặt liên kết, và không có gì cay độc hơn, xét về mặt tác động, so với nước, những giọt nước đang rỉ ra từ vòi, rơi tí tách từ bầu trời, ứ lại trên vỉa hè, hay như lúc này đây, trải ra xung quanh anh hàng dặm, từ mọi phía. 

Anh nói với Chuck: “Có một đám cháy trong tòa nhà chúng tôi ở. Lúc đó tôi đi làm. Bốn người thiệt mạng. Cô ấy là một trong số đó. Chính khói đã giết chết cô ấy, Chuck, chứ không phải là ngọn lửa. Điều đó có nghĩa là cô ấy đã không chết trong đau đớn. Còn sợ hãi? Có thể. Nhưng không đau đớn. Điều đó rất quan trọng.”

Chuck lại làm thêm một hơi từ chai rượu của mình và giơ nó ra mời Teddy lần nữa. Teddy lắc đầu. “Tôi bỏ việc. Sau đám cháy. Cô ấy vẫn thường hay lo lắng về công việc đó, cậu biết không? Và nói rằng tất cả đám quân nhân và cảnh sát chúng ta đều uống quá nhiều. Nên…” Anh có thể cảm thấy Chuck ở bên cạnh, chìm trong hổ thẹn và anh nói, “Cậu sẽ học cách sống chung với những chuyện như thế, Chuck, cậu không có sự lựa chọn nào khác. Như tất cả những thứ rác rưởi mà cậu đã thấy trong chiến tranh. Nhớ chứ?” 

Chuck gật đầu, mắt nheo lại trong giây lát với những ký ức cũ, xa xăm. 

“Đó là điều cậu phải làm,” Teddy nhẹ nhàng nói.

“Vâng,” Chuck cuối cùng cũng lên tiếng, mặt vẫn hơi ửng đỏ.

Chiếc cầu cảng bỗng xuất hiện như một trò chơi khăm của ánh sáng, duỗi dài trên cát, nhìn từ xa trông giống một thanh kẹo cao su màu xám, mong manh. 

Teddy cảm thấy cả người khô kiệt kể từ lúc nôn ọe trong nhà vệ sinh và bắt đầu kiệt sức trong mấy phút trở lại đây, cho dù anh đã cố học cách để sống chung với nó, với cô, với cái sức nặng có thể làm anh suy sụp bất cứ lúc nào. Một cơn đau âm ỉ xuất hiện ở nửa đầu bên trái, ngay dưới mắt anh như thể cái sống của một chiếc thìa cũ đang áp vào đó. Quá sớm để biết rằng liệu đó chỉ là một tác động phụ không đáng kể của sự mất nước, sự khởi đầu của một cơn đau đầu thông thường hay là dấu hiệu đầu tiên của một cái gì đó tồi tệ hơn, những cơn đau nửa đầu đã bám riết lấy anh như một thứ dịch bệnh từ thời niên thiếu, nhiều khi gay gắt tới mức một bên mắt của anh dường như không còn thấy gì trong chốc lát, ánh sáng trở nên đau rát như một cơn mưa đá hay những chiếc đinh sắc nhọn; và một lần, ơn Chúa là mới chỉ một lần nó khiến anh phải nằm liệt giường trong suốt một ngày rưỡi.

Tuy nhiên những cơn đau nửa đầu ấy của anh không bao giờ xuất hiện vào những lúc áp lực công việc căng thẳng mà chỉ sau đó, khi tất cả đã lắng xuống, khi bom đã ngừng rơi và những cuộc truy đuổi đã kết thúc. Những cơn đau tồi tệ nhất thường xuất hiện khi anh ở trong các lán trại tại khu căn cứ hay khu doanh trại kể từ khi cuộc chiến xảy ra, trong các phòng khách sạn hay trên đường quốc lộ khi lái xe về nhà. Ở đây có một cái mẹo mà Teddy đã nhận ra từ lâu rằng anh phải giữ cho mình bận rộn và tập trung. Chúng không thể tóm được anh nếu anh không ngừng chạy.

Anh nói với Chuck, “Cậu đã nghe nói nhiều về chỗ này chưa?”

“Một bệnh viện tâm thần, đó là tất cả những gì tôi biết.”

“Cho những kẻ điên phạm tội,” Teddy nói.

“Nhưng nếu không phải vì thế thì chúng ta cũng chẳng đến đây,” Chuck nói.

Teddy lại bắt gặp anh ta với nụ cười nhăn nhở không thành tiếng như lúc nãy.

“Cậu chẳng bao giờ biết được đâu, Chuck. Trong mắt tôi, cậu trông chẳng ổn định được tới 100%.” 

“Có lẽ trong thời gian chúng ta ở đây, tôi nên đặt trước một giường trong viện để họ giữ cho mình một chỗ cho sau này.”

“Ý tưởng cũng không tồi,” Teddy nói khi tiếng động cơ tàu chợt dừng lại trong giây lát, mũi tàu quay sang bên phải theo luồng nước để đổi hướng rồi động cơ lại được khởi động trở lại, con tàu bắt đầu đi giật lùi về phía cầu cảng, Chuck và Teddy đứng quay mặt ra biển.

“Tôi được biết là ở đây họ sử dụng những phương pháp chữa bệnh cấp tiến,” Teddy nói. 

“Mức độ Đỏ à?”

“Không phải Đỏ,” Teddy nói. “Chỉ là cấp tiến thôi. Giữa hai cái này có một sự khác nhau đấy nhé!”

“Nhưng trong thời buổi này thì cũng chẳng biết được.”

“Đúng là đôi khi cũng không thể biết được thật,” Teddy đồng ý.

“Và cái người phụ nữ bỏ trốn đó?”

“Cũng chẳng biết gì nhiều. Cô ta trốn thoát đêm qua. Tôi có ghi lại tên cô ta trong sổ tay. Chắc là họ sẽ nói cho chúng ta mọi chuyện,” Teddy nói.

Chuck nhìn ra mặt nước xung quanh. “Cô ta đi đâu nhỉ? Bơi về nhà à?”

Teddy nhún vai. “Rõ ràng là các bệnh nhân ở đây đều mắc những chứng hoang tưởng khác nhau.” 

“Tâm thần phân liệt?”

“Phải, tôi đoán thế. Trong bất cứ trường hợp nào thì cậu cũng sẽ không tìm thấy những người mắc bệnh Down thông thường ở đây. Hay những kẻ suốt ngày ngủ vì sợ đường nứt ra khi đi dạo. Với những gì tôi đọc trong hồ sơ thì tất cả các bệnh nhân ở đây, cậu biết không, đều rất điên.”

“Tuy nhiên, theo sếp, trong số họ có bao nhiêu người giả điên? Tôi vẫn luôn tự hỏi mình thế. Sếp có nhớ các bệnh nhân ở Khu Tám mà sếp gặp trong thời kỳ chiến tranh không? Bao nhiêu trong số họ sếp nghĩ rằng thật sự có vấn đề?”

“Tôi chiến đấu cùng với một anh chàng ở Ardennes…”

“Sếp đã ở đó ư?”

Teddy gật đầu. “Anh chàng đó, một hôm thức dậy và bắt đầu nói ngược.”

“Các từ á?”

“Cả câu ấy,” Teddy nói. “Anh ta nói, ‘Trung sĩ, máu nhiều quá có ở đây hôm nay.’ Chiều hôm đó chúng tôi tìm thấy anh ta trong một hố cá nhân, lấy đá tự đập nhiều nhát vào đầu mình. Chỉ đập vào đầu. Liên tục, liên tục. Chúng tôi sững sờ một lúc mới nhận ra là anh ta đang móc mắt mình ra.”

“Sếp nói thế để dọa tôi chứ gì.”

Teddy lắc đầu. “Mấy năm sau tôi có nghe một người kể lại việc anh ta tình cờ gặp một gã mù trong một bệnh viện cựu chiến binh ở San Diego. Vẫn nói ngược và mắc một chứng liệt mà không bác sĩ nào chuẩn ra nguyên nhân, cả ngày ngồi trên xe lăn bên cửa sổ và nói chuyện mùa màng, rằng anh ta phải đi thu hoạch mùa vụ của mình. Vấn đề là, anh chàng đó lớn lên ở Brooklyn.”

“Rồi, một anh chàng ở Brooklyn lại nghĩ rằng anh ta là nông dân, tôi đoán là anh ta thuộc Khu Tám.”

“Đó là một dấu hiệu, chắc thế.”

PHÓ GIÁM ĐỐC TRẠI GIAM MCPHERSON đón họ tại cầu tàu. Trông ông ta trẻ hơn so với chức vị của mình, mái tóc vàng cắt hơi ngắn hơn thường lệ và các cử động của ông ta toát lên một vẻ duyên dáng thanh thoát khiến Teddy liên tưởng tới người Texas hay những người học cưỡi ngựa từ bé. 

Xung quanh ông ta là một đám hộ lý, phần lớn là người da đen, chỉ có vài gã da trắng với những khuôn mặt u mê như thể họ từng là những đứa trẻ đói ăn và vẫn mang cái vẻ còi cọc, khắc khổ cho tới bây giờ.

Những người hộ lý mặc áo sơ mi và quần màu trắng, đi thành nhóm. Họ gần như không thèm nhìn Teddy và Chuck. Họ gần như chẳng thèm nhìn bất cứ cái gì mà chỉ di chuyển từ cầu cảng tới con phà để chờ dỡ hàng hóa. 

Teddy và Chuck xuất trình thẻ theo quy định và McPherson xem xét chúng một cách kỹ càng, hết nhìn họ rồi lại nhìn bức ảnh trong thẻ chứng minh, mắt nheo lại.

“Tôi không dám chắc là tôi đã từng được nhìn thấy một cái thẻ của đặc vụ Mỹ,” ông ta nói.

“Giờ thì ông nhìn thấy những hai cái.” Chuck nói. “Một ngày trọng đại.”

Ông ta mỉm cười với Chuck một cách uể oải rồi đưa lại thẻ cho anh ta. 

Bãi biển trông có vẻ bị sóng đánh dồn dập trong vài đêm gần đây, đầy vỏ sò, cành cây trôi giạt, xác động vật thân mềm và cá chết đã bị ăn mất phân nửa bởi những loài ăn xác thối. Teddy để ý tới những thứ rác rưởi có lẽ bị gió thổi từ trong vịnh ra, những vỏ đồ hộp, những cuộn giấy sũng nước, một cái biển xe bị đánh bật về phía hàng cây đã bị nắng làm cho bợt màu và mờ hết số. Cây cối ở đây phần lớn là thông và thích trông còi cọc, xơ xác. Từ đây, Teddy cũng có thể nhìn thấy những tòa nhà lấp ló sau hàng cây trên đỉnh đồi.

Dolores vốn thích tắm nắng có thể sẽ yêu nơi này, còn Teddy thì chỉ cảm thấy những làn hơi nước thổi liên hồi từ phía đại dương như một lời cảnh cáo rằng biển cả có thể tấn công bất cứ khi nào nó muốn, và nhấn chìm bạn xuống dưới đáy. 

Những người hộ lý trở lại từ phía cầu tàu với các thùng thư và thuốc, chất chúng lên những chiếc xe đẩy và McPherson ký nhận những thứ vừa được giao vào một tờ giấy kẹp trên bảng nhựa rồi đưa nó cho những nhân viên bảo vệ trên phà; một người trong số họ nói, “Xong rồi thì chúng tôi đi đây.”

McPherson nheo mắt dưới ánh nắng.

“Cơn bão,” người bảo vệ nói tiếp, “hình như không ai biết được nó sẽ diễn biến ra sao?”

McPherson gật đầu.

“Chúng tôi sẽ liên lạc với trạm nếu cần tới đón,” Teddy nói

Người bảo vệ gật đầu và lại tiếp, “Có vấn đề gì về cơn bão thì nhớ liên lạc nhé!”

“Chắc chắn, chắc chắn,” Chuck nói. “Chúng tôi sẽ nhớ điều đó.”

McPherson dẫn họ lên một con đường với những bụi hồng mọc len lỏi giữa các hàng cây. Qua khỏi hàng cây, trước mặt họ xuất hiện một con đường láng xi măng giống như một nụ cười ngạo nghễ và Teddy có thể nhìn thấy nhà cửa ở cả hai bên. Ngôi nhà ở bên tay trái của anh trông có vẻ giản dị hơn, chỉ là một tòa nhà có mái hai mảng màu nâu sẫm kiểu Victoria với những ô cửa sổ nhỏ màu đen, gọn gàng trông giống như những người lính. Ngôi nhà bên phải được xây theo kiến trúc Tudor hơi dốc trông giống như một tòa lâu đài.

Họ tiếp tục đi, leo lên một con dốc trơn phủ đầy cỏ biển mọc dại trước khi đất đai dần dần trở nên xanh hơn và mềm mại hơn xung quanh họ, trên đỉnh dốc cỏ mọc thấp hơn và được cắt tỉa gọn gàng thành một bãi cỏ rộng theo kiểu truyền thống, trải dài hàng trăm mét tới chân một bức tường gạch màu da cam dường như được xây vòng quanh hòn đảo. Bức tường bao này cao khoảng ba mét, trên gờ tường là những vòng dây thép gai và có cái gì đó trong hình ảnh của những vòng dây thép gai ấy tác động mạnh tới Teddy. Anh chợt cảm thấy tội nghiệp cho tất cả những con người đang sống ở phía bên kia bức tường khi biết được bản chất của những sợi dây thép gai ấy và nhận ra rằng thế giới này muốn giam giữ họ ở trong đó tới nhường nào. Teddy nhìn thấy một số nhân viên mặc đồng phục màu xanh sẫm đứng ngay bên ngoài bức tường, đầu cúi gằm, mắt nhìn xuống đất.

“Sự hiện diện của lính canh tại một viện tâm thần. Hơi lạ, nếu ông không ngại thì tôi xin nói vậy, ông McPherson,” Chuck nói.

“Đây là một bệnh viện đòi hỏi an ninh tối đa,” McPherson trả lời. “Chúng tôi hoạt động dưới hai cơ chế, một là Cục Sức khỏe Tâm thần Massachusetts và một là Cục Trại giam Liên bang.”

“Tôi biết thế,” Chuck nói. “Nhưng tôi vẫn tự hỏi hẳn các ông sẽ có nhiều chuyện để nói quanh bàn ăn tối?” McPherson mỉm cười và khẽ lắc đầu. 

Teddy nhìn thấy một người đàn ông tóc đen mặc đồng phục giống như những người lính gác khác nhưng cổ áo ông ta lại dựng lên, cầu vai được đính màu vàng và huy hiệu của ông ta cũng bằng vàng. Ông ta là người duy nhất đi đi lại lại đầu ngẩng cao, một tay chống lưng khi rảo bước giữa những người lính gác khác, cái cách ông ta bước đi khiến Teddy nhớ tới những vị thượng tá anh gặp trong chiến tranh, những người coi mệnh lệnh là một trách nhiệm nặng nề được giao phó không chỉ từ quân đội mà bởi chính Chúa trời. Người đàn ông đó mang theo một cuốn sách nhỏ màu đen bên cạnh sườn, gật đầu chào về phía họ rồi tiếp tục đi xuống con dốc mà họ vừa đi lên, mái tóc đen của ông ta cứng đơ trong gió.

“Đó là giám đốc trại giam,” McPherson nói. “Các vị sẽ gặp ông ấy sau.”

Teddy gật đầu, tự hỏi không hiểu tại sao họ không thể gặp ngay lúc này và nhìn theo ông trưởng trại giam từ từ biến mất phía bên kia ngọn đồi. 

Một người hộ lý lấy chìa khóa mở tung cánh cổng ở giữa bức tường còn những người khác thì đẩy xe vào trong. Cùng lúc đó hai người lính gác xuất hiện tiến về phía McPherson và dừng lại bên cạnh ông ta.

McPherson đứng thẳng người lên như ra hiệu đã tới lúc làm việc nghiêm túc và nói, “Tôi phải thông báo cho các vị một số nguyên tắc cơ bản trên đảo.” “Chắc chắn rồi!”

“Các vị sẽ nhận được mọi sự tiếp đãi mà chúng tôi có thể thu xếp, mọi sự giúp đỡ mà chúng tôi có thể thực hiện. Trong thời gian lưu lại đây, dù có ngắn ngủi thế nào, các vị cũng sẽ phải làm việc đúng quy tắc. Các vị hiểu chứ?”

Teddy gật đầu còn Chuck thì nói, “Nhất định rồi.”

McPherson dõi mắt về một điểm ngay phía trên đầu họ và nói, “Tôi chắc là bác sĩ Cawley sẽ giải thích những điểm cụ thể về quy tắc làm việc cho các vị nhưng tôi vẫn muốn nhấn mạnh mấy điểm sau đây: nghiêm cấm tiếp xúc không có người giám sát với các bệnh nhân. Các vị hiểu chứ?”

Teddy suýt buột miệng nói, “Vâng, thưa ngài” giống trong quân ngũ nhưng cuối cùng chỉ nói mỗi một từ “Đồng ý.”

“Khu A của bệnh viện, tòa nhà đằng sau phía bên phải tôi dành cho bệnh nhân nam. Khu B, dành cho bệnh nhân nữ, phía bên trái tôi. Khu C ở trên những con dốc phía sau khuôn viên này và khu nhân viên là nơi trước kia là pháo đài Walton. Ra vào Khu C bị cấm trừ phi có giấy viết tay và sự hiện diện của cả hai người, giám đốc trại giam và bác sĩ Cawley. Các vị hiểu chứ?”

Lại thêm hai cái gật đầu.

McPherson ngửa một lòng bàn tay hộ pháp của mình ra như thể đang hứng lấy ánh mặt trời: “Vì vậy yêu cầu các vị giao nộp vũ khí.” 

Chuck nhìn Teddy. Teddy lắc đầu.

Anh nói, “Ông McPherson, chúng tôi là đặc vụ liên bang đang thi hành nhiệm vụ. Chính phủ yêu cầu chúng tôi mang theo vũ khí mọi lúc.”

Giọng nói của McPherson bắn vào không khí như một dây thép lạnh. “Điều khoản Thi hành số 391 của Luật Liên bang về các bệnh viện và trại giam dành cho phạm nhân tâm thần quy định rằng yêu cầu mang vũ khí của các nhân viên an ninh sẽ chỉ bị từ chối trong trường hợp cấp trên trực tiếp của anh ta hoặc những người có thẩm quyền trong việc bảo vệ và trông coi các cơ sở y tế tâm thần hoặc tội phạm hình sự ra lệnh. Quý vị, quý vị rơi đúng vào trường hợp ngoại lệ này. Các vị sẽ không được phép đi qua cánh cổng này với vũ khí trên người.”

Teddy nhìn sang Chuck. Chuck hất đầu về phía lòng bàn tay đang mở rộng của McPherson và nhún vai. 

“Chúng tôi muốn trường hợp ngoại lệ này được ghi biên bản cẩn thận,” Teddy nói. 

“Lính gác, hãy ghi lại trường hợp ngoại lệ của đặc vụ Daniels và Aule,” McPherson tiếp.

“Vâng, thưa ngài.”

“Quý vị, xin mời…” McPherson nói.

Người lính gác đứng bên phải McPherson mở một chiếc túi bằng da nhỏ ra. Teddy kéo áo khoác và rút khẩu súng công vụ của mình ra khỏi bao. Anh mở tung chốt an toàn bằng một cái vẩy tay rồi đặt khẩu súng vào tay McPherson. McPherson đưa nó cho người lính gác để anh này đặt vào chiếc túi da rồi lại chìa tay ra.

Chuck chậm chạp hơn một chút với khẩu súng của mình, rề rà rút nó ra khỏi bao, nhưng McPherson không hề tỏ ra mất kiên nhẫn, chờ cho tới khi Chuck lóng ngóng đặt khẩu súng vào tay ông ta. 

McPherson lại đưa súng cho người lính gác, anh này nhét nó vào túi và bước qua cổng.

“Vũ khí của các anh sẽ được bảo quản trong phòng giữ đồ ngay bên ngoài văn phòng của giám đốc trại giam,” McPherson nhẹ nhàng nói, những lời của ông ta nghe xào xạc như tiếng lá rơi, “tức là ở trong khu nhà chính của bệnh viện nằm ở giữa khuôn viên này. Các anh sẽ nhận lại chúng khi các anh ra về.” Nói tới đây, nụ cười dễ dãi kiểu cao bồi của McPherson đột nhiên trở lại. “Thôi thế là các thủ tục chính thức đã xong. Tôi không biết nhiều về các anh nhưng tôi vui mừng vì chúng ta đã giải quyết xong chuyện đó. Các anh nghĩ sao nếu chúng ta đi gặp bác sĩ Cawley?”

Rồi ông ta quay người và dẫn họ đi qua cánh cổng lúc này đang khép lại dần sau lưng họ. 

Bên trong bức tường bao là thảm cỏ trải dọc theo con đường chính được lát bằng thứ gạch màu cam giống như bức tường. Những người làm vườn chân đeo cùm đang chăm chút bãi cỏ, cây cối và những thảm hoa, thậm chí còn có cả một dãy hồng leo chạy dọc theo sân viện. Những người làm vườn bị đám hộ lý kèm sát, và Teddy nhìn thấy những bệnh nhân khác, cũng đeo cùm, đi lại quanh sân với những bước đi lạ lùng, giống như bước chân vịt. Phần lớn họ là nam giới, chỉ có vài phụ nữ. 

“Khi những bác sĩ đầu tiên tới đây,” McPherson nói, “cả chỗ này toàn cỏ biển và bụi rậm. Các anh có thể xem ảnh. Nhưng bây giờ…”

Ở phía bên phải và bên trái của bệnh viện có hai tòa nhà kiểu thuộc địa bằng gạch đỏ, giống hệt nhau được quét một lớp sơn màu trắng tươi, các cửa sổ đều có chấn song và những ô cửa đã vàng ố bởi muối và nước biển. Còn tòa nhà được dùng làm bệnh viện thì có màu than đá, hơi nước từ biển cả đã gột nhẹ màu sắc trên lớp gạch của nó. Bệnh viện có sáu tầng và những cửa sổ trên gác mái đang nhìn xuống họ.

McPherson nói, “Trước Nội chiến, nó được xây dựng làm trụ sở chính của tiểu đoàn. Rõ ràng là nó được thiết kế nhiều điểm giống với một cơ sở huấn luyện. Khi chiến tranh sắp xảy ra thì họ biến nó thành một pháo đài và rồi sau này là trại giam giữ tù binh chiến tranh.”

Teddy để ý tới ngọn tháp mà anh nhìn thấy từ trên con phà. Đỉnh của nó vừa vặn nhô lên sau những rặng cây phía xa của hòn đảo. 

“Cái tháp ấy là gì?”

“Một ngọn hải đăng cũ,” McPherson nói. “Không sử dụng từ những năm 1800. Tôi nghe nói là quân đội liên bang có đặt các trạm gác ở đó nhưng hiện giờ nó được sử dụng làm việc khác.”

“Chữa bệnh cho các bệnh nhân?”

Ông ta lắc đầu nói, “Không, để xử lý nước thải. Các anh không thể hình dung ra những gì trôi dạt trong thứ nước đó đâu. Nhìn từ con phà thì đẹp đấy nhưng mọi thứ rác rưởi từ các con sông lớn nhỏ ở cái bang này trôi xuống vịnh rồi ra ngoài vịnh và cuối cùng tìm tới chỗ chúng tôi.”

“Thú vị thật,” Chuck nói và châm một điếu thuốc, rồi rút vội nó ra khỏi miệng để nén một cơn ngáp, mắt nheo lại dưới nắng. 

“Phía sau tường bao, bên kia…” ông ta chỉ qua Khu B, “là khu vực chỉ huy cũ. Các anh có thể thấy chúng trên đường đi lên. Hồi đó tốn không biết bao tiền để xây, tới mức viên sĩ quan chỉ huy đã bị bãi nhiệm sau khi chú Sam nhìn thấy hóa đơn. Các anh nên tới thăm chỗ đó.”

“Giờ thì ai sống ở đó?” Teddy hỏi.

“Bác sĩ Cawley,” McPherson nói. “Sẽ chẳng có tất cả những thứ này nếu không nhờ bác sĩ Cawley. Và giám đốc trại giam. Họ đã thực sự biến chỗ này thành một chốn độc nhất vô nhị.”

Họ đi vòng ra phía sau khuôn viên bệnh viện và gặp thêm nhiều người làm vườn bị xích và hộ lý, nhiều người trong số họ đang đào một cái hố sâu gần cuối chân tường. Một người làm vườn, một phụ nữ trung niên có mái tóc màu lúa mì lưa thưa gần như hói ở trên đỉnh nhìn chằm chằm về phía Teddy khi anh đi ngang qua rồi đưa một ngón tay lên môi. Teddy để ý thấy một vết sẹo màu đỏ sẫm, dày như một miếng cam thảo vắt ngang cổ bà ta. Bà ta mỉm cười, ngón tay vẫn đặt trên môi rồi nhìn anh khẽ lắc đầu.

“Cawley là một huyền thoại trong lĩnh vực của ông ấy,” McPherson nói khi họ đi qua sân sau và tiến vào phía trước bệnh viện. “Đứng đầu lớp ở cả đại học ở Johns Hopkins và Harvard, xuất bản công trình nghiên cứu đầu tiên về các bệnh ảo giác khi mới hai mươi tuổi. Nhiều lần được mời tư vấn cho Scotland Yard, MI5, và 0SS(1). 

“Tại sao?” Teddy hỏi.

“Tại sao ư?”

Teddy gật đầu. Đó dường như là một câu hỏi rất hợp lý. 

“Thì…” McPherson có vẻ hơi lúng túng.

“OSS chẳng hạn, thử lấy họ làm ví dụ đầu tiên xem sao. Tại sao họ lại cần tham vấn một nhà tâm thần học?” Teddy nói. 

“Các vấn đề chiến tranh,” McPherson đáp. 

“Cũng được,” Teddy nói một cách từ tốn. “Nhưng cụ thể là vấn đề gì chứ?”

“Những vấn đề bảo mật,” McPherson nói. “Hay những thứ tương tự, tôi nghĩ thế.”

“Nó có thể bảo mật tới mức nào nhỉ, nếu chúng ta đang nói về điều đó?” Chuck nói, một bên mắt nheo lên vẻ khoái trá khi bắt gặp ánh mắt Teddy.

McPherson dừng lại phía trước bệnh viện, một chân đã đặt lên bậc tam cấp đầu tiên. Ông ta trông có vẻ bối rối. Ông nhìn ra xa trong giây lát, về phía đường lượn của bức tường bao màu da cam rồi nói, “Tôi chắc là các anh có thể hỏi ông ấy. Giờ chắc ông ấy họp xong rồi.”

Họ đi lên cầu thang, xuyên qua một hành lang bằng đá hoa cương, trần nhà được xây như một chiếc vòm kín phía trên đầu họ. Một cánh cửa cót két mở ra khi họ tiến lại gần và bước vào phòng chờ lớn có một nhân viên ngồi bên bàn giấy phía tay phải và một người khác phía tay trái, trước mặt họ là một hành lang dài tiếp giáp với một cái cửa nữa. Họ lại chìa thẻ của mình ra cho một nhân viên trên đầu cầu thang và McPherson ghi tên ba người vào cặp tài liệu trong khi nhân viên kia kiểm tra thẻ, giấy chứng minh rồi trả lại cho họ. Phía sau nhân viên này là một căn buồng, và Teddy có thể thấy một người đàn ông ăn vận đồng phục giống như vị giám đốc trại giam, chìa khóa treo lủng lẳng từng chùm trên bức tường phía sau lưng ông ta. 

Họ leo lên tầng hai và bước vào một hành lang có mùi thơm của gỗ, sàn nhà làm bằng gỗ sồi lấp lánh dưới chân họ, tràn ngập một thứ ánh sáng trắng ùa vào từ cửa sổ lớn phía cuối đường. 

“Rất nhiều điểm bảo an,” Teddy nói.

“Chúng tôi phải dùng mọi biện pháp phòng ngừa,” McPherson nói.

“Chắc rồi, ông McPherson, vì sự biết ơn của một đám công chúng đầy cảm kích.”

“Các anh phải hiểu là,” McPherson nói, lưng quay lại phía Teddy khi họ bước qua một số phòng làm việc cửa đóng im ỉm với tên của các bác sĩ ghi trên một tấm biển nhỏ màu bạc. “Ở Mỹ không có một nơi nào khác giống thế này. Chúng tôi chỉ nhận những bệnh nhân nặng nhất. Chúng tôi nhận những người mà những nơi khác không thể chữa được.”

“Gryce cũng ở đây đúng không?” Teddy hỏi. 

McPherson gật đầu. “Vincent Gryce, đúng vậy. Ở Khu C.”

“Gryce là cái người…” Chuck quay sang hỏi Teddy.

Teddy gật đầu. “Là người giết sạch tất cả họ hàng của mình, lột da đầu họ để làm mũ đội.”

Chuck gật gù lia lịa trước khi nói thêm, “Rồi đội chúng đi vào thị trấn đúng không?”

“Đấy là theo lời báo chí.”

Họ dừng lại bên ngoài một cánh cửa đôi. Một chiếc biển bằng đồng gắn ở giữa cánh cửa bên phải với dòng chữ GIÁM ĐỐC BỆNH VIỆN, BÁC SĨ J. CAWLEY.

McPherson quay về phía họ, một tay đặt lên nắm cửa và nhìn họ với một vẻ mặt kín bưng. Ông ta nói, “Ở cái thời kém tiến bộ hơn thì một bệnh nhân như Gryce chắc sẽ bị xử tử. Nhưng ở đây họ có thể nghiên cứu anh ta, xác định bệnh lý, và biết đâu còn phân tách được sự bất thường trong não bộ là nguyên nhân khiến cho anh ta hoàn toàn không có khả năng dung hòa với các hành vi cư xử bình thường. Nếu như họ có thể làm được điều đó thì có lẽ chúng ta sẽ có cơ hội nhìn thấy cái ngày mà những kiểu bất dung ấy vĩnh viễn bị triệt tiêu hoàn toàn khỏi xã hội.”

Ông ta dường như đợi một câu trả lời, tay ông không hề động đậy trên núm cửa. 

“Mơ mộng một tí thì cũng tốt thôi, anh không nghĩ vậy sao?” Chuck nói. 

BÁC SĨ CAWLEY gầy đến hốc hác. Tất nhiên là không tới mức giơ xương sườn, xương sống ra như những người Teddy nhìn thấy tại trại tập trung Dachau ở Đức nhưng nhất thiết là cần phải ăn uống tẩm bổ nhiều. Đôi mắt nhỏ màu sẫm của ông ta tụt sâu trong tròng mắt, như tiết ra một thứ bóng tối che khuất cả khuôn mặt. Hai má hóp lại như thể sắp sụp xuống, xung quanh lỗ chỗ những vệt đồi mồi. Môi và mũi của ông ta cũng mỏng dính như những phần còn lại của ông, chiếc cằm gần như mất hút trên khuôn mặt. Nhúm tóc còn lại trên đầu ông ta cũng sẫm như màu mắt và quầng thâm phía dưới nó. 

Tuy nhiên, ông có một nụ cười làm bừng sáng cả khuôn mặt, một nụ cười rạng rỡ, đầy tự tin khiến hai tròng mắt cũng sáng lên theo và ông dùng nụ cười đó khi đi vòng qua bàn đến chào họ, tay dang rộng.

“Đặc vụ Daniels và đặc vụ Aule,” ông ta nói, “thật vui là các anh đã tới rất nhanh.”

Tay của ông ta nằm trong tay Teddy khô và mềm mại, nhưng cái siết tay thì thật là choáng váng, như nghiến lấy những đốt xương trên tay Teddy cho tới khi anh có thể cảm thấy áp lực của nó lên tận trên cánh tay mình. Đôi mắt của Cawley lóe lên trong giây lát như thể muốn nói, Anh không chờ đợi điều đó, đúng không? trước khi chuyển sang Chuck. Ông ta bắt tay Chuck và nói, “Hân hạnh được gặp anh,” trước khi nụ cười biến mất trên khuôn mặt khi ông quay sang bảo McPherson, “Hiện giờ thế là đủ rồi, trại phó. Cảm ơn.” 

McPherson nói, “Không có gì, thưa bác sĩ. Các vị vui vẻ nhé,” rồi rút lui khỏi phòng. 

Nụ cười của Cawley trở lại trên khuôn mặt nhưng là một phiên bản khác, trông dẻo quẹo, khiến Teddy nghĩ đến lớp màng dính đóng trên bát súp. 

“Ông ấy là một người tốt, McPherson. Hăm hở nhiệt tình.” 

“Với?” Teddy hỏi và ngồi xuống trước bàn.

Nụ cười của Cawley lại xuất hiện trên một nửa khuôn mặt và đóng băng lại đó trong giây lát. “Xin lỗi?”

“Ông ấy là người hăm hở nhiệt tình,” Teddy nói. “Nhưng với cái gì?”

Cawley ngồi xuống bên kia bàn, duỗi hai tay ra. “Với công việc. Một sự kết hợp mang tính đạo đức giữa việc thực thi luật pháp và chăm sóc sức khỏe lâm sàng. Chỉ nửa thế kỷ trước, thậm chí là còn gần hơn thế trong một số trường hợp, người ta cho rằng kiểu bệnh nhân như những người mà chúng tôi đang chữa trị tại đây tốt nhất là nên cùm lại và bỏ mặc họ sống bẩn thỉu, nhớp nhúa trong chất thải của chính họ. Họ thường bị đánh đập một cách có hệ thống như thể điều đó sẽ giúp đánh bật bệnh điên ra ngoài. Chúng ta biến họ thành quỷ. Chúng ta tra tấn họ. Dùng nhục hình với họ. Đóng đinh vào đầu họ. Và thậm chí đôi khi còn dìm chết họ.”

“Thế còn bây giờ?” Chuck hỏi.

“Bây giờ chúng tôi chữa trị cho họ. Một cách có đạo đức. Chúng tôi cố gắng chữa cho họ lành bệnh, khỏi bệnh. Và nếu việc đó không thành thì ít nhất chúng tôi cũng mang tới cho họ một phương pháp chữa bệnh bớt đau đớn hơn.”

“Thế còn những nạn nhân của họ thì sao?” Teddy hỏi.

Cawley nhướng mày, chờ anh nói thêm.

“Tất cả bọn họ đều là những kẻ phạm tội hung bạo,” Teddy nói. “Đúng không?”

Cawley gật đầu. “Thực tế là rất hung bạo.”

“Nghĩa là họ đã hại người khác,” Teddy nói. “Thậm chí là giết người trong nhiều trường hợp.”

“Ôi, phải nói là phần lớn các trường hợp.”

“Thế sao lại quan trọng cái việc giữ cho họ bớt đau đớn, nếu xét đến những gì họ đã gây ra cho các nạn nhân?”

Cawley nói, “Bởi vì nghề của tôi là chữa trị cho họ chứ không phải cho nạn nhân của họ. Tôi không thể giúp gì các nạn nhân. Bản chất của nghề nghiệp là mỗi nghề đều có giới hạn của mình. Đó là nghề nghiệp của tôi. Tôi chỉ có thể đặt mối quan tâm của mình vào bệnh nhân của mình.” Nói tới đây ông ta mỉm cười. “Thế ngài Thượng nghị sĩ đã giải thích tình hình ở đây rồi chứ?”

Teddy và Chuck trao đổi những cái nhìn. 

Teddy nói, “Chúng tôi chẳng biết gì về ngài Thượng nghị sĩ cả bác sĩ ạ. Chúng tôi được giao nhiệm vụ từ văn phòng tầm nã liên bang.” 

Cawley đặt hai cùi chỏ lên một miếng bàn thấm màu xanh lá cây, hay tay nắm lại, chống cằm lên đó rồi nhìn họ qua gọng kính.

“Vậy là tôi nhầm. Thế họ bảo các anh cái gì?”

“Chúng tôi được biết là có một nữ phạm nhân mất tích.” Teddy đặt quyển sổ ghi chép của mình lên đầu gối và lật giở vài trang. “Một người tên là Rachel Solando.”

“Một bệnh nhân.” Cawley chữa lại với một nụ cười lạnh băng.

“Bệnh nhân,” Teddy nói. “Tôi xin lỗi. Chúng tôi được biết là cô ta đã bỏ trốn trong vòng hai tư giờ qua.”

Cawley gật đầu, nghiêng cằm vào hai bàn tay. “Đêm hôm qua. Đâu đó khoảng từ mười giờ tới nửa đêm.”

“Và vẫn chưa tìm thấy cô ấy,” Chuck nói.

“Đúng vậy, đặc vụ…” Ông ta giơ một tay lên vẻ xin lỗi.

“Aule,” Chuck nói. 

Gương mặt của Cawley như co lại giữa hai bàn tay ông ta và Teddy để ý thấy những giọt nước bắn vào cửa sổ phía sau lưng ông. Anh không đoán được liệu đó là mưa hay là nước từ biển thổi vào. 

“Vậy tên của anh là Charles?” Cawley hỏi.

“Đúng vậy,” Chuck nói. 

“Tôi thấy anh rất hợp với cái tên Charles,” Cawley nói. “Nhưng Aule thì không hợp lắm.”

“Thế là tốt rồi, tôi nghĩ thế.”

“Sao lại vậy?”

“Chúng ta không được chọn tên họ của mình,” Chuck đáp. “Nên nếu như có ai đó nghĩ rằng tên hay họ của mình hợp với mình thì cũng là tốt lắm rồi.”

“Ai đã đặt cho anh?” Cawley hỏi.

“Bố mẹ tôi.”

“Họ của anh ấy?” 

Chuck nhún vai. “Ai mà biết được. Chắc phải đi ngược trở lại hai mươi thế hệ.”

“Hay một thế hệ.”

Chuck nhoài người ra phía trước ghế “Xin lỗi, gì cơ?”

“Anh là người Hy Lạp,” Cawley nói: “Hoặc là Armenia. Đúng không?”

“Armenia.”

“Vậy Aule là…”

“Anasmajian.”

Cawley chuyển cái nhìn ranh mãnh sang Teddy. “Thế còn anh?”

“Dòng họ Daniels ư?” Teddy nói. “Người Ailen từ mười đời nay.”

Anh hơi toét miệng cười với Cawley. “Và đúng là tôi có thể truy nguyên, thưa bác sĩ.”

“Nhưng còn tên của anh? Theodore à?”

“Edward.”

Cawley dựa lưng sâu vào trong ghế, hai tay buông khỏi cằm. Ông ta gõ gõ lên cái mở thư ở cạnh bàn tạo ra một thứ âm thanh nhẹ nhàng và bền bỉ như tiếng tuyết rơi trên mái nhà.

“Vợ tôi,” ông ta nói, “tên là Margaret. Tuy nhiên trừ tôi ra, chả bao giờ có ai gọi bà ấy thế. Một vài người bạn cũ gọi bà ấy là Margo, cũng còn có chút ý nghĩa, chứ tất cả những người khác đều gọi bà ấy là Peggy. Tôi không bao giờ hiểu được điều đó.”

“Điều gì cơ?”

“Là làm sao họ lại suy ra cái tên Peggy từ Margaret. Thế mà nó lại rất phổ biến nhé. Hoặc tại sao anh lại có tên Teddy từ Edward. Không có chữ p nào trong tên Margaret và chữ t nào trong Edward.”

Teddy nhún vai. “Thế tên của ông thì sao?”

“John.”

“Có ai gọi ông là Jack bao giờ không?”

Ông ta lắc đầu. “Phần lớn mọi người gọi tôi là Bác sĩ.”

Những giọt nước vẫn đập nhẹ vào cửa sổ và Cawley dường như đang điểm lại trong đầu cuộc đối thoại giữa bọn họ, mắt ông ta sáng lên và có vẻ xa xăm. 

“Cô Solando đó có bị coi là nguy hiểm không?” Chuck lên tiếng.

“Tất cả bệnh nhân của chúng tôi đều có khuynh hướng bạo lực.” Cawley nói. “Đó là lý do tại sao họ ở đây. Đàn ông cũng như phụ nữ. Rachel Solando là một góa phụ do chiến tranh. Cô ta đã dìm chết ba đứa con của mình trong cái hồ phía sau nhà. Lôi chúng ra đó từng đứa một và giữ chặt lấy đầu cho tới khi chúng chết. Rồi cô ta mang chúng về nhà, xếp chúng ngồi xung quanh bàn bếp và dùng bữa cho tới khi một hàng xóm tạt qua.”

“Cô ta có giết người hàng xóm không?” Chuck hỏi.

Lông mày của Cawley lại nhướng lên và ông ta khẽ thở dài. “Không. Mời ông ta ngồi ăn sáng với họ. Ông ta từ chối, tất nhiên, và gọi cho cảnh sát. Rachel vẫn tin là những đứa trẻ còn sống và đang chờ cô ta. Điều đó có thể giải thích tại sao cô ta tìm cách bỏ trốn.”

“Để về nhà,” Teddy nói.

Cawley gật đầu.

“Và đó là nơi nào vậy?” Chuck hỏi.

“Một thị trấn nhỏ ở Berkshires. Cách đây khoảng hai trăm kilomet.” Cawley quay đầu và chỉ về phía cửa sổ sau lưng ông ta. “Bơi từ phía này, phải mất hai mươi kilomet mới tới đất liền. Bơi về phía Bắc thì tới Newfoundland mới gặp đất liền.”

“Các ông đã cho tìm kiếm trên đảo?” Teddy hỏi.

“Rồi.”

“Tìm kỹ chứ?”

Cawley không trả lời ngay, tay mân mê bức tượng bán thân hình con ngựa bằng bạc để trên góc bàn. “Ngài trại trưởng và người của ông ấy cùng một tiểu đoàn hộ lý đã mất cả đêm và gần một buổi sáng lùng sục hòn đảo cùng tất cả các tòa nhà trong viện. Không một dấu vết. Rắc rối hơn ở chỗ chúng tôi không tài nào hiểu nổi cô ta ra khỏi phòng mình bằng cách nào. Nó bị khóa từ bên ngoài và cửa sổ duy nhất đã bị bịt chấn song. Chúng tôi cũng không tìm thấy dấu hiệu nào cho thấy khóa bị mở.” Ông ta rời mắt khỏi con ngựa, liếc sang Teddy và Chuck. “Cứ như thể cô ta bốc hơi qua những bức tường.”

Teddy ghi lại từ “bốc hơi” vào sổ. “Ông chắc là cô ta ở trong phòng lúc tắt đèn chứ?”

“Chắc chắn.”

“Vì sao?”

Cawley rút tay khỏi con ngựa và nhấn một nút gọi trên hệ thống liên lạc của mình. “Y tá Marino?”

“Vâng, thưa bác sĩ.”

“Hãy bảo ông Ganton vào đây.”

“Tôi sẽ làm ngay, thưa bác sĩ.”

Gần cửa sổ có một cái bàn nhỏ, trên đó là một bình đựng nước với bốn chiếc ly thủy tinh trên nóc. Cawley tới đó và rót đầy ba ly nước. Ông ta đặt một ly xuống trước mặt Teddy, một ly xuống trước mặt Chuck và mang ly còn lại sang phía bên kia bàn.

“Chắc ông không có aspirin ở đây đâu nhỉ?” Teddy nói.

Cawley khẽ mỉm cười, “Tôi nghĩ là chúng ta có thể tìm thấy vài viên.” Ông ta lục ngăn kéo bàn một lúc rồi lấy ra một lọ Bayer. “Hai hay ba viên?”

“Ba thì tốt,” Teddy có thể cảm thấy cơn đau bắt đầu giần giật trong mắt. 

Cawley đưa thuốc qua bàn cho Teddy và anh tống chúng vào miệng rồi uống một ngụm nước. 

“Anh hay bị đau đầu à?”

“Tôi bị say sóng, thật không may.” Teddy nói.

Cawley gật gù, “À, bị mất nước.”

Teddy gật đầu. Cawley mở một hộp thuốc lá bằng gỗ óc chó rồi chìa ra mời Teddy và Chuck. Teddy lấy một điếu. Chuck lắc đầu và lôi bao thuốc của mình ra, cả ba người châm thuốc trong khi Cawley nâng tấm chắn mở cửa sổ phía sau lưng ông ta. 

Ông ta ngồi xuống và đặt lên bàn một tấm ảnh – một phụ nữ trẻ, xinh đẹp, khiếm khuyết duy nhất trên gương mặt là những quầng thâm dưới mắt, sẫm gần như mái tóc đen của cô ta. Đôi mắt mở chòng chọc như thể có gì đó nóng rẫy thúc vào chúng từ bên trong đầu của cô ta. Cho dù nó là gì thì cái mà cô ta đang nhìn ở sau ống kính, sau người chụp ảnh, sau những thứ dễ gặp của thế giới này hẳn là một cái gì đó mà mắt thường không nên thấy. 

Có cái gì đó quen thuộc một cách khó chịu ở người phụ nữ này và rồi Teddy nghĩ tới một cậu bé mà anh nhìn thấy trong trại tập trung nhất định không chịu ăn những thứ mà họ đưa. Cậu ta ngồi dựa vào một bức tường dưới ánh mặt trời tháng Tư với một cái nhìn y hệt trong bức ảnh cho tới khi mí mắt của cậu khép lại và người ta chất cậu lên đống xác người ở nhà ga. 

Chuck khẽ huýt sáo. “Ôi Chúa tôi.”

Cawley hít một hơi thuốc dài rồi nói, “Đó là phản ứng của cậu với sắc đẹp lồ lộ hay vẻ điên rồ lồ lộ của cô ta?”

“Cả hai,” Chuck nói. 

Đôi mắt đó, Teddy nghĩ, ngay cả khi đông cứng trong thời gian, nó vẫn rú lên đau đớn. Bạn những muốn vào bên trong bức ảnh và nói, “Đừng, đừng, đừng. Sẽ ổn thôi, ổn thôi. Suỵt, nào.” Bạn muốn ôm lấy cô ấy cho tới khi cô ấy ngừng run rẩy và nói với cô ấy rằng mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp. 

Cửa phòng bật mở và một người da đen cao lớn với những cụm tóc xám dày mặc đồng phục hộ lý bước vào. 

“Ông Ganton,” Cawley nói, “đây là các vị mà tôi đã nói với ông, đặc vụ Aule và Daniels.”

Teddy và Chuck đứng dậy bắt tay Ganton. Teddy cảm thấy từ người đàn ông này toát lên một nỗi sợ hãi như thể ông ta không thật thoải mái khi bắt tay với những người thực thi luật pháp, như có một hay hai cái trát treo đang chờ đợi ông ta ở bên ngoài. 

“Ganton đã làm việc với chúng tôi từ mười bảy năm nay. Ông ấy là hộ lý trưởng ở đây. Chính Ganton là người đã hộ tống Rachel về phòng đêm hôm qua. Ông Ganton?”

Ganton ngồi chụm chân lại, hai tay đặt lên đầu gối, hơi cúi người về phía trước, mắt nhìn xuống giày, “Vào lúc chín giờ có một nhóm. Rồi…”

Cawley cắt ngang: “Đó là một buổi chữa bệnh theo nhóm do bác sĩ Sheehan và y tá Marino phụ trách.”

Ganton chờ một lúc cho tới khi chắc là Cawley đã nói xong mới lên tiếng. “Vâng, đúng thế. Đêm qua có một nhóm và họ kết thúc vào quãng mười giờ. Tôi đưa cô Rachel lên phòng. Cô ấy đi vào trong. Tôi khóa bên ngoài. Sau khi tắt đèn thì cứ hai tiếng chúng tôi lại đi kiểm tra các phòng một lần. Tôi quay trở lại vào nửa đêm. Tôi nhìn vào bên trong thấy giường cô ấy trống không. Tôi đoán có lẽ cô ấy ở trên sàn. Các bệnh nhân họ rất hay làm thế, ngủ trên sàn. Tôi mở cửa…” 

Cawley lại lên tiếng: “Bằng chìa khóa của ông, đúng không Ganton?”

Ganton gật đầu với Cawley rồi lại nhìn xuống đầu gối của mình. “Tôi dùng chìa khóa của mình, đúng vậy, vì cửa vẫn khóa. Tôi đi vào trong. Cô Rachel không thấy đâu. Tôi đóng cửa lại và kiểm tra cửa sổ cùng chấn song. Chúng vẫn bị khóa chặt.” Ông ta nhún vai rồi nói tiếp, “Rồi tôi gọi cho giám đốc trại giam.” Ông ta nhìn lên Cawley và Cawley trao cho ông ta một cái gật đầu nhẹ nhàng, như giữa cha với con. 

“Các vị có hỏi gì không?”

Chuck lắc đầu.

Teddy rời mắt khỏi quyển sổ ghi chép của mình. “Ông Ganton, ông nói là ông bước vào phòng và chắc chắn rằng bệnh nhân không có ở đó. Thứ tự thế nào?”

“Cái gì cơ thưa ngài?”

“Có tủ? Hay chỗ trống dưới gầm giường mà cô ấy có thể trốn không?”

“Có.”

“Và ông đã kiểm tra cả hai chỗ đó.”

“Vâng, thưa ngài.”

“Trong khi cửa vẫn mở?”

“Cái gì cơ thưa ngài?”

“Ông nói là ông bước vào phòng và nhìn xung quanh nhưng không thấy bệnh nhân. Rồi ông đóng cửa lại sau lưng mình.”

“Không, tôi… À…”

Teddy chờ đợi, hít thêm một hơi từ điếu thuốc Cawley đưa cho anh. Nó êm và nồng hơn loại thuốc lá Chesterfields của anh và mùi khói thuốc cũng khác, gần như là có vị ngọt.

“Tất cả chỉ xảy ra trong vòng năm giây, thưa ngài,” Ganton nói. “Tủ không có cửa. Tôi nhìn vào bên trong, nhìn xuống gầm giường rồi đóng cửa. Cô ấy không thể trốn ở đâu được. Phòng rất nhỏ.”

“Có thể đứng nép vào tường chứ?” Teddy nói. “Ở phía bên phải hoặc bên trái cửa ra vào?”

“Không.” Ganton lắc đầu và đây là lần đầu tiên Teddy cho rằng anh thoáng thấy sự giận dữ, đúng hơn là phật ý đằng sau đôi mắt đang sụp xuống và những câu trả lời “Vâng thưa ngài” hay “Không thưa ngài.” 

“Điều đó không chắc chắn,” Cawley nói với Teddy. “Tôi hiểu ý của anh, đặc vụ, nhưng khi anh nhìn thấy căn phòng anh sẽ hiểu tại sao ông Ganton sẽ khó mà bỏ qua bệnh nhân nếu cô ta đang đứng đâu đó trong bốn bức tường.”

“Đúng vậy,” Ganton nói và lúc này mới nhìn thẳng vào Teddy vẻ không giấu giếm. Teddy có thể thấy người đàn ông này mang một niềm tự hào sôi sục đối với đạo đức công việc mà Teddy đã báng bổ bằng những câu hỏi của mình. 

“Cảm ơn ông, ông Ganton,” Cawley nói. “Hiện giờ thế là đủ rồi.”

Ganton đứng dậy, mắt dừng lại vài giây ở Teddy rồi nói, “Cảm ơn bác sĩ” đoạn rời khỏi phòng.

Ba người còn lại im lặng một lúc, hút nốt điếu thuốc rồi dụi vào gạt tàn trước khi Chuck lên tiếng: “Tôi nghĩ giờ chúng ta nên đi xem cái phòng đó thưa bác sĩ.”

“Dĩ nhiên rồi,” Cawley nói rồi bước ra từ phía sau chiếc bàn làm việc, tay cầm một vòng xâu chìa khóa to như một cái vành mũ. “Đi theo tôi.”

Đó là một căn phòng nhỏ, cánh cửa bằng thép mở vào bên trong và bản lề thường xuyên được tra dầu mỡ tới mức vừa xoay khóa thì cánh cửa đã mở tung, đập mạnh vào bức tường bên phải. Bên trái là một đoạn tường ngắn và một chiếc tủ đựng quần áo nhỏ bằng gỗ với mấy chiếc blu và quần dải rút treo trên những chiếc mắc bằng nhựa. 

“Đúng là đi đời cái giả thiết đó,” Teddy thừa nhận. 

Cawley gật đầu. “Không có chỗ nào cho cô ta nấp được với một người đứng ở giữa cửa.”

“Thế còn trần nhà,” Chuck nói và cả ba người họ nhìn lên, thậm chí Cawley còn cố nặn ra một nụ cười.

Cawley đóng cửa lại sau lưng họ và Teddy lập tức thấy cái cảm giác bị cầm tù chạy dọc theo sống lưng. Họ có thể gọi đó là phòng nhưng nó là một xà lim. Cửa sổ hơi nhô lên phía sau chiếc giường hẹp bị bịt kín. Một chiếc bàn có ngăn kéo nhỏ đặt sát vào bức tường bên phải, sàn và tường đều mang một màu xi măng trắng của bệnh viện. Với ba người họ trong phòng, thật khó có khoảng trống nào để di chuyển mà không động chạm chân tay.

Teddy nói, “Còn ai nữa được quyền vào trong phòng?”

“Vào lúc ban đêm ư? Rất ít người có lý do có mặt trong khu này.”

“Tất nhiên rồi,” Teddy nói. “Nhưng những ai có quyền đó?”

“Tất nhiên là các hộ lý.”

“Thế còn các bác sĩ?” Chuck hỏi.

“Là các y tá,” Cawley nói.

“Các bác sĩ thì không có chìa khóa vào phòng này à?” Teddy hỏi. 

“Có chứ,” Cawley nói, hơi lộ vẻ khó chịu. “Nhưng vào lúc mười giờ thì các bác sĩ đã bàn giao để ra ngoài.”

“Và giao lại chìa khóa của họ.”

“Đúng vậy.”

“Có biên bản ghi lại tất cả những việc đó chứ?” Teddy hỏi.

“Tôi không hiểu.”

Chuck lên tiếng, “Họ phải ký nhận khi lấy và trả chìa khóa, bác sĩ, đó là điều làm chúng tôi muốn hỏi.”

“Dĩ nhiên rồi.”

“Và chúng tôi có thể kiểm tra biên bản ký nhận chìa khóa đêm qua.” Teddy nói.

“Được, được chứ, dĩ nhiên rồi.”

“Và chúng sẽ được giữ trong cái buồng mà chúng tôi thấy ở tầng một,” Chuck nói. “Cái buồng bên trong có một nhân viên bảo vệ với một bức tường treo đầy chìa khóa sau lưng?”

Cawley nhanh chóng gật đầu.

“Và các hồ sơ nhân sự,” Teddy nói, “của các nhân viên y tế và hộ lý, cũng như các nhân viên bảo vệ. Chúng tôi sẽ cần phải tra cứu chúng.”

Cawley nhìn Teddy chằm chằm như thể mặt anh vừa mọc ra một đám rệp vừng. “Tại sao?”

“Một phụ nữ biến mất khỏi phòng giam khóa chặt, đúng không bác sĩ? Cô ta chạy trốn trên một hòn đảo bé tí và không ai có thể tìm thấy cô ta? Ít nhất tôi cũng phải tính đến khả năng cô ta được ai đó giúp chứ?”

“Chúng tôi sẽ xem xét,” Cawley nói

“Chúng tôi sẽ xem xét?” 

“Đúng vậy, đặc vụ. Tôi sẽ nói với giám đốc trại giam và một số nhân viên khác. Chúng tôi sẽ đưa ra quyết định đối với yêu cầu của anh dựa trên…”

“Bác sĩ,” Teddy nói, “đây không phải là một yêu cầu. Chúng tôi ở đây theo lệnh của chính phủ. Nơi này trực thuộc quyền quản lý của liên bang, và có một phạm nhân nguy hiểm…”

“Bệnh nhân.”

“Một bệnh nhân nguy hiểm,” Teddy nói, cố giữ giọng thản nhiên, “đã bỏ trốn. Nếu ông từ chối giúp đỡ hai đặc vụ Mỹ truy bắt bệnh nhân này, thì bác sĩ, thật không may… Chuck?”

“Cản trở người thi hành luật pháp, bác sĩ ạ,” Chuck nói. 

Cawley nhìn Chuck như thể ông ta chỉ quan tâm tới ý kiến của Teddy chứ không để ý tới sự hiện diện của Chuck. 

“Thôi được,” ông ta nói, giọng lạnh lùng, “tất cả những gì tôi có thể nói là tôi sẽ làm tất cả những gì tôi khả dĩ để đáp ứng yêu cầu của anh.”

Teddy và Chuck trao đổi nhanh một cái nhìn rồi quay lại nhìn căn phòng trống lần nữa. Cawley có lẽ không quen với việc tiếp tục bị tra hỏi sau khi đã thể hiện sự bất bình nên họ dành cho ông ta một phút để lấy hơi. 

Teddy nhìn vào chiếc tủ nhỏ xíu, thấy ba cái áo blu trắng và hai đôi giày trắng. “Mỗi bệnh nhân được phát mấy đôi giày?”

“Hai.”

“Cô ta chân đất rời phòng à?”

“Đúng vậy.” Ông ta chỉnh lại chiếc cà vạt dưới chiếc áo choàng mặc trong phòng thí nghiệm của mình rồi chỉ vào một tờ giấy lớn đặt trên giường. “Chúng tôi tìm thấy nó phía sau chiếc bàn. Chúng tôi không hiểu nó có ý nghĩa gì. Chúng tôi hy vọng ai đó có thể nói cho chúng tôi biết.”

Teddy nhấc tờ giấy lên và lật lại, phía mặt bên kia là một biểu đồ theo dõi phản xạ của mắt với những chữ cái co lại và dốc xuống tạo thành hình một kim tự tháp. Anh lật tờ giấy lại và giơ lên cho Chuck.

LUẬT CỦA 4

TÔI LÀ 47

HỌ LÀ 80

+BẠN LÀ 3

CHÚNG TA LÀ 4

NHƯNG

AI LÀ 67?

Teddy thậm chí không muốn cầm lấy tờ giấy, mép giấy chọc vào ngón tay anh nhột nhạt.

“Tôi mà biết được thì quá là bịp,” Chuck nói.

Cawley bước tới bên cạnh họ. “Hoàn toàn giống như kết luận của chúng tôi.”

“Chúng ta là ba người,” Teddy nói.

Chuck liếc vào tờ giấy. “Hả?”

“Chúng ta có thể là số ba đó,” Teddy nói. “Ba chúng ta, lúc này đây, đang đứng trong phòng.”

Chuck lắc đầu. “Làm sao mà cô ta tiên đoán được điều đó.”

Teddy nhún vai. “Một sự phỏng đoán.”

“Ừm!”

Cawley nói, “Đúng thế, nhưng cũng phải nói rằng Rachel là một người cực kỳ thông minh trong các trò chơi của mình. Những ảo giác của cô ấy, đặc biệt là cái ảo giác khiến cho cô ấy tin là ba đứa con của mình vẫn còn sống được xây dựng trên một kết cấu kiến trúc vô cùng phức tạp và tinh tế. Và để duy trì kết cấu đó cô ấy đã dựng lên một câu chuyện hoàn toàn hư cấu về đời mình, một câu chuyện hoàn chỉnh xuyên suốt, tỉ mỉ tới từng chi tiết.”

Chuck chầm chậm quay đầu lại nhìn Cawley. “Tôi sẽ cần có một bằng cấp để hiểu được điều đó, bác sĩ ơi.”

Cawley cười tủm tỉm. “Hãy nghĩ tới những lời nói dối bố mẹ khi cậu còn là một đứa trẻ. Chúng mới tỉ mỉ, cặn kẽ làm sao. Thay vì chỉ giải thích một cách đơn giản với họ là tại sao cậu nghỉ học hay để quên đồ dùng thì cậu tô vẽ và biến chúng thành một cái gì đó rất hay ho. Đúng không nào?”

Chuck nghĩ ngợi một lúc rồi gật đầu. 

Teddy nói, “Đúng thế. Bọn tội phạm cũng làm đúng như vậy.”

“Chính xác. Với ý định gây hoang mang. Làm người nghe bối rối cho tới khi họ đành phải tin vì họ đã quá mệt mỏi hơn là vì tính hợp lý của câu chuyện. Giờ hãy thử xem xét tới khả năng sử dụng những lời nói dối đó để lừa dối chính mình. Đó là việc mà Rachel làm. Trong bốn năm ở đây, chưa bao giờ cô ấy thừa nhận mình đang nằm viện. Cô ấy cho rằng cô ấy đang ở trong nhà của mình tại Berkshires và những người bán hàng, giao sữa, những nhân viên bưu điện vừa mới ghé qua. Với những thực tế quá hiển nhiên thì cô ấy lại sử dụng toàn bộ sức mạnh để làm cho ảo giác trở nên mạnh hơn.” 

“Nhưng làm thế nào mà sự thật lại không bao giờ đến được với cô ta?” Teddy hỏi, “Ý tôi là cô ta ở trong một bệnh viện tâm thần. Làm thế nào mà cô ta không có lúc chú ý tới điều đó cơ chứ?” 

“À,” Cawley nói, “giờ chúng ta sẽ nói đến vẻ đẹp thật sự trần trụi và hãi hùng của kết cấu hoang tưởng trong đầu óc những người bị bệnh tâm thần phân liệt nặng. Nếu quý vị tin rằng quý vị là người duy nhất nói ra sự thật thì tất cả những người khác đều là kẻ dối trá. Và nếu tất cả mọi người đều dối trá…”

“Thì bất cứ sự thật nào mà họ nói,” Chuck nói, “hẳn là dối trá.”

Cawley giơ ngón tay cái lên và chỉ về phía Chuck như giả động tác bắn súng. “Cậu hiểu vấn đề rồi đấy.”

Teddy nói, “Và do đó chuyển sang chơi những con số?”

“Hẳn thế. Chúng hẳn phải đại diện cho cái gì đó. Với Rachel, không có ý nghĩ nào là vu vơ, không căn cứ. Cô ấy phải giữ cái kết cấu trong đầu mình không cho nó sụp đổ, và để làm được điều đó thì cô ấy phải luôn suy nghĩ. Đây…” ông ta đập đập vào bảng biểu đồ theo dõi phản xạ mắt rồi nói tiếp, “là cái kết cấu được ghi ra giấy. Cái này, tôi thực sự tin rằng sẽ nói cho chúng ta biết cô ấy đã đi đâu.”

Trong giây lát, Teddy cảm thấy các con số đó đang nói chuyện với anh và trở nên rõ ràng hơn. Nhất là hai số đầu tiên, anh chắc rằng con số “47” và “80” đó – anh có thể cảm thấy có cái gì đó ở chúng cứ sột soạt trong đầu anh giống như giai điệu của một bài hát mà anh cố nhớ ra trong khi đang nghe đài phát thanh phát một điệu nhạc hoàn toàn khác. Con số “47” là dấu hiệu rõ nhất. Nó ở ngay bên phải anh. Nó thật là đơn giản. Đó là…

Và rồi bất cứ chiếc cầu nối nào có vẻ logic đều tự dưng sụp đổ và Teddy cảm thấy đầu óc anh trắng xóa. Anh biết rằng mọi thứ lại đang biến mất, dấu vết, sự liên hệ, những cầu nối, và anh đặt lại tờ giấy xuống giường. 

“Điên,” Chuck nói.

“Cái gì vậy?” Cawley hỏi.

“Cái nơi mà cô ta đến,” Chuck nói, “theo ý kiến của tôi.”

“À, dĩ nhiên rồi,” Cawley nói. “Tôi nghĩ chúng ta có thể coi đó là một chuyện hiển nhiên.”

HỌ ĐỨNG BÊN NGOÀI buồng giam. Hành lang chạy qua đoạn giữa một cầu thang. Cửa phòng Rachel mở ra phía bên trái cầu thang đó, nửa đường xuống nằm phía bên phải. 

“Đây là đường duy nhất để ra khỏi chỗ này à?” Teddy hỏi.

Cawley gật đầu. 

“Không có đường lên trên mái nhà?” Chuck hỏi.

Cawley lắc đầu. “Đường đi lên duy nhất là lối thoát hiểm trong trường hợp cháy nổ. Các anh có thể nhìn thấy nó ở phía Nam của tòa nhà. Nó có một cánh cửa luôn được khóa. Dĩ nhiên là nhân viên thì có chìa khóa nhưng bệnh nhân thì không. Để lên được mái, cô ấy phải đi xuống cầu thang, đi ra ngoài, sử dụng một chiếc chìa khóa và trèo lại lên mái.” 

“Nhưng mà mái nhà cũng được kiểm tra chứ?”

Lại thêm một cái gật đầu. “Cũng giống như tất cả các phòng trong khu điều trị. Ngay lập tức. Ngay khi phát hiện cô ấy mất tích.”

Teddy chỉ vào người hộ lý đang ngồi cạnh một chiếc bàn nhỏ hình chữ nhật phía trước cầu thang. “Luôn có người ngồi ở đây hai mươi tư tiếng chứ?”

“Đúng vậy.”

“Nghĩa là có một người trực ở đây đêm qua.”

“Đó chính là hộ lý Ganton.”

Họ đi về phía cầu thang và Chuck nói, “Vậy thì…” rồi nhướng mày nhìn Teddy.

“Vậy thì,” Teddy tỏ ý đồng tình.

“Vậy thì,” Chuck nói tiếp, “cô Solando đi ra khỏi căn phòng bị khóa của mình ra hành lang, xuống những bậc thang này.” Họ cũng bước xuống cầu thang và Chuck chỉ ngón tay cái vào người hộ lý đang chờ họ ở dưới tầng hai. “Cô ấy đi qua một hộ lý nữa ngồi đây, chúng ta không biết bằng cách nào, tàng hình hay gì đó, đi tiếp xuống cầu thang thứ hai và đi ra ngoài vào…”

Họ xuống tới tầng trệt và đứng đối diện một phòng lớn, cửa mở rộng với rất nhiều ghế đi văng dựng sát tường, một chiếc bàn gấp lớn ở giữa phòng với những chiếc ghế gấp, những ô cửa sổ khiến không gian tràn ngập ánh sáng. 

“Đây là khu vực sinh hoạt chung,” Cawley nói. “Là nơi phần lớn bệnh nhân trải qua buổi tối của mình. Buổi chữa bệnh theo nhóm được tổ chức ở đây đêm qua. Các anh sẽ thấy phòng y tá ngay sau cái cổng kia. Sau khi tắt đèn, các hộ lý sẽ tụ tập ở đây. Họ có nhiệm vụ lau sàn nhà và cửa sổ nhưng thay vì làm những việc đó, chúng tôi thường xuyên bắt gặp họ chơi bài.” 

“Thế còn đêm qua?”

“Theo những người trong ca trực hôm qua thì canh bạc lúc đó đang xôm tụ. Bảy người đàn ông, ngồi ngay dưới chân cầu thang này chơi bài xì phé.” 

Chuck chống tay vào hông và thở phì một cái, “Cô ta lại làm phép tàng hình, hẳn thế, rồi rẽ trái hoặc phải.”

“Rẽ phải thì cô ta sẽ đi qua khu phòng ăn rồi tới bếp và sau đó là một cái cửa bị khóa với hệ thống báo động hoạt động suốt chín tiếng đồng hồ trong đêm ngay sau khi các nhân viên nhà bếp rời khỏi. Sang trái là phòng y tá và phòng nhân viên. Không có cửa nào dẫn ra phía bên ngoài. Những lối ra duy nhất là một cánh cửa ở phía bên kia khu sinh hoạt chung hoặc đi xuống hành lang phía sau cầu thang. Cả hai chỗ đó đêm qua đều có các nhân viên canh gác làm nhiệm vụ.” Cawley liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Quý vị, tôi có một buổi họp. Nếu quý vị có thắc mắc gì thì cứ thoải mái hỏi bất cứ nhân viên nào của chúng tôi hoặc ghé qua ông McPherson. Ông ấy là người phụ trách cuộc tìm kiếm này cho tới giờ. Ông ấy hẳn sẽ có mọi thông tin mà các anh cần. Nhân viên sẽ ăn tối vào đúng sáu giờ trong phòng ăn chung ở tầng trệt khu nhà dành cho hộ lý. Sau đó, tất cả chúng tôi sẽ tập trung ở đây trong phòng nhân viên và các anh có thể nói chuyện với bất cứ ai làm việc đêm qua có liên quan tới sự việc này.”

Ông ta vội vã đi về phía cổng trước, họ nhìn theo cho tới khi ông ta rẽ trái và biến mất.

Teddy nói, “Liệu có bất cứ điểm nào trong câu chuyện này khiến người ta cảm thấy nó không hề dính dáng tới nội gián không nhỉ?”

“Tôi thì thấy khoái trá với cái giả thiết tàng hình của mình. Cô ta có thể để lại công thức trong một cái chai. Anh có hiểu ý tôi không? Ngay lúc này đây, cô ta có thể đang theo dõi chúng ta, Teddy.” Chuck ngó vội qua vai mình rồi quay lại nhìn Teddy. “Có việc để suy nghĩ rồi đấy.”

BUỔI CHIỀU, họ gia nhập đội tìm kiếm và đi vào sâu trong đảo khi gió càng ngày càng mạnh và ấm hơn. Phần lớn hòn đảo bị cây cối che phủ, cỏ dại mọc đầy, những cánh đồng cỏ ken dày đan với tua cuốn của những cây sồi cổ thụ và dây leo xanh rậm rì gai. Đa số những nơi này không thể đi qua được, ngay cả với sự giúp đỡ của dao rựa mà mấy người lính gác mang theo. Rachel Solando không có chiếc rựa nào cả và thậm chí nếu có thì dường như bản chất tự nhiên của hòn đảo này là đẩy tất cả những nơi ẩn náu trở ra bờ biển.

Cuộc tìm kiếm gây cho Teddy một cảm giác mông lung, như thể không ai thật sự để tâm tới nó ngoài anh và Chuck. Những người đàn ông này đi vòng theo đường viền sát bờ biển bên trong đảo, với những bước chân nặng trịch, mắt sụp xuống. Thế rồi, tới một khúc quành, họ rẽ sang một bãi đá ngầm màu đen và đứng đối mặt với một vách đá nhô ra biển, cao quá đầu họ. Ở phía bên trái, đằng sau một bãi đầy rêu, cây gai, và những bụi quả mọng đỏ mọc quấn quýt um tùm là một trảng đất thoải xuống dần, dẫn tới chân của mấy ngọn đồi thấp. Những ngọn đồi này mọc lên vững chãi, ngọn sau lại cao hơn ngọn trước cho tới khi chúng nhường chỗ cho vách đá lởm chởm và Teddy có thể nhìn thấy những vết cắt trên các ngọn đồi và những lỗ hình chữ nhật bên cạnh vách đá.

“Đó là những cái hang à?” anh hỏi McPherson.

Ông ta gật đầu. “Chỉ có vài cái.”

“Ông đã kiểm tra chúng chưa?”

McPherson thở dài và chụm tay che gió để châm một điếu thuốc. “Cô ta có hai đôi giày, đặc vụ. Cả hai vẫn còn trong phòng cô ta. Làm sao cô ta có thể đi qua quãng đường mà chúng ta vừa đi, trèo qua những mỏm đá này để tới được cái vách đá đó?”

Teddy chỉ tay qua trảng đất tới chỗ trũng nhất tại chân đồi. “Cô ấy đi đường vòng, từ phía Tây?”

McPherson cũng chỉ tay về phía đó nói, “Có nhìn thấy chỗ trảng đất tụt xuống không? Có một cái đầm lầy ngay phía đầu ngón tay của anh. Dưới chân đồi thì toàn là dây thường xuân độc, sồi sống, sơn và hàng nghìn loại cây khác nhau, tất cả đều có gai cỡ như cái đấy của tôi ấy chứ.”

“Thế có nghĩa là to hay nhỏ?” Câu hỏi phát ra từ phía Chuck, lúc này đang đứng vài bước đằng trước họ, nhìn ngoái lại. 

McPherson mỉm cười. “Đâu đó ở giữa.” 

Chuck gật đầu. 

“Tất cả những gì tôi muốn nói với quý vị là cô ta hẳn không có cách nào khác là bám lấy đường bờ biển, chứ đi hướng khác thì chỉ nửa đường sẽ ra khỏi bãi. Và gặp một trong những cái của này.” Ông ta chỉ về phía vách đá. 

Một tiếng sau, ở phía bên kia của hòn đảo, họ gặp một hàng rào. Phía sau nó là khu pháo đài cũ và ngọn hải đăng. Teddy có thể nhìn thấy ngọn hải đăng cũng có hàng rào bao quanh, hai lính gác đứng dưới cổng, súng bồng trước ngực. 

“Quy trình xử lý rác thải tự hoại?” Anh hỏi.

McPherson gật đầu. 

Teddy nhìn Chuck. Chuck khẽ nhướng mày.

“Quy trình tự hoại?” Teddy nhắc lại.

Trong bữa tối, không ai tới bên bàn của họ. Họ ngồi một mình, người nhớp nháp vì bất cẩn bị dính mưa, cơn gió nhẹ ấm áp lúc ban chiều đã mang theo hơi nước từ biển. Phía bên ngoài hòn đảo bắt đầu chìm dần vào bóng tối, cơn gió nhẹ đang chuyển mình thành gió lớn. 

“Một căn phòng bị khóa,” Chuck nói.

“Chân đất,” Teddy lên tiếng.

“Qua ba cửa kiểm tra an ninh bên trong.”

“Một phòng đầy hộ lý.”

“Chân đất.” Chuck nhắc lại. 

Teddy gẩy gẩy đĩa thức ăn, một kiểu thịt băm nướng với khoai tây nghiền, thịt bết lại với nhau. “Qua một bức tường có chăng dây điện.”

“Hoặc qua một chiếc cổng có khóa.”

“Ra phía ngoài kia.” Gió đang rung chuyển tòa nhà, rung chuyển bóng tối. 

“Chân đất.”

“Không ai nhìn thấy cô ta.”

Chuck nhai thức ăn rồi nhấp một ngụm cà phê. “Ai đó chết trên đảo này, chuyện đó chắc chắn là có xảy ra đúng không? Thì họ sẽ đi đâu nhỉ?”

“Thì chôn.”

Chuck gật đầu. “Hôm nay sếp có trông thấy một cái nghĩa địa nào không?” 

Teddy lắc đầu, “Chắc được rào kỹ ở đâu đó.”

“Giống như cái nhà máy tự hoại. Chắc thế.” Chuck đẩy khay thức ăn ra xa rồi tựa lưng vào ghế. “Chúng ta sẽ nói chuyện với ai tiếp đây?”

“Các nhân viên.”

“Anh nghĩ là họ sẽ hữu ích chứ?”

“Cậu thì không à?” 

Chuck nhoẻn miệng cười. Anh ta châm một điếu thuốc, mắt không rời khỏi Teddy, nụ cười khẽ chuyển thành cười ra tiếng, khói thuốc tuôn ra theo nhịp điệu của nó.

Teddy đứng ở giữa phòng, các nhân viên quây thành vòng xung quanh anh. Anh để hai tay lên thành một chiếc ghế sắt, Chuck đứng dựa vào một thanh cột nhà ở bên cạnh, tay đút túi quần. 

“Tôi cho là mọi người đều biết tại sao chúng ta có mặt ở đây,” Teddy nói. “Có một người bỏ trốn đêm qua. Cho tới giờ tất cả những gì chúng tôi có thể nói là bệnh nhân đã biến mất. Không có bằng chứng nào khiến chúng tôi tin rằng bệnh nhân có thể rời viện mà không có sự giúp đỡ. Trại phó McPherson, ông nhất trí chứ?”

“Phải. Tôi cho rằng đó là một suy luận hợp lý vào thời điểm này.”

Teddy định nói tiếp thì Cawley, lúc này đang ngồi trên một chiếc ghế bên cạnh đám y tá lên tiếng, “Các vị có thể làm ơn giới thiệu một chút về mình được không? Một số nhân viên của tôi vẫn chưa được làm quen với hai vị.”

Teddy đứng thẳng người lên và nói, “Đặc vụ Mỹ Edward Daniels. Đây là đồng sự của tôi, đặc vụ Charles Aule.”

Chuck giơ tay vẫy đám đông rồi lại đút tay vào túi quần. 

Teddy nói, “Trại phó, ông và người của ông đã tìm kiếm trên đảo?”

“Đúng vậy.”

“Và các ông đã tìm thấy gì?”

McPherson ngồi duỗi người trên ghế. “Chúng tôi không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy một phụ nữ đang chạy trốn. Không thấy mảnh quần áo bị rách nào, không dấu chân, không dấu hiệu cây cối bị giẫm đạp. Đêm qua biển động, triều lên, nên cũng không thể có chuyện bơi đi.”

“Nhưng cô ta vẫn có thể cố làm điều đó.” Lời từ y tá Kerry Marino, một phụ nữ mảnh dẻ vừa bước vào phòng vừa đưa tay tháo chiếc cặp tóc ở sau gáy cho mái tóc đỏ đang được búi gọn trên đỉnh đầu xõa xuống. Cô ta để chiếc mũ y tế trong lòng rồi đưa tay gỡ mái tóc với một vẻ uể oải thể hiện sự mệt mỏi nhưng lại khiến tất cả đàn ông trong phòng liếc trộm về phía cô ta như thể cái điệu bộ dùng tay chải tóc hững hờ ấy giống với một lời đề nghị lên giường. 

McPherson hỏi, “Ý cô là gì?”

“Sao chúng ta biết được là cô ấy đã không thử bơi và cuối cùng bị chết đuối?”

“Thế thì giờ cô ấy đã bị đánh giạt vào bờ rồi.” Cawley khẽ ngáp sau nắm tay che miệng. “Với thủy triều như vậy.”

Marino giơ một tay lên như thể muốn nói, Ôi xin lỗi đã làm phiền các chàng trai, rồi bảo, “Tôi chỉ nghĩ là cũng nên đề cập tới nó.”

“Và chúng tôi đánh giá cao điều đó,” Cawley nói. “Đặc vụ, làm ơn hỏi tiếp các câu hỏi của anh. Hôm nay là một ngày dài.”

Teddy liếc sang Chuck và Chuck đảo mắt ra hiệu với anh. Một phụ nữ có tiền sử bạo lực mất tích không dấu vết trên một hòn đảo nhỏ mà dường như ai cũng chỉ muốn đi ngủ cho sớm. 

Teddy tiếp, “Ông Ganton có nói với chúng tôi rằng ông ấy kiểm tra phòng của cô Solando vào lúc nửa đêm và phát hiện cô ta mất tích. Khóa ở cửa ra vào và cửa sổ trong phòng cô ta không hề có dấu vết phá hoại. Giữa khoảng mười và mười hai giờ đêm hôm qua, ông Ganton, có lúc nào ông không để mắt tới hành lang tầng ba không?”

Vài người quay sang nhìn Ganton và Teddy bối rối khi nhận thấy sự thích thú trên khuôn mặt của một số người, như thể Teddy là một thầy giáo lớp ba đang đưa ra câu hỏi cho học sinh nhanh trí nhất lớp. 

Ganton nói, mắt vẫn nhìn xuống chân. “Lần duy nhất tôi rời mắt khỏi cái hành lang đó là khi tôi bước vào phòng của cô ta và phát hiện cô ta đã biến mất.” 

“Vào khoảng ba mươi giây.”

“Mười lăm giây thì đúng hơn.” Ông ta ngước lên nhìn Teddy. “Đó là một căn phòng nhỏ.”

“Còn gì nữa?”

“Tất cả bệnh nhân đều bị khóa trong phòng từ mười giờ trở đi. Cô ta là người cuối cùng về phòng. Tôi ngồi ngay ở đường đi. Tôi không nhìn thấy ai trong suốt hai tiếng đồng hồ.”

“Và ông không bao giờ rời vị trí của mình?”

“Không thưa ngài.”

“Đi uống một cốc cà phê chẳng hạn, không gì ư?”

Ganton lắc đầu.

“Thôi được, mọi người nghe này,” Chuck nói và rời khỏi cái cột. “Tôi phải tạo ra một bước nhảy vọt ở đây mất thôi. Tôi phải nói là, chỉ để phục vụ cho việc tranh luận chứ không có ý thất kính với ông Ganton đây, rằng chúng ta hãy thử đùa giỡn với cái ý tưởng bằng cách nào đó cô Solando đã bò trên trần nhà hay gì gì đó.”

Một số người bắt đầu cười khúc khích.

“Và cô ấy ra tới cầu thang dẫn xuống tầng hai. Cô ấy sẽ phải đi qua ai?” 

Một hộ lý có nước da trắng đục, tóc màu cam giơ tay lên.

“Và tên ông là?” Teddy hỏi. 

“Glen. Glen Miga.”

“Được rồi, Glen. Ông ở nguyên vị trí của mình suốt đêm hôm qua chứ?”

“Vâng, đúng thế.” 

“Glen,” Teddy nói.

“Gì cơ?” Ông ta ngừng loáy hoáy với vệt xước măng rô ở tay và nhìn lên.

“Sự thật.”

Glen nhìn về phía Cawley rồi quay lại Teddy.

“Đúng là có lúc tôi đã rời đi.”

“Glen,” Teddy tiếp. “Ông nói tiếp đi.”

Glen vẫn nhìn Teddy, mắt ông ta bắt đầu mở ra trừng trừng và rồi ông ta nói, “Tôi đến nhà vệ sinh.”

Cawley cúi ra phía trước, ngực tì vào đầu gối. “Ai đứng vào thay vị trí của anh?”

“Chỉ là đi đái một tí thôi mà,” Glen nói. “Đi tiểu tiện, xin lỗi.”

“Trong bao lâu?” Teddy hỏi.

Glen nhún vai. “Một phút là lâu nhất.”

“Một phút. Anh chắc chứ?”

“Tôi đâu phải lạc đà.”

“Không.”

“Tôi phải ra vào để đi vệ sinh chứ.”

“Anh đã vi phạm quy tắc,” Cawley nói. “Lạy Chúa tôi.”

“Thưa ngài, tôi biết. Tôi…” 

“Lúc đó là mấy giờ?” Teddy nói. 

“Mười một rưỡi. Khoảng đó.” Nỗi sợ hãi của Glen đối với Cawley đã chuyển thành sự căm ghét đối với Teddy. Chỉ cần vài câu hỏi nữa là ông ta sẽ trở nên thù địch. “Cảm ơn ông, Glen,” Teddy nói và quay lại phía Chuck với một cái gật đầu ra hiệu.

“Vào lúc mười một rưỡi,” Chuck nói, “hoặc quãng đó, mọi người vẫn đang chơi bài?” 

Vài cái đầu quay sang nhìn nhau trước khi quay về phía Chuck rồi một người da đen gật đầu và sau đó những hộ lý khác cũng làm theo anh ta.

“Những ai ngồi ở đó?”

Bốn người da đen và một người da trắng giơ tay lên. Chuck bắt đầu tấn công vào người đứng đầu nhóm, anh chàng đầu tiên gật đầu, người đầu tiên giơ tay lên. Một gã béo tròn, đầu cạo nhẵn, trơn bóng dưới ánh đèn. 

“Tên?”

“Trey, thưa ngài. Trey Washington.”

“Trey, tất cả các anh đều ngồi ở đây?”

Trey chỉ xuống sàn nhà. “Ngay đây. Ở giữa phòng. Nhìn thẳng vào bậc cầu thang. Vừa để mắt cửa trước, vừa để mắt cửa sau.”

Chuck bước về phía anh ta, nghển cổ lên nhìn cửa trước, cửa sau và cầu thang. “Vị trí tốt.”

Trey hạ thấp giọng. “Không chỉ là về bệnh nhân, thưa ngài. Cả bác sĩ hay một số y tá không ưa chúng tôi. Chúng tôi không được chơi bài ở đây. Phải để ý thấy ai đến thì vớ ngay cái chổi lau nhà.”

Chuck cười: “Đồ rằng các anh phải di chuyển rất nhanh.”

“Anh đã bao giờ nhìn thấy chớp tháng Tám chưa?”

“Rồi.”

“Còn chậm hơn tôi vớ lấy cái chổi lau nhà đó.”

Tới đây thì sự căng thẳng giữa đám người đó bị phá vỡ, ngay cả y tá Marino cũng không thể nào giấu được một nụ cười và Teddy để ý thấy mấy người da đen đập tay ghi điểm với nhau. Anh biết rằng trong thời gian ở lại đây, Chuck sẽ là một tay cớm tốt. Cậu ta có sở trường trong việc giao tiếp với mọi người, như thể cậu ta hoàn toàn thoải mái giữa bất cứ nhóm người nào trong xã hội, bất kể màu da hay thậm chí cả ngôn ngữ. Teddy tự hỏi không hiểu tại sao văn phòng ở Seattle lại ngu tới mức để cậu ta đi cho dù bạn gái cậu ta có là người Nhật hay gì đi nữa.

Teddy, trái lại là một người mạnh mẽ đầy bản năng. Một khi người ta chấp nhận điều đó, một cách nhanh chóng như trong thời kỳ chiến tranh thì họ sẽ rất thích làm việc với anh. Nhưng nếu chưa đi được tới chỗ đó thì sẽ rất căng thẳng. 

“Được rồi, được rồi!” Chuck giơ một tay lên để ngăn những tiếng cười dù miệng anh ta vẫn đang toe toét. “Như vậy thì Trey, các anh đều ở dưới chân cầu thang, chơi bài. Khi nào thì các anh biết có chuyện không hay xảy ra?”

“Khi Ike – à, tôi định nói là ông Ganton, bắt đầu hét vọng xuống ‘Gọi trại trưởng. Chúng ta có kẻ bỏ trốn.’ ”

“Và lúc đó là mấy giờ?”

“Mười hai giờ hai phút ba chín giây.”

Chuck nhướng một bên mày hỏi: “Anh là đồng hồ à?” 

“Không thưa ngài, nhưng tôi được rèn luyện phải nhìn đồng hồ ngay khi thấy dấu hiệu bất ổn đầu tiên. Có thể là do cái mà các anh gọi là ‘chứng cứ’, tất cả chúng tôi sẽ phải điền vào một ‘bản tường trình sự việc.’ Điều đầu tiên mà cái bản ấy hỏi là thời gian xảy ra sự việc đó. Chắc các anh cũng quá quen với mấy cái tường trình. Cho nên việc liếc nhìn đồng hồ ngay khi thấy dấu hiệu đầu tiên của sự bất ổn đã trở thành bản năng thứ hai.”

Mấy hộ lý gật đầu khi anh ta nói, những tiếng “ừ phải” và “đúng thế” tuôn ra từ miệng họ như thể họ đang trong một buổi lễ nhà thờ. 

Chuck khẽ ném sang Teddy một cái nhìn như thể muốn nói Thế nào, làm thế được chứ?

“Vậy là mười hai giờ hai phút,” Chuck nói.

“Ba mươi chín giây.”

Teddy quay sang hỏi Ganton, “Hai phút dư ra lúc quá nửa đêm này chắc là do ông đã kiểm tra một vài phòng khác trước khi tới phòng của cô Solando, đúng không?”

Ganton gật đầu. “Phòng của cô ấy là phòng thứ năm từ đầu dãy trở xuống.”

“Khi nào thì trại trưởng tới hiện trường?” Teddy nói. 

Trey lên tiếng, “Hicksville – một trong những lính gác – là người đầu tiên xuất hiện ở cửa trước. Chắc đang xử lý cổng ra vào, tôi đoán thế. Anh ta có mặt ở đây vào lúc mười hai giờ sáu phút hai giây. Trưởng trại tới sau đó bốn phút cùng sáu người khác.”

Teddy quay sang y tá Marino. “Cô nghe thấy tất cả những báo động đó và cô…”

“Tôi thu khóa phòng y tá lại. Tôi ra tới khu giải trí đúng lúc Hicksville đi vào từ cửa trước.” Nói tới đây cô ta nhún vai và châm một điếu thuốc khiến một số người trong nhóm bắt chước theo, cũng châm thuốc của họ. 

“Và không có bất cứ ai va phải cô trong phòng y tá?”

Cô ta tựa cằm vào hai cùi tay và nhìn anh qua lớp khói thuốc hình lưỡi liềm. “Va vào tôi để đi đâu? Tới cửa phòng Thủy liệu à? Anh vào trong đó, anh sẽ bị khóa trong một cái hộp xi măng với các bồn tắm và bể bơi nhỏ.”

“Phòng đó đã được kiểm tra rồi chứ?”

“Nó đã được kiểm tra, đặc vụ,” McPherson nói, giọng có vẻ mệt mỏi. “Y tá Marino,” Teddy nói, “cô cũng tham gia nhóm chữa bệnh đêm qua đúng không?”

“Đúng vậy?”

“Có gì bất thường xảy ra không?”

“Định nghĩa ‘bất thường’?”

“Xin lỗi?”

“Đây là một bệnh viện tâm thần, đặc vụ. Cho các tội phạm tâm thần. ‘Bình thường’ không phải là một phần đáng kể trong ngày của chúng tôi.”

Teddy gật đầu với cô ta kèm theo một nụ cười nhún nhường. “Để tôi sửa lại. Bất cứ cái gì xảy ra trong nhóm chữa bệnh ngày hôm qua đáng nhớ hơn, ừm…?”

“Bình thường?” cô ta nói.

Câu trả lời khiến Cawley bật ra vài tiếng cười lạc lõng. 

Teddy gật đầu.

Cô ta suy nghĩ một lúc, tàn thuốc của cô ta đã chuyển sang màu trắng và sắp rụng xuống. Cô ta gạt điếu thuốc vào gạt tàn rồi ngẩng đầu lên nói, “Không có gì cả. Xin lỗi.”

“Cô Solando có nói gì trong buổi chữa bệnh tối qua không?”

“Tôi nghĩ là có một vài lần, đúng thế.”

“Về cái gì?”

Marino nhìn sang Cawley.

Ông ta nói, “Lúc này chúng ta cần cung cấp thông tin bảo mật về bệnh nhân cho đặc vụ.”

Cô ta gật đầu nhưng Teddy có thể thấy cô ta chẳng thích thú gì lắm cái ý tưởng đó. 

“Chúng tôi thảo luận về việc kiềm chế giận dữ. Gần đây chúng tôi có một số trường hợp dễ nổi nóng đột ngột.”

“Kiểu gì?”

“Bệnh nhân la hét vào mặt các bệnh nhân khác, đánh nhau, kiểu vậy. Chẳng có gì bất thường nhưng có một cơn bột phát nhỏ trong vài tuần trở lại đây, chắc phần nhiều do ảnh hưởng của đợt triều nóng. Cho nên tối hôm qua chúng tôi thảo luận về các phương thức phù hợp và không phù hợp thể hiện sự lo lắng hoặc không hài lòng.”

“Cô Solando gần đây có bất cứ biểu hiện lên cơn giận dữ nào không?”

“Rachel ư? Không. Rachel chỉ trở nên kích động khi trời mưa. Đó là đóng góp của cô ấy cho buổi chữa bệnh tối qua. ‘Tôi nghe thấy mưa. Tôi nghe thấy mưa. Không phải ở đây nhưng mà nó đang tới. Chúng ta có thể làm gì với chuyện thức ăn không?’ ”

“Thức ăn?”

Marino dụi điếu thuốc và gật đầu. “Rachel ghét thức ăn ở đây. Cô ấy thường xuyên than phiền về nó.”

“Lý do chính đáng?” Teddy hỏi.

Marino suýt mỉm cười nhưng kìm lại được. Cô ta cụp mắt xuống trước khi nói tiếp, “Ai đó có thể bắt bẻ rằng đó là một lý do có thể hiểu được. Nhưng ở đây chúng tôi không gắn các giá trị đạo đức tốt, xấu vào lý do và động cơ của bệnh nhân.”

Teddy gật đầu. “Còn có một bác sĩ tên là Sheehan ở đây tối qua. Anh ta phụ trách buổi chữa bệnh. Anh ta có ở đây không?”

Không ai nói gì. Vài người tới dụi thuốc lá của họ vào những chiếc gạt tàn giữa các hàng ghế. 

Cuối cùng Cawley lên tiếng, “Bác sĩ Sheehan đã rời khỏi đây trên chuyến phà sáng nay. Chuyến phà đã chở các anh tới.”

“Tại sao?”

“Anh ấy đã có lịch nghỉ phép từ trước.”

“Nhưng chúng tôi cần phải nói chuyện với anh ta.”

Cawley nói, “Tôi có giữ bản tóm tắt của anh ấy về buổi chữa bệnh ngày hôm qua. Tôi có tất cả các ghi chép của anh ấy. Anh ấy rời khỏi khu vực làm việc lúc mười giờ đêm qua, trở về phòng của mình. Anh ấy đi khỏi sáng nay. Kỳ nghỉ đã được lên kế hoạch và bị quá hạn từ lâu. Chúng tôi thấy không có lý do gì để giữ anh ấy ở lại đây.”

Teddy nhìn McPherson.

“Ông đã cho phép?”

McPherson gật đầu.

“Trong tình trạng phong tỏa,” Teddy nói. “Một bệnh nhân bỏ trốn. Sao ông có thể cho phép bất cứ người nào rời khỏi đây trong thời gian phong tỏa để điều tra?”

“Chúng tôi biết chắc anh ấy ở đâu đêm qua. Chúng tôi cũng đã xem xét kỹ lưỡng và không thấy có lý do nào để giữ anh ấy lại.” McPherson nói.

“Anh ấy là một bác sĩ,” Cawley lên tiếng.

“Chúa ơi,” Teddy khẽ lẩm bẩm. Đấy là lỗi phạm quy nghiêm trọng nhất mà anh từng gặp ở một viện điều trị các bệnh nhân phạm tội hình sự, vậy mà tất cả mọi người đều xử sự như không có chuyện gì xảy ra.

“Thế anh ta đi đâu?”

“Xin lỗi?”

“Đi nghỉ ở đâu,” Teddy nói. “Ở chỗ nào?”

Cawley nhìn lên trần nhà như cố nhớ ra. “New York, tôi nghĩ thế. Thành phố New York, gia đình anh ấy ở đó. Đại lộ Park.”

“Tôi sẽ cần số điện thoại của anh ta,” Teddy nói.

“Tôi không hiểu tại sao…”

“Bác sĩ,” Teddy nói. “Tôi sẽ cần tới số điện thoại của anh ta.”

“Chúng tôi sẽ kiếm nó cho anh, đặc vụ.” Mắt Cawley vẫn dán lên trần nhà. “Còn gì nữa không?”

“Ông đoán xem,” Teddy nói.

Cawley hạ cằm xuống, mắt nhìn sang Teddy.

“Tôi cần một cái điện thoại,” Teddy nói.

CHIẾC ĐIỆN THOẠI trong phòng y tá chẳng có mảy may tín hiệu gì ngoài tiếng không khí rít lên. Trong khu này còn bốn chiếc điện thoại khác khóa trong tủ kính nhưng tới khi mở ra thử thì cũng chẳng mang lại kết quả khả quan hơn.

Teddy và bác sĩ Cawley đi tới tổng đài trung tâm ở tầng một khu bệnh viện chính. Người trực tổng đài nhìn lên khi họ bước qua cửa, một bộ tai nghe màu đen lủng lẳng quanh cổ anh ta. 

“Thưa ngài,” anh ta nói, “chúng ta mất liên lạc. Thậm chí cả radio liên lạc.”

“Thời tiết bên ngoài trông đâu tệ tới mức đó,” Cawley nói.

Người trực tổng đài nhún vai. “Tôi sẽ cố gắng. Nhưng mà ở đây thì chúng ta chẳng làm được gì mấy. Quan trọng là điều kiện thời tiết ở phía bên kia.”

“Cứ thử xem,” Cawley nói. “Nếu anh làm cho nó hoạt động trở lại được thì báo cho tôi biết. Vị này cần phải thực hiện một cuộc gọi khá quan trọng.”

Người trực tổng đài gật đầu, quay lưng lại phía họ và đeo bộ tai nghe lên.

Bên ngoài, không khí như bị nén lại. 

“Họ sẽ làm gì nếu anh không trình diện?” Cawley hỏi.

“Văn phòng liên bang hả?” Teddy nói. “Họ sẽ đánh dấu vào biên bản trực đêm. Thường thì họ chỉ bắt đầu tỏ ra lo ngại nếu hai mươi tư tiếng sau đó tôi vẫn chưa xuất hiện.”

Cawley gật đầu. “Chắc tới lúc đó thì bão cũng tan.”

“Tan à?” Teddy nói. “Nó thậm chí còn chưa bắt đầu cơ mà.”

Cawley nhún vai và bắt đầu bước về phía cổng. “Tôi sẽ làm vài ly và hút vài điếu xì gà tại nhà. Nếu anh và đồng sự của anh không ngại thì hãy ghé qua vào lúc chín giờ.”

“Thế lúc đó chúng ta có thể nói chuyện chứ?” Teddy hỏi.

Cawley dừng bước, quay sang nhìn anh. Đám cây cối đen xì phía bên kia tường bắt đầu rung chuyển và phát ra những tiếng rì rầm. 

“Chúng ta vẫn đang nói chuyện đấy thôi, đặc vụ.”

CHUCK VÀ TEDDY bước đi, xung quanh tối om, cảm thấy cơn bão trong làn không khí dần chướng lên, nóng rẫy xung quanh họ như thể thế giới đang mang thai và căng phồng. 

“Chuyện này thật nhảm nhí,” Teddy nói.

“Đúng vậy.”

“Thối nát từ cốt lõi.”

“Tôi đã được rửa tội, nên tôi sẽ nói với sếp ‘Amen, người anh em!’ ”

“Người anh em?” 

“Đó là cái cách người ta nói ở đấy. Tôi đã từng ở Mississippi một năm mà.”

“Thế à?”

“Amen, người anh em.”

Teddy lấy một điếu thuốc nữa của Chuck và châm lửa. 

“Sếp đã gọi văn phòng liên bang chưa?” Chuck hỏi.

Teddy lắc đầu. “Cawley nói tổng đài mất sóng.” Anh giơ tay lên rồi nói tiếp: “Do cơn bão, cậu biết đấy.”

Chuck nhổ điếu thuốc khỏi miệng. “Bão à? Đâu?”

“Cậu có thể cảm thấy nó đang tới gần,” Teddy nói và nhìn lên bầu trời tối sầm. “Dầu vậy thì nó vẫn chưa tới được cái nơi để có thể vô hiệu hóa trung tâm liên lạc.”

“Trung tâm liên lạc,” Chuck nhại lại. “Sếp đã rời khỏi quân ngũ chưa hay vẫn đang chờ giấy báo tử?”

“Thì tổng đài trung tâm vậy,” Teddy nói và vẩy điếu thuốc về phía đó. “Là cái quái gì mà họ muốn gọi. Và cả radio liên lạc của họ nữa.”

“Cái radio liên lạc của nợ của họ à?” Mắt Chuck mở trừng trừng. “Cả radio à sếp?”

Teddy gật đầu. “Phải, tình hình khá ảm đạm. Họ nhốt chúng ta lại trên hòn đảo để tìm kiếm một phụ nữ trốn thoát khỏi căn phòng khóa chặt…”

“Qua bốn trạm kiểm tra có người gác.”

“Một phòng đầy những người đang chơi xì phé.”

“Trèo qua bức tường cao ba mét.”

“Với dây điện chăng ở trên.”

“Bơi hơn chục dặm…”

“… trong lúc biển đang thịnh nộ…”

“… vào bờ. Thịnh nộ? Tôi thích cái từ này. Nghe hay đấy. Mà nhiệt độ trong nước là bao nhiêu nhỉ, mười độ?”

“Cao nhất là mười lăm độ. Nhưng lại vào buổi đêm nữa cơ?” 

“Thế thì chỉ mười độ thôi.” Chuck gật gù. “Teddy, cả cái câu chuyện này, sếp biết không?”

“Và cả cái tay bác sĩ Sheehan mất tích nữa?” Teddy nói.

“Sếp cũng thấy lạ đúng không? Tôi không dám chắc. Có vẻ như sếp rạch lỗ đít lão Cawley chưa đủ rộng?”

Teddy cười phá lên và nghe tiếng cười của mình bị không khí ban đêm cuốn đi rồi tan trên đầu những con sóng bạc phía xa xa như thể nó chưa hề tồn tại, như thể hòn đảo, biển cả và muối đã mang đi những gì mà anh nghĩ là của anh và…

“… nếu sự có mặt của chúng ta ở đây chỉ là để giúp họ hợp lý hóa mọi chuyện?” Chuck đang nói gì đó.

“Gì vậy?”

“… nếu sự có mặt của chúng ta ở đây chỉ là để giúp họ hợp lý hóa mọi chuyện?” Chuck nói. “Nếu như chúng ta được gọi tới đây chỉ để giúp họ đánh thêm dấu gạch ngang lên chữ t và dấu chấm trên chữ i?” 

“Xin ngài hãy nói rõ ra, ngài Watson của tôi.”

Chuck lại cười. “Thôi được, sếp, cố lên và giữ vững tinh thần.”

“Tôi sẽ cố, tôi sẽ cố.”

“Hãy cho rằng có một bác sĩ nào đó mê tít một bệnh nhân nào đó.”

“Cô Solando.”

“Sếp đã xem ảnh rồi đấy!”

“Cô ấy rất quyến rũ.”

“Quyến rũ. Teddy, cô ta là loại đàn bà đẹp mà lính Mỹ thường cắt hình dán trong tủ riêng. Thế nên cô ta lợi dụng cậu bé của chúng ta, Sheehan… Giờ thì anh đã thấy gì chưa?”

Teddy búng tàn thuốc vào gió và ngắm những bụi than nổ lộp độp, lóe lên trong gió rồi bay xoẹt trở lại qua anh và Chuck. “Và Sheehan cắn câu, cho rằng anh ta không thể sống thiếu cô ta.” 

“Từ có ý nghĩa chủ đạo ở đây là sống. Như một cặp tình nhân tự do trong thế giới thật.”

“Nên họ đã bỏ trốn. Rời khỏi hòn đảo.”

“Có khi lúc này đang xem chương trình Fats Domino.”

Teddy dừng lại ở cuối khu nhà dành cho nhân viên, đứng đối diện với bức tường màu da cam. “Thế tại sao lại không báo cho cảnh sát nhỉ?”

“Họ chả báo rồi đấy thôi,” Chuck nói. “Nguyên tắc. Họ buộc phải đưa ai đó vào cuộc và đối với một trường hợp mất tích ở nơi như thế này thì họ phải gọi chúng ta. Nhưng nếu họ muốn che giấu sự dính líu của nhân viên thì sự có mặt của chúng ta ở đây chỉ là để hoàn chỉnh thêm câu chuyện của họ – rằng họ đã làm mọi việc theo đúng nguyên tắc.”

“Đồng ý,” Teddy nói. “Nhưng tại sao phải che giấu cho Sheehan?”

Chuck áp đế giày vào tường, thả lỏng đầu gối rồi châm một điếu thuốc. “Tôi cũng không biết. Vẫn chưa nghĩ ra lý do gì.”

“Nếu đúng là Sheehan đã mang cô ta ra khỏi đây, anh ta hẳn đã phải đút lót một số người.”

“Hẳn thế.”

“Nhiều người ấy chứ!”

“Dù gì cũng phải có một số hộ lý. Một hoặc hai lính gác.”

“Ai đó trên chuyến phà. Có lẽ không chỉ một người.”

“Trừ khi anh ta không rời hòn đảo này bằng cách đi phà. Anh ta có thể có thuyền riêng của mình.”

Teddy suy nghĩ một lúc rồi nói: “Xuất thân giàu có. Đại lộ Park, theo lời Cawley.”

“Thế thì khả năng đi thuyền riêng có lý đấy.”

Teddy nhìn lên bức tường với những vòng dây thép gai mảnh, không khí xung quanh chúng phồng ra như một quả bóng bị ép vào mặt kính. 

“Có được bao nhiêu câu trả lời thì lại mọc ra bấy nhiêu câu hỏi.” Một lúc sau Teddy lên tiếng.

“Thế là thế nào?”

“Tại sao những dòng mật mã đó lại ở trong phòng Rachel?”

“Thì cô ta bị điên mà.”

“Nhưng tại sao lại cho chúng ta xem chứ? Ý tôi là nếu đây là một vụ bao che thì tại sao không để chúng ta dễ dàng ký toẹt vào báo cáo rồi đi? ‘Do hộ lý ngủ quên.’ Hay là ‘Khóa cửa sổ bị gỉ nát mà chúng tôi không để ý.’ ”

Chuck tì tay vào tường. “Có thể họ quá cô đơn. Tất cả bọn họ. Cần có sự giao lưu với ai đó từ thế giới bên ngoài.”

“Đúng thế. Bịa ra một câu chuyện để lôi chúng ta tới đây. Để có cái gì mới mà bàn tán. Tôi thấy hợp lý đấy.”

Chuck quay lại nhìn về khu bệnh viện Ashecliffe. “Nói đùa chứ…”

Teddy cũng quay lại, cả hai đứng đối mặt với bệnh viện. “Ừ…”

“Teddy, tôi bắt đầu cảm thấy không an tâm ở đây.”

“HỌ GỌI NÓ là Đại sảnh,” Cawley nói khi dẫn họ đi qua một hành lang có sàn lát gỗ tới trước hai cánh cửa bằng gỗ sồi với nắm đấm cửa bằng đồng to như những trái dứa. “Tôi nói nghiêm túc đấy. Vợ tôi tìm thấy trên gác mái vài bức thư chưa gửi của chủ cũ, Đại tá Spivey. Nói đi nói lại về cái Đại sảnh mà ông ta đang cho xây dựng.”

Cawley kéo mạnh một trái dứa và đẩy cánh cửa ra. 

Chuck khẽ huýt sáo. Teddy và Dolores có một căn hộ ở Buttonwood khiến bạn bè ghen tị vì sự rộng rãi của nó với hành lang chính có chiều dài gần bằng một sân bóng, thế mà so với căn phòng này thì nó lọt thỏm, chỉ bằng một nửa. 

Sàn nhà được lát đá hoa cương, rải rác những tấm thảm trang trí sẫm màu kiểu phương Đông. Một cái lò sưởi cao quá đầu người. Chỉ riêng đống rèm nhung đỏ thẫm, mỗi tấm dài ba mét trên chín cái cửa sổ cũng đã trị giá hơn số tiền mà Teddy kiếm được trong một năm. Có khi hai năm cũng nên. Một cái bàn bi-a nằm trong góc dưới ba bức tranh sơn dầu vẽ một người đàn ông trong quân phục quân đội liên bang màu xanh nước biển, một phụ nữ trong chiếc đầm trắng diêm dúa, và bức cuối cùng là người đàn ông và người đàn bà đứng trước cái lò sưởi giống như cái lò sưởi khổng lồ ở trong phòng này, dưới chân họ là một con chó.

“Là tranh vẽ ông đại tá à?” Teddy hỏi.

Cawley nhìn theo ánh mắt của anh và gật đầu. “Bị bãi nhiệm không lâu sau khi những bức tranh này được hoàn thành. Chúng tôi tìm thấy chúng dưới tầng hầm của ngôi nhà cùng cái bàn bi-a, với nhiều tấm thảm và ghế ngồi nữa. Anh nên tham quan tầng hầm, đặc vụ ạ. Có thể dùng làm sân chơi Polo ở dưới đó.”

Teddy chợt ngửi thấy mùi tẩu thuốc, anh và Chuck cùng xoay người lại và nhận ra trong phòng còn có một người đàn ông khác. Ông ta ngồi quay lưng về phía họ trong một chiếc ghế bành lưng cao đối diện với lò sưởi, một chân vắt lên đầu gối chân kia, trên đó thò ra gáy một quyển sách. 

Cawley dẫn họ về phía lò sưởi, chỉ vào mấy chiếc ghế đặt ở đằng trước rồi đi về phía tủ rượu. “Đồ uống gì đây, quý ngài?”

“Một ly whisky mạch đen, nếu ông có,” Chuck nói. 

“Được thôi, còn đặc vụ Daniels thì sao?”

“Soda và một ít đá.”

Người đàn ông lạ mặt trong phòng ngẩng đầu lên nhìn họ. “Anh không có cái thú uống rượu sao?”

Teddy nhìn ông ta. Một cái đầu nhỏ nhắn, tóc đỏ, trông như một trái sơ ri vắt vẻo trên một thân hình chắc mập, béo lùn. Cả người ông ta toát ra một vẻ công tử bột, khiến cho Teddy có cảm giác rằng ông ta hẳn đã mất rất nhiều thời gian trong buồng tắm mỗi buổi sáng để chăm sóc cơ thể mình với các loại phấn và dầu thơm.

“Và ông là?” Teddy hỏi.

“Đồng nghiệp của tôi,” Cawley lên tiếng. “Bác sĩ Jeremiah Naehring.” 

Người đàn ông này nháy mắt ra hiệu làm quen với họ nhưng không chìa tay ra nên Teddy và Chuck cũng lờ đi. 

“Tôi rất tò mò,” Naehring nói khi Teddy và Chuck ngồi xuống hai chiếc ghế quây theo hình vòng cung phía bên trái ông ta. 

“Chuyện lạ sao?” Teddy nói.

“Sao anh lại không uống rượu nhỉ? Uống rượu không phải là phổ biến trong nghề của các anh sao?”

Cawley đưa đồ uống cho Teddy lúc này đang đứng bắt tréo chân bên cạnh giá sách phía bên phải lò sưởi. “Cũng khá phổ biến,” anh nói. “Thế còn nghề của các ông?”

“Xin lỗi?”

“Nghề của các ông ấy.” Teddy nói. “Tôi thường nghe thấy người ta nói trong nghề của ông cũng đầy những kẻ nghiện rượu.”

“Không giống như tôi được biết.”

“Thế thì chắc ông không để ý đấy thôi.”

“Tôi không chắc là tôi hiểu ý anh.”

“Đấy, thế đấy là cái gì, trong ly của ông ấy, trà lạnh à?”

Teddy rời mắt khỏi giá sách quay sang nhìn Naehring lúc này đang quan sát chiếc ly của mình, một nụ cười rúm lại như con tằm trên cái miệng mềm mại. “Tuyệt vời, đặc vụ. Anh thật là có tài bào chữa. Tôi đoán rằng anh hẳn rất lão luyện trong việc tra khảo.” 

Teddy lắc đầu, để ý thấy Cawley không có nhiều sách y học lắm, hay ít nhất là trong căn phòng này. Chỉ có một vài cuốn còn ngoài ra toàn là tiểu thuyết, một vài tập sách mỏng mà Teddy đoán là thơ, và rất nhiều sách lịch sử và tiểu sử. 

“Không phải sao?” Naehring nói.

“Tôi là đặc vụ. Tôi giao nộp họ. Trong phần lớn trường hợp, những người khác sẽ làm công việc thẩm vấn.”

“Tôi gọi đó là ‘tra khảo’ còn anh gọi nó là ‘thẩm vấn’. Đúng vậy, đặc vụ, anh quả là có khả năng bào chữa đáng kinh ngạc.” Ông ta gõ gõ ly rượu scotch của mình lên bàn nhiều lần như muốn thể hiện hành động vỗ tay. “Tôi bị mê hoặc bởi những người đàn ông của bạo lực.”

“Đàn ông của gì cơ?”

Teddy bước lại gần bên chiếc ghế của Naehring, nhìn xuống người đàn ông nhỏ thó ngồi đó rồi lắc lắc những viên đá trong chiếc ly của mình.

Naehring quay đầu lại, nhấp một ngụm scotch và nói, “Bạo lực.”

“Thật là định nghĩa chết tiệt, bác sĩ.” Chuck lên tiếng và chưa bao giờ Teddy thấy anh ta khó chịu ra mặt đến vậy.

“Đó không phải là định nghĩa, không phải là định nghĩa.”

Teddy lại lắc chiếc ly một lần nữa trước khi uống cạn và nhìn thấy phía dưới mắt trái của Naehring khẽ giần giật. “Tôi cũng phải đồng ý với cộng sự của mình.” Anh nói và ngồi xuống ghế. 

“Không,” Naehring kéo dài giọng khi nói từ này. “Tôi nói các anh là người của bạo lực. Nó không đồng nghĩa với việc buộc tội các anh là những người bạo lực.” 

Teddy cười rất tươi với ông ta và nói, “Thế thì hãy giải thích cho chúng tôi xem nào.” 

Sau lưng họ, Cawley đặt một đĩa hát vào máy, tiếng kim chạm vào đĩa nghe sột soạt rồi sau đó là những tiếng kêu lộp độp và tiếng rít ken két khiến Teddy nhớ tới những chiếc điện thoại mà anh vừa thử gọi lúc nãy. Thế rồi những âm thanh chói tai đó được thay thế bởi một hòa âm giữa piano và đàn dây. Nhạc cổ điển gì đó, Teddy chỉ biết đến thế. Có lẽ là nhạc Phổ. Nó khiến anh nhớ tới những quán cà phê ở Đức và một bộ sưu tập đĩa nhạc mà anh nhìn thấy trong căn phòng của một viên sĩ quan chỉ huy phó ở Dachau, người đã tự bắn vào họng mình trong lúc nghe nhạc. Hắn ta vẫn còn sống khi Teddy và bốn người lính Mỹ khác bước vào phòng. Máu chảy ra ồng ộc. Nhưng hắn ta không thể với tới khẩu súng lúc này đã rơi xuống sàn để bồi thêm phát nữa. Tiếng nhạc êm ái lan khắp căn phòng như mạng nhện độc. Phải hai mươi phút sau hắn mới chết, hai người lính Mỹ hỏi tên phó chỉ huy xem hắn có đau đớn không khi họ lục soát căn phòng. Teddy nhặt bức ảnh đóng khung để trong lòng hắn lên xem, bức ảnh chụp vợ và hai đứa con, mắt hắn giãn ra và bám theo bức ảnh khi Teddy lấy nó đi. Teddy đứng đó hết nhìn bức ảnh lại nhìn hắn, nhìn tới nhìn lui, cứ thế cho đến khi hắn tắt thở. Trong suốt thời gian đó, tiếng nhạc vẫn du dương. Lảnh lót. 

“Brahms?” Chuck hỏi.

“Mahler.” Cawley ngồi xuống bên cạnh Naehring.

“Anh muốn nghe tôi giải thích đúng không?” Naehring lên tiếng.

Teddy tì hai cùi trỏ lên đầu gối và chìa hai tay ra tỏ ý sẵn sàng lắng nghe.

“Từ hồi đi học,” Naehring nói, “tôi đánh cá rằng không ai trong số hai anh bỏ qua một cuộc xô xát nào ở sân trường. Tôi không có ý nói là các anh thích thú với chuyện đó mà chỉ là vì trong đầu các anh không bao giờ có chỗ cho sự tháo chạy. Đúng thế không?”

Teddy nhìn về phía Chuck. Chuck khẽ mỉm cười với anh, vẻ lúng túng.

“Không được nuôi dạy để bỏ chạy, bác sĩ,” Chuck nói.

“À, đúng, nuôi dạy? Thế ai đã nuôi dạy anh?”

“Những con gấu,” Teddy nói. 

Mắt Cawley chợt sáng lên và ông ta khẽ gật đầu với Teddy.

Thế nhưng Naehring có vẻ không thích sự hài hước. Ông ta khẽ chỉnh lại nếp quần hơi nhàu ở phía đầu gối. “Các anh có tin vào Chúa không?”

Teddy cười. 

Naehring cúi người về phía trước.

“Ôi, ông nói nghiêm túc đấy chứ?” Teddy hỏi.

Naehring vẫn tỏ vẻ đang đợi.

“Ông đã bao giờ nhìn thấy một cái trại tập trung chưa bác sĩ?”

Naehring lắc đầu.

“Chưa ư?” Teddy hơi nhoài người về phía trước. “Tiếng Anh của ông rất tốt, gần như không có khiếm khuyết. Tuy nhiên ông đánh vần các phụ âm vẫn hơi cứng một tí.”

“Việc nhập cư hợp pháp là một tội hay sao, đặc vụ?”

Teddy mỉm cười, lắc đầu.

“Vậy thì hãy quay lại với câu hỏi về Chúa.”

“Một ngày nào đó, ông nhìn thấy một cái trại tập trung, bác sĩ, rồi hãy quay lại hỏi tôi về những cảm nghĩ với Chúa.”

Naehring tỏ ý đồng tình với câu trả lời của Teddy bằng cách nhắm mắt lại rồi từ từ mở mắt ra trước khi đổi hướng nhìn sang Chuck.

“Thế còn anh?”

“Tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy cái trại nào.”

“Tôi hỏi anh có tin vào Chúa không?”

Chuck nhún vai. “Từ lâu tôi cũng chẳng quan tâm tới ông ta cho lắm.”

“Từ khi cha anh qua đời, đúng không?”

Nghe tới đây, Chuck khẽ cúi người về phía trước, nhìn chằm chằm vào người đàn ông thấp, mập với đôi mắt sáng quắc. 

“Cha anh đã qua đời đúng không? Cả cha của anh nữa, đặc vụ Daniels? Trên thực tế, tôi dám cá là cả hai anh đều đã mất đi nhân vật nam giới trụ cột trong gia đình trước sinh nhật thứ mười lăm của mình.”

“Năm con rô,” Teddy nói.

“Xin lỗi?” Nearhing hỏi, hơi nhoài người về phía trước.

“Đây có phải là một trò ảo thuật mới của ông không?” Teddy nói. “Ông sẽ nói cho tôi biết tôi đang giữ con bài nào. Hay là, không, chờ đã, ông sẽ cắt một cô y tá làm đôi hoặc lôi từ trong đầu bác sĩ Cawley ra một con thỏ.”

“Đây không phải là một trò ảo thuật.”

“Hay như thế này,” Teddy vừa nói vừa chỉ muốn vặt cái đầu trông giống như quả sơ ri ra khỏi đôi vai u nung núc thịt của ông ta. “Ông dạy một phụ nữ đi xuyên qua tường, tàng hình trong một tòa nhà đầy hộ lý và lính gác, rồi vượt qua đại dương.”

“Trò này được đấy,” Chuck nói.

Naehring lại chớp mắt một cách chậm rãi khiến Teddy liên tưởng tới một con mèo sau khi ăn no. 

“Lại phải nói kỹ năng bào chữa của anh thật là…”

“À, lại quay về chỗ cũ.”

“… thật là ấn tượng. Nhưng vấn đề hiện nay…” 

“Vấn đề hiện nay,” Teddy nói. “Là cái bệnh viện này trong đêm hôm qua đã vi phạm trắng trợn chín quy định về an ninh. Các ông có một người phụ nữ bị mất tích mà không ai thèm đi tìm xem…”

“Chúng tôi vẫn đang tìm kiếm.”

“Một cách nghiêm túc?”

Naehring ngồi tụt vào ghế và nhìn sang Cawley với cái vẻ khiến Teddy băn khoăn không hiểu ai trong số họ mới thực sự là người nắm quyền.

Cawley bắt gặp ánh mắt Teddy, phía dưới cằm ông ta hơi đỏ lên. “Bác sĩ Naehring, ngoài những chức danh khác thì còn là người phụ trách mảng thông tin liên lạc trong ban giám đốc. Tôi mời ông ấy tới đây với tư cách đó, nhằm giải đáp những thắc mắc của các anh lúc trước.”

“Những thắc mắc nào vậy?”

Naehring khum tay lại châm lửa cho tẩu thuốc của mình rồi nói, “Về việc chúng tôi không thể cung cấp hồ sơ cá nhân của nhân viên.”

“Của Sheehan,” Teddy nói. 

“Của bất kỳ ai.”

“Cơ bản mà nói, ông đang thọc gậy bánh xe chúng tôi đấy.”

“Tôi không quen với cách diễn đạt của anh.”

“Vậy nên nghĩ tới việc đi ra ngoài nhiều hơn nữa.”

“Đặc vụ, cứ tiếp tục cuộc điều tra của anh và chúng tôi sẽ giúp anh bất cứ gì chúng tôi có thể, nhưng…”

“Thôi khỏi.”

“Xin lỗi?” Cawley nhoài người ra phía trước, bốn người bọn họ tạo thành một bộ tứ vai sụm xuống, đầu nhô ra phía trước. 

“Thôi khỏi,” Teddy nhắc lại. “Cuộc điều tra đã kết thúc. Chúng tôi sẽ trở lại thành phố trong chuyến phà đầu tiên. Chúng tôi sẽ viết báo cáo và mọi việc sẽ được chuyển cho các nhân viên của Hoover, tôi chỉ có thể đoán thế. Chúng tôi sẽ ra khỏi vụ này.”

Khói từ tẩu thuốc trên tay Naehring bay lởn vởn. Cawley làm một hơi từ ly rượu của mình. Âm nhạc của Mahler vẫn lảnh lót. Từ đâu đó trong căn phòng, tiếng đồng hồ kêu tích tắc. Bên ngoài trời bắt đầu mưa nặng hạt.

Cawley đặt chiếc ly rỗng xuống cái bàn nhỏ bên cạnh ghế mình.

“Tùy anh thôi, đặc vụ.”

TRỜI VẪN MƯA NHƯ TRÚT khi họ rời khỏi nhà Cawley. Mưa lách tách trên mái nhà lợp ngói đen, trên nền gạch lát ở sân trong ngôi nhà và trên cái mui màu đen của chiếc xe ô tô đang chờ họ. Teddy có thể nhìn thấy mưa cắt xuyên qua bóng đêm thành những tấm màn xiên xiên màu trắng bạc. Từ thềm nhà Cawley ra tới ô tô chỉ có vài bước mà tất cả bọn họ đều ướt như chuột. McPherson đi vòng ra phía trước xe và ngồi vào sau tay lái, làm ướt cả hộp đồng hồ khi lắc đầu cho nước mưa rơi xuống rồi bắt đầu nổ máy chiếc Packard.

“Buổi tối tốt lành.” Ông ta nói, giọng át cả tiếng cần gạt nước kêu xoành xoạch và tiếng mưa rầm rập bên ngoài. 

Teddy nhìn về phía sau qua cửa kính, thấy hình dáng lờ mờ của Cawley và Naehring đang đứng trên bậu cửa quan sát bọn họ. 

“Cả người lẫn vật đều không chịu thấu,” McPherson nói khi một cành cây mảnh bị bứt khỏi thân bay ngang qua tấm kính chắn gió. 

“Ông đã làm việc ở đây được bao lâu rồi?” Chuck hỏi.

“Bốn năm.”

“Đã được nghỉ phép bao giờ chưa?”

“Ối giời, chưa hề.”

“Thế trốn đi chẳng hạn? Kiểu như mất tích đâu đó trong vòng một hai tiếng đồng hồ?”

McPherson lắc đầu. “Như thế cũng không. Phải điên chết mẹ mới làm được thế. Vì biết đi đâu?”

“Thế còn bác sĩ Sheehan?” Teddy nói. “Ông biết anh ta chứ?”

“Có chứ.”

“Anh ta ở đây bao lâu rồi?”

“Tôi nghĩ là trước tôi một năm.”

“Nghĩa là năm năm.”

“Đúng thế.”

“Anh ta có làm việc nhiều với cô Solando không?”

“Theo tôi biết thì không. Bác sĩ Cawley mới là bác sĩ điều trị chính của cô ta.”

“Việc bác sĩ trưởng thân chinh theo dõi một bệnh nhân có phải là bình thường không?”

“Thì…” McPherson không nói hết câu.

Trong lúc họ chờ đợi ông ta tiếp tục thì những chiếc cần gạt nước vẫn quét đi quét lại, những hàng cây tối sẫm uốn rạp xuống trước mắt họ.

“Cũng tùy,” McPherson lên tiếng, vẫy tay với người lính gác khi chiếc Packard tiến vào cổng chính. “Bác sĩ Cawley chịu trách nhiệm điều trị chính cho rất nhiều bệnh nhân ở Khu C. Nhưng cũng có một vài ca ở các khu khác mà ông ấy thấy là cần thiết.”

“Ngoài cô Solando ra thì còn ai nữa?”

McPherson dừng xe lại phía bên ngoài khu tập thể dành cho nhân viên nam. “Các anh không phiền nếu tôi không cần vòng ra ngoài để mở cửa cho các anh chứ? Các anh nên ngủ đi một chút. Tôi chắc rằng bác sĩ Cawley sẽ trả lời tất cả câu hỏi của các anh vào buổi sáng.”

“McPherson,” Teddy nói khi anh mở cửa xe.

McPherson quay lại nhìn. 

“Ông không khéo lắm trong chuyện đó,” Teddy nói.

“Khéo gì cơ?”

Teddy chỉ nhìn ông ta mỉm cười đầy ẩn ý rồi bước ra ngoài trời mưa.

Họ dùng chung phòng với Trey Washington và một hộ lý khác có tên là Bibby Luce. Căn phòng vừa đủ rộng với hai chiếc giường tầng và một khoảng trống nơi Trey và Bibby chơi bài khi họ bước vào. Teddy và Chuck lau khô tóc bằng những chiếc khăn tắm màu trắng ai đó để sẵn trên giường cho họ rồi kéo ghế tham dự cuộc chơi. 

Trey và Bibby dùng đồng xu làm cái, nếu ai hết đồng xu thì có thể dùng thuốc lá thay thế. 

Teddy đánh lừa ba người bằng một ván bảy con bài, thắng năm đô la và mười tám điếu thuốc nhờ vào một phỏm nhép sau đó đút thuốc lá vào túi và chơi chậm lại, vẻ thận trọng. 

Chuck hóa ra chính là một tay chơi thực thụ, lúc nào cũng tươi cười, không thể nào đọc được ý nghĩ của anh ta. Anh ta thu về một đống tiền xu, thuốc lá và cuối cùng là những tờ giấy bạc rồi nhìn chúng với vẻ ngạc nhiên như thể không hiểu tại sao chúng lại xếp đống trước mặt anh ta như thế.

“Anh có đôi mắt X quang à, đặc vụ?” Trey nói.

“Do may mắn thôi, tôi nghĩ thế.”

“Vớ vẩn. May mắn chó gì? Anh ta hẳn dùng ma thuật gì đó.”

“Có lẽ cái thằng bỏ mẹ nào đó không nên sờ dái tai,” Chuck nói.

“Hả?”

“Anh cứ hay sờ lên dái tai, ngài Washington. Mỗi khi không có đủ bộ.” Rồi anh ta chỉ sang Bibby. “Còn cái thằng bỏ mẹ này…”

Nghe tới đây cả ba bọn họ cười ầm lên. 

“Hắn ta, hắn ta – không, chờ tí… – hắn ta, hắn ta có đôi mắt đảo như lạc rang, nhìn vào đống tiền của mọi người rồi bắt đầu chơi tháu cáy. Khi có bài tốt thì trông hắn lặng lẽ, tẩm ngẩm tầm ngầm.”

Trey phá ra cười hô hố hết cỡ rồi đập tay xuống bàn. “Thế còn đặc vụ Daniels, anh ta biểu hiện như thế nào?”

“Tôi sẽ phải bán đứng đồng sự của mình ư? Ồ không, không, không,” Chuck cười nói.

“Ô hô!” Bibby chỉ tay qua bàn vào hai người bọn họ. 

“Không thể làm thế được.”

“Hiểu rồi, hiểu rồi,” Trey nói. “Lại một kiểu hành xử giữa những người da trắng đây mà.”

Mặt của Chuck bỗng tối sầm lại, anh ta nhìn chằm chằm vào Trey cho tới khi căn phòng trở nên ngột ngạt vì thiếu không khí. 

Cái yết hầu trên cổ Trey khẽ nhấp nhô nhưng khi anh ta định giơ một tay lên để xin lỗi thì Chuck nói tiếp, “Đúng là như thế. Chứ còn gì nữa?” rồi cười toét miệng.

“Cái thằng bỏ mẹ!” Trey đập tay vào tay Chuck.

“Đúng là cái thằng bỏ mẹ!” Bibby nói.

“Cái thằng bỏ mợ!” Chuck đáp lại rồi cả ba bọn họ cười khúc khích như bọn con gái.

Teddy nghĩ tới chuyện bắt chước họ nhưng không làm nổi, một người đàn ông da trắng cố tỏ ra là mình ngon lành. Chuck cũng là một người da trắng đấy thôi, nhưng vì một lý do nào đó mà anh ta vẫn luôn rũ bỏ được điều đó. 

“Thế điều gì khiến tôi bị lộ tẩy?” Teddy hỏi Chuck khi cả hai đã trèo lên giường, nằm im trong bóng tối. Phía đối diện, Trey và Bibby đã thi nhau ngáy o o, cơn mưa bên ngoài cũng đã thưa dần từ khoảng nửa tiếng đồng hồ trở lại đây như thể nó đang lấy lại hơi chờ cho một đợt tăng cường mới. 

“Trong lúc chơi bài hả?” Chuck hỏi vọng lên từ chiếc giường bên dưới. “Quên chuyện đó đi.”

“Không. Tôi muốn biết mà.”

“Sếp nghĩ là sếp chơi cũng được, đúng không? Thừa nhận đi.”

“Tôi nghĩ là tôi chơi cũng không tệ lắm.”

“Không hề.”

“Nhưng mà cậu đã vét tôi nhẵn túi.”

“Tôi chỉ thắng có vài đồng thôi mà.”

“Bố cậu là một tay cờ bạc à?”

“Bố tôi là một tên khốn.”

“Ôi, xin lỗi.”

“Không phải lỗi của sếp. Còn bố sếp?”

“Bố tôi?”

“Tất nhiên là bố sếp, không lẽ lại là chú sếp?”

Teddy cố gắng hình dung ra bố mình trong bóng tối, nhưng chỉ thấy đôi bàn tay của ông với những vết sẹo lằn ngang dọc.

“Ông ấy là một người xa lạ,” Teddy nói. “Với tất cả mọi người. Kể cả với mẹ tôi. Khỉ thật, tôi nghi là ngay cả ông ấy cũng chẳng biết mình là ai. Ông ấy là cái thuyền. Khi ông ấy mất nó, ông ấy cũng trôi giạt đi.”

Chuck không nói gì trong một lúc lâu khiến Teddy tưởng rằng anh ta đã ngủ. Anh đột nhiên thấy cha mình, cả người ông, ngồi trên một chiếc ghế trong những ngày không có việc gì làm, bị nuốt chửng giữa những bức tường, trần nhà, và những căn phòng. 

“Này, sếp?”

“Cậu chưa ngủ cơ à?”

“Sếp sẵn sàng dọn đồ đi đấy à?”

“Ừ, cậu ngạc nhiên à?”

“Tôi không có ý trách sếp. Tôi chỉ, tôi cũng chẳng biết…”

“Gì cơ?”

“Tôi chưa bao giờ bỏ cuộc trước đây.”

Teddy nằm im một lúc. Cuối cùng anh lên tiếng, “Chúng ta không nghe thấy một chút sự thật nào. Chúng ta không có cách nào để tìm hiểu nó, không có bằng chứng nào để bám vào và không có cách nào để cậy miệng những người này.”

“Tôi biết, tôi biết,” Chuck nói. “Tôi hoàn toàn đồng ý với các lý lẽ của sếp.”

“Nhưng?”

“Nhưng tất cả chỉ là ở chỗ trước đây tôi chưa hề bỏ cuộc bao giờ.”

“Rachel Solando đã không đi chân trần ra khỏi một căn phòng bị khóa mà không có sự giúp đỡ. Rất nhiều người giúp. Cả cái bệnh viện này đã giúp cô ta. Kinh nghiệm của tôi ư? Đó là anh không thể nào chống lại cả một cộng đồng mà không ai muốn nghe anh nói. Nhất là khi chỉ có hai chúng ta. Kịch bản tốt nhất là lời đe dọa có hiệu lực và Cawley hiện đang ngồi trong dinh thự của mình suy ngẫm về thái độ của ông ta trong vụ này. Có thể sáng mai…”

“Thế ra là sếp định chơi một ván tháu cáy?”

“Tôi không nói thế.”

“Tôi chỉ nói chuyện chơi bài với sếp thôi mà sếp.”

Rồi cả hai lại chìm trong im lặng, Teddy nằm nghe biển rì rào.

“Sếp hay bĩu môi,” Chuck nói, giọng bắt đầu ngái ngủ.

“Gì cơ?”

“Khi sếp có bài đẹp. Sếp thường chỉ bĩu môi rất nhanh trong khoảng một giây. Nhưng sếp luôn làm thế.”

“Ôi!”

“Ngủ ngon, sếp.”

“Ngủ ngon.”

CÔ ĐI DỌC theo hành lang về phía anh. 

Dolores với những đốm lửa giận dữ trong mắt. Tiếng Bing Crosby ngâm nga bài “East Side of Heaven” vang lên đâu đó trong ngôi nhà, có lẽ là từ trong bếp. 

Cô nói, “Trời ơi, Teddy. Trời ơi là trời.” Trong tay cô là một chai rượu JTS Brown rỗng không. Chai rượu rỗng không của anh. Và Teddy hiểu rằng cô đã phát hiện ra một chỗ giấu rượu của anh.

“Anh có bao giờ tỉnh rượu không hả? Anh còn có lúc quái nào tỉnh táo nữa không? Trả lời tôi đi.”

Nhưng Teddy không thể. Anh không thể nói được. Anh thậm chí còn không biết cơ thể của mình đang ở đâu nữa. Anh có thể nhìn thấy cô và cô tiếp tục đi dọc theo cái hành lang dài về phía anh nhưng anh không thể trông thấy cơ thể của chính mình, thậm chí còn không cảm nhận được nó. Có một chiếc gương ở cuối hành lang, phía sau Dolores nhưng anh không thấy bóng mình phản chiếu trong đó. 

Cô quay người đi vào phòng khách, lưng cô đã cháy đen, vẫn còn hơi âm ỉ. Cái chai không còn nằm trong tay cô nữa, từ tóc cô nhả ra những làn khói trông như những dải ruy băng nhỏ. 

Cô dừng lại bên cửa sổ. “Ôi, nhìn xem. Như thế này trông chúng mới đẹp làm sao. Bồng bềnh.”

Teddy đứng cạnh cô bên cửa sổ, cô không cháy nữa mà ướt đẫm và anh có thể nhìn thấy chính mình, một tay đặt lên vai Dolores, những ngón tay che lấy đoạn xương đòn rồi cô quay đầu lại, hôn nhanh lên mấy ngón tay anh.

“Em làm gì thế?” anh nói dù không chắc là tại sao mình lại hỏi vậy.

“Hãy nhìn chúng ở ngoài kia mà xem.”

“Cưng ơi, sao em lại ướt hết cả thế này?” anh hỏi nhưng cũng không ngạc nhiên khi cô chẳng trả lời.

Cái quang cảnh bên ngoài cửa sổ không phải là thứ anh mong đợi. Đó không phải là cảnh họ thấy phía bên ngoài căn hộ ở Buttonwood mà là của một nơi khác, một căn nhà gỗ nhỏ họ từng sống trước đây. Phía bên ngoài ngôi nhà đó là một cái hồ xinh xắn với những khúc gỗ nhỏ trôi bập bềnh trên mặt nước, và Teddy nhận thấy chúng mới mềm mại làm sao, gần như vô hình, mặt nước lấp lánh và trắng muốt ở những nơi có ánh trăng. 

“Đó là một cái vọng lâu rất đẹp,” cô nói. “Trắng tinh. Anh có thể ngửi thấy mùi sơn mới.”

“Nó rất đẹp.”

“Và…” 

“Anh đã giết rất nhiều người trong chiến tranh.”

“Vì thế mà anh uống rượu.”

“Có lẽ.”

“Cô ta đang ở đây.”

“Rachel hả?”

Dolores gật đầu. “Cô ta chưa bao giờ bỏ đi cả. Anh gần như đã nhìn thấy. Anh gần như đã thấy.”

“Luật của bốn.”

“Đó là mật mã.”

“Đúng thế, nhưng để diễn tả điều gì?”

“Cô ta đang ở đây. Anh không thể bỏ đi được.”

Anh quàng tay ôm lấy cô từ phía sau, dụi mặt anh vào một bên gáy cô. “Anh sẽ không đi đâu cả. Anh yêu em. Anh yêu em rất nhiều.”

Bụng cô bỗng nhiên bỗng nứt ra một khe hở, chất lỏng tuôn trào qua những kẽ ngón tay anh. 

“Em chỉ còn là nắm xương trong một cái hộp, Teddy.”

“Không đúng.”

“Đúng vậy. Anh phải tỉnh lại thôi.”

“Em đang ở đây mà.”

“Em không. Anh phải đối diện với điều đó. Cô ta đang ở đây. Anh đang ở đây. Cả hắn ta cũng đang ở đây. Hãy đếm số giường bệnh mà xem. Hắn ta đang ở đây.” 

“Ai cơ?”

“Laeddis”

Cái tên đó xuyên qua da thịt anh, thấu vào tận xương tủy. 

“Không.”

“Đúng thế đấy.” Cô quay đầu lại, nhìn anh. “Anh biết điều đó mà.”

“Anh không biết.”

“Có, anh có biết. Anh không thể đi được.”

“Lúc nào em cũng căng thẳng.” Anh khẽ bóp vai cô và cô khẽ rên lên một tiếng ngạc nhiên khiến cả người anh căng cứng. 

“Em không còn căng thẳng nữa,” cô nói. “Em về nhà rồi.”

“Đây không phải là nhà,” anh nói.

“Đây đúng là nhà. Nhà em. Cô ta ở đây. Hắn cũng ở đây.”

“Laeddis.”

“Laeddis,” cô nói. Rồi lại nói thêm: “Em phải đi thôi.”

“Không,” anh bật khóc. “Không, hãy ở lại.”

“Ôi Chúa ơi.” Cô lại dựa vào anh. “Hãy để em đi. Hãy để em đi.”

“Xin em đừng đi.” Nước mắt của anh chảy dọc xuống thân thể cô, hòa lẫn vào dòng chất lỏng đang tuôn ra từ bụng cô. “Anh muốn ôm em thêm một chút nữa. Chỉ một chút nữa thôi. Xin em đấy.”

Từ cổ họng của cô khẽ phát ra một âm thanh, nửa như tiếng thở dài, nửa như tiếng hú, một nỗi thống khổ đau đớn mà đẹp đẽ. Rồi cô hôn lên những khớp xương trên đốt ngón tay anh. 

“Thôi được. Hãy ôm em thật chặt. Chặt hết mức vào.”

Và anh ôm lấy vợ mình. Anh ôm và ôm lấy cô.

NĂM GIỜ SÁNG, ngoài trời vẫn mưa, Teddy trèo xuống giường, lấy quyển sổ ghi chép trong túi áo khoác, ngồi vào cái bàn chơi xì phé đêm qua, rồi giở trang anh đã chép lại mật mã luật của bốn của Rachel Solando ra. 

Trey và Bibby vẫn ngáy như sấm. Chuck ngủ yên tĩnh, nằm sấp, một tay nắm lại phía dưới tai như thể đang thì thầm những điều bí mật. 

Teddy nhìn xuống trang giấy. Nó sẽ rất đơn giản nếu như bạn biết cách đọc. Một mật mã của trẻ con, đúng là như thế. Nhưng dù sao thì nó vẫn là một mật mã và phải tới sáu giờ Teddy mới giải được nó. 

Anh nhìn lên và thấy Chuck đang quan sát mình từ trên giường của anh ta, tay chống cằm. 

“Chúng ta đi chứ, sếp.”

Teddy lắc đầu.

“Không có ai đi khỏi cái chỗ khốn kiếp này sao?” Trey nói và trèo ra khỏi giường, kéo rèm cửa sổ lên để lộ quang cảnh ngập lụt màu ngọc trai xám bàng bạc phía bên ngoài. “Cũng chẳng sao.” 

Giấc mơ đột nhiên trở nên khó níu giữ, mùi hương của cô đã bay đi khi tấm rèm cửa sổ được kéo lên, trong một tiếng ho khan của Bibby và tiếng ngáp dài, ồn ã lúc vươn mình của Trey.

Teddy tự hỏi, và không phải là lần đầu tiên, phải chăng cái ngày mà anh không thể vượt qua được việc mất cô cuối cùng đã đến? Nếu như anh có thể quay ngược lại thời gian về đám cháy buổi sáng hôm đó và thay thế cô bằng cơ thể của anh thì anh sẽ làm thế. Điều đó là hiển nhiên. Lúc nào cũng vậy. Nhưng năm tháng trôi qua mà anh không hề bớt nhớ thương cô, ngược lại anh càng nhớ cô nhiều hơn và mong muốn có cô bên cạnh đã trở thành một vết cắt không bao giờ liền sẹo, không bao giờ ngừng rỉ máu. 

Tôi đã ôm cô ấy, anh những muốn nói thế với Chuck, với Trey và Bibby. Tôi đã ôm cô ấy khi tiếng nhạc của Bing Crosby dìu dặt phát ra từ chiếc radio trong bếp và tôi có thể hít thở mùi hương của cô ấy cùng với căn hộ ở Buttonwood và cái hồ nước nơi chúng tôi đã sống mùa hè năm đó, và môi cô ấy đã lướt trên những ngón tay tôi.

Tôi đã ôm cô ấy. Cái thế giới này không thể cho tôi điều đó. Cái thế giới này chỉ nhắc tôi về những thứ mà tôi không có được, không bao giờ có được hoặc từng có nhưng không còn nữa. 

Đáng lẽ chúng ta sẽ cùng già đi bên nhau, Dolores. Có những đứa con. Cùng đi dạo dưới những cây cổ thụ. Tôi muốn nhìn những nếp nhăn xuất hiện trên da thịt em và biết được lúc nào thì những nếp nhăn đó xuất hiện, từng nếp một. Và chết cùng nhau.

Chứ không thế này. Không phải như thế này.

Tôi đã ôm cô ấy, anh những muốn nói vậy, và nếu tôi biết chắc rằng tất cả những gì tôi có thể làm để được ôm cô ấy lần nữa là cái chết thì tôi sẽ không ngần ngại chĩa súng vào đầu mình. 

Chuck vẫn nhìn anh chằm chằm, chờ đợi.

“Tôi đã giải được mật mã của Rachel,” Teddy nói.

“Ôi,” Chuck tiếp, “còn gì nữa không?” 

Chú thích 

1. Scotland Yard là tên gọi của cảnh sát Anh. MI5 là cơ quan phản gián Anh. 0SS là cơ quan phản gián Mỹ được thành lập trong Thế Chiến thứ Hai, tiền thân của CIA. (ND) 


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.