Dấu Bộ Tứ
Chương 10 – Hết đời tên dân đảo
Bữa ăn thật vui vẻ. Khi nào anh muốn, Holmes là một tay nói chuyện tài tình; tối hôm ấy, anh muốn như thế. Dường như anh ở trong tình trạng phấn chấn hứng khởi vả tỏ ra rất hoạt bát. Chuyển nhanh từ chủ đề này sang chủ đề khác, những vở kịch thời Trung cổ, những cây đàn violone của Stradivarius, Phật giáo tại Srilanca[1], tàu chiến trong tương lai, anh thảo luận mỗi đề tài này tưởng như đã từng nghiên cứu kỹ lưỡng. Tính tình vui vẻ lúc ấy hoàn toàn khác hẳn vẻ thiểu não hai ngày trước. Athelney Jones thì tỏ ra lịch thiệp trong những giờ giải lao ấy và tham dự buổi ăn tối rất vui vẻ. Phần tôi, tôi thấy nhẹ nhõm khi nghĩ rằng chúng tôi đã đến gần chỗ kết thúc vụ án và cũng để mình xuôi theo niềm vui dễ lây của Holmes.
Trong suốt bữa ăn, không một ai trong chúng tôi đề cập đến thảm kịch đã kết hợp chúng tôi lại lúc ấy. Khi bàn ăn được dọn dẹp, Holmes liếc nhìn đồng hồ và rót ba ly rượu.
– Một tuần rượu để chúc chuyến đi nho nhỏ của chúng ta thành công! – Anh ra lệnh – Và bây giờ đã đến lúc lên đường. Watson, anh có súng ngắn không?
– Tôi có khẩu súng cũ trong bàn giấy.
– Anh nên mang nó theo. Phải dự kiến mọi tình huống. Tôi thoáng thấy xe đợi ở cửa. Tôi đã gọi hẹn lúc sáu giờ rưỡi.
Khoảng sau bảy giờ, chúng tôi đến bến Westminster. Bằng con mắt lành nghề, Holmes xem xét chiếc đò máy đang đợi chúng tôi.
– Có dấu hiệu gì cho biết nó thuộc cảnh sát?
– Vâng, có. Có ngọn đèn xanh bên hông.
– Thế thì phải gỡ nó ra.
Sau khi đã cải tiến chút đỉnh như thế, chúng tôi ngồi vào tàu và người ta nhổ neo. Jones, Holmes và tôi ngồi phía sau. Một người đứng ở đầu lái, một người đứng máy và hai viên thanh tra cảnh sát vạm vỡ ở phía trước.
– Ta đi đâu đây – Jones hỏi.
– Đến Tower[2]. Nói họ ngừng trước ụ tàu Jacobson.
Rõ ràng chiếc tàu của chúng tôi chạy rất nhanh. Chúng tôi qua mặt từng đoàn xà lan chất đầy hàng, nhanh tưởng như những đoàn đang bỏ neo. Holmes nở một nụ cười thỏa mãn khi thấy tàu chúng tôi đuổi kịp một chiếc tàu máy khác và để nó lại phía sau.
– Ta phải có khả năng đuổi kịp bất cứ ai trên đoạn sông này – Anh nói.
– Có thể là hơi nói ngoa nhưng không có nhiều đò máy có khả năng bỏ rơi chúng ta đâu.
– Ta phải đuổi chân chiếc “The Aurora” vốn nổi tiếng phóng nhanh như giống hải âu. Tôi sẽ giải thích bằng cách nào tôi đã tìm thấy chiếc “The Aurora”, Watson. Anh còn nhớ tơi bực mình hết sức vì bị cản trở bởi một việc khó khăn cỏn con chứ?
– Có.
– Thế này nhé. Lúc vùi đầu vào việc phân tích hóa chất, trí óc tôi được hoàn toàn thanh thản. Một trong những chính khách lớn nhất của ta có nói cách nghỉ ngơi tốt nhất là thay đổi công việc làm. Ấy thế mà đúng đấy! Khi tôi thành công việc hòa tan hydrocarbon, một công trình tôi nghiên cứu từ trước, tôi quay về vấn đề Sholto và một lần nữa duyệt xét lại toàn bộ vấn đề. Đám trẻ con của tôi lục soát không kết quả con sông – ngược cũng như xuôi dòng. Chiếc đò máy không nằm tại một bến đò nào mà cũng không trở về bến của nó. Bị đánh đắm để xóa mọi dấu vết là điều khó có thể xảy ra. Tuy nhiên tôi vẫn giữ lại giả thuyết này trong đầu trường hợp cần đến nó. Tôi biết cái anh chàng Small kia là một người khá mưu mô xảo quyệt nhưng tôi không tin hắn có đủ tinh vi. Sau đó, tôi nghĩ đến việc là hắn chắc đã ở tại London một thời gian, bằng chứng là hắn kiểm soát chặt chẽ khu biệt trang Pondicherry. Như vậy hắn rất khó lòng mà bỏ đi tức khắc được. Hắn cần một khoảng thời gian nào đó, dầu chỉ là một ngày để thanh toán công việc. Ít ra những điều này cũng có thể xảy ra.
– Tôi lại thấy có vẻ khá độc đoán – Tôi nói – Điều có thể xảy ra hơn là hắn đã thu xếp mọi sự trước khi ra tay chứ.
– Không, tôi không nghĩ như vậy. Hang ổ của hắn là một nơi trú ẩn quý báu quá nên hắn không thể nghĩ đến việc rời bỏ nơi đó trước khi chắc chắn có thể tìm ra một nơi khác. Rồi lại còn mặt này nữa của vấn đề: Jonathan chắc phải nghĩ đến hình dáng khác thường khó lòng che mắt của tên tòng phạm, dù có cho y ăn mặc cách nào chăng nữa cũng có thể gợi trí tò mò và còn có thể khiến một số người liên hệ đến tấn thảm kịch ở Norwood nữa. Hắn đủ thông minh để nghĩ đến điều đó. Bọn chúng rời khỏi nhà vào ban đêm và Small phải trở về trước rạng sáng. Thế mà khi chúng đến nơi chiếc đò đậu thì đã quá 3 giờ sáng; còn một tiếng đồng hồ nữa là ngày sẽ tỏ, thiên hạ bắt đầu đi lại… Tôi kết luận bằng lối suy diễn là chúng không đi xa lắm đâu. Chúng trả tiền hậu hĩ cho Small để ông này kín miệng và giữ chiếc đò máy sẵn sàng cho cuộc đào tẩu sau cùng; và chúng hấp tấp trở về nhà cùng với kho báu. Hai, ba ngày sau, sau khi xem xét kỹ báo chí trình bày sự việc như thế nào, và đã kiểm tra xem chúng có bị nghi ngờ gì không, chúng sẽ ra đi bằng đò máy, nhờ bóng đêm che chở, về chiếc tàu nào đó thả neo tại Gravesend hoặc Down. Chắc chắn bọn chúng đã lấy vé đi Mỹ hoặc các xứ thuộc địa.
– Thế còn chiếc đò máy? Chúng đâu có thể mang theo!
– Đồng ý! Thế là tôi nhất quyết chiếc đò máy không ở đâu xa dầu tìm không thấy. Tôi tự đặt vào địa vị Small và nhìn vấn đề theo góc cạnh của chính hắn. Có lẽ hắn cũng ý thức mối hiểm nguy nếu đưa đò về bến chính hoặc giữ nó lại tại một bến nào đó, nếu cảnh sát phăng ra dấu vết của hắn. Thế thì làm sao vừa che giấu chiếc tàu đồng thời giữ nó trong tầm tay sẵn sàng để sử dụng. Tôi sẽ xử trí ra sao ở vào địa vị của hắn và trong những hoàn cảnh tương tự? Tôi tìm kiếm và chỉ thấy có một cách duy nhất là giao chiếc tàu cho một xưởng đóng tàu hoặc sửa chữa, với lời dặn thay đổi đôi chút. Như thế là chiếc tàu nằm trong một hãng nào đó, và được che giấu kỹ. Tuy nhiên, trong vài tiếng đồng hồ nữa nó lại thuộc quyền sử dụng của tôi.
– Nghe ra khá đơn giản đấy.
– Y chính những điều rất đơn giản mới có nhiều cơ hội nhất để qua mắt thế gian. Tôi quyết định mang suy nghĩ này ra ứng dụng thử xem. Mặc vào người bộ áo quần thủy thủ vô hại này, tôi liền đi điều tra trong tất cả các xưởng xuôi sông, không kết quả trong mười lăm xưởng. Nhưng đến xưởng thứ mười sáu, xưởng của Jacobson, tôi được biết chiếc “The Aurora” được giao cho họ hai ngày trước đó do một người đi chân gỗ than phiền về bánh lái tàu. “Cái bánh lái ấy chẳng có sao cả”. Viên đốc công bảo tôi thế – “Kìa, chiếc đò máy ấy kia kìa, chiếc có những vạch đỏ”.
Vừa lúc ấy, ai xuất hiện? Thì chính Mordecai Smith, người chủ mất tích. Ông ta say bí tỷ. Dĩ nhiên tôi không thể nhận ra nếu ông ta đừng đem tên mình và tên chiếc tàu ra mà gào lên đến vỡ họng: “Tôi cần nó đúng tám giờ, anh nghe rõ chứ? Tôi có hai vị không chờ đợi được đâu đấy”.
– Bọn chúng chắc đã chu cấp rộng rãi cho Smith. Y thừa thãi tiền và phân phát những đồng shilling thoải mái cho thợ thuyền. Tôi theo y bén gót trong một thời gian, nhưng y lại biến mất trong một quán rượu. Thế là tôi trở về xưởng và trên đường gặp một chú trinh sát của tôi, tôi đặt nó canh chừng cạnh chiếc đò máy. Tôi bảo nó đứng ngay cạnh bờ sông và vẫy khăn tay khi thấy chúng chạy. Bố trí như vậy quả là điều lạ lùng nếu chúng tôi không tóm gọn được cả bọn và kho báu.
– Dầu có phải đúng là bọn ấy hay không chăng nữa, thì ông cũng đã chuẩn bị mọi thứ rất kỹ càng – Jones nói – Nhưng nếu tôi đảm trách vụ này, tôi sẽ lập một vành đai cảnh sát quanh ụ tàu của Jacobson và bắt chúng ngay lúc chúng trở về.
– Nghĩa là chẳng bao giờ. Vì Small là một tay khá quỷ quyệt. Hắn sẽ cho người thám thính, và nếu có động tĩnh gì là hắn sẽ lẩn trốn trong một tuần lễ.
– Nhưng anh có thể bám gót Mordecai Smith và từ đó phát hiện ra nơi ẩn nấp của chúng – Tôi biện bác lại.
– Nếu thế, tôi sẽ mất cả một ngày. Tôi tin rằng chẳng có lấy một phần trăm may mắn để Smith biết được nơi ẩn nấp của chúng. Tại sao y lại đi thắc mắc này nọ trong khi y được trả công rất hậu và nhận thả cửa? Chúng sẽ truyền đến y những chỉ thị. Không anh ạ, tôi đã nghĩ kỹ đủ các phương cách hành động và cách này là tốt nhất.
Trong lúc trao đổi, chúng tôi đã vượt qua một loạt những cây cầu bắc qua sông Thames. Lúc chúng tôi vào đến trung tâm thành phố, những tia nắng cuối cùng nhuộm vàng cây thập tự trên nóc nhà thờ St. Paul. Hoàng hôn trải rộng trước khi chúng tôi đến Tháp London.
– Đây là ụ tàu của Jacobson – Holmes vừa nói vừa chỉ vào đám lố nhố chằng chịt những cột buồm dây thừng bên phía Surrey – Ta hãy chạy lên xuống dọc sông với tốc độ giảm. Ta chạy tuần tra nấp theo sau đoàn xà lan kia.
Anh lấy cặp ống nhòm trong túi ra và quan sát bờ bên kia một hồi.
– Tôi trông thấy chú trinh sát ở vị trí rồi – Anh tiếp – Nhưng nó không vẫy mù-soa.
– Hay chúng ta đi xuống dọc sông một chút rồi đợi chúng tại đó – Jones vồn vã đề nghị.
Giờ thì chúng tôi đều nôn nóng; ngay cả mấy cảnh sát viên và thợ máy là những người chỉ có một ý niệm rất mơ hồ về những gì đang chờ đợi chúng tôi.
– Ta không được quyền phạm một sai sót nào, dầu nhỏ nhất – Holmes đáp – Rất có thể là chúng xuôi sông, dĩ nhiên, nhưng chẳng có gì là chắc cả. Từ vị trí chúng ta có thể kiểm soát lối ra vào các xưởng, ngược lại chúng khó lòng nhận ra chúng ta. Đêm nay trời trong sáng và ta sẽ có đủ ánh sáng cần thiết. Anh có thấy đám người chen chúc vội vã ở chân cột đèn đằng kia không?
– Họ rời xưởng. Đã hết giờ làm việc.
– Trông họ thật gớm ghiếc nếu cứ nghĩ người nào cũng ẩn giấu một tia nhỏ vô luận nào đó trong đầu. Nhưng, ta lại không được quyền nghĩ thế: ta không thể phát biểu cái “có lẽ” một cách võ đoán được. Con người là một bí hiểm đến lạ lùng.
– Có ai đó nói rằng con người là một con thú mang xác người – Tôi bảo anh ấy.
– Về điểm này, Winwood Reade thật tuyệt. Ông ấy nhận xét rằng con người nếu tách riêng ra là một bài toán nát óc không giải nổi, nhưng đứng giữa đám đông, nó lại biến thành một chính xác có tính toán học. Chẳng hạn, anh không thể tiên đoán kẻ này kẻ nọ sẽ làm gì, chúng anh có thể dự kiến một nhóm người sẽ cư xử ra sao. Cá nhân thì thay đổi, song trung bình các cá nhân lại bất biến. Nhà thống kê học nói thế đấy. Ờ mà kìa, chẳng phải tôi vừa trông thấy chiếc khăn tay đó sao? Kia kìa: có cái gì trăng trắng đang động đậy.
– Đúng, chú trinh sát của anh đó – Tôi kêu lớn – tôi thấy nó rất rõ.
– Và kìa, chiếc “The Aurora”. Nó phóng nhanh như quỷ sứ. Ê thợ máy, mở hết tốc lực nhanh đi nào. Hướng về chiếc đò máy có ánh đèn màu vàng kia. Trời đất? Thật hết chịu nổi nếu nó nhanh hơn ta.
Nó len lỏi giữa lối ra vào xưởng, lách mình qua giữa hai, ba chiếc tàu nhỏ hơn. Nó đã đạt lên tốc độ tối đa, hay gần như thế, trước khi có thể trông thấy nó. Xả hết hơi, giờ nó xuôi sông nép theo khá gần bờ, Jones nhìn theo nó, lắc đầu.
– Nó chạy nhanh quá – Ông nói – Tôi e rằng ta không bắt kịp nó đâu.
– Phải đuổi kịp nó chứ? – Holmes kêu lớn – Cho đầy nước vào nồi súp de đi, thợ máy! Hãy bám theo chúng, phải đạt năng suất tối đa vào! Phải đuổi bắt kịp chúng nó, dầu có phải đốt cháy tàu ta!
Đến lượt chúng tôi bắt đầu gia tăng tốc độ. Nồi súp-de gầm rít, mấy máy cực mạnh thở phì phì và rung lên như con tim kim khí khổng lồ. Mũi tàu sắc nhọn rẽ nước ném ra hai bên hai lớp sóng gào thét. Cứ mỗi nhịp máy nổ, con tàu lái nhảy chồm lên rung chuyển như con vật sống động. Phía trước, ngọn đèn lồng màu vàng quét một tia sáng dài lung linh. Một vệt tối trên sóng nước chỉ rõ vị trí của chiếc “The Aurora”. Bọt trắng sôi sục phía sau nó cho biết tốc độ điên cuồng của nó. Chúng tôi đâm bổ tới trước nhanh hơn. Chúng tôi qua mặt đoàn xà lan, tàu kéo, tàu buôn, lướt nhẹ qua chiếc này, bọc vòng chiếc kia. Từ trong bóng tối vọt lên những tiếng la hét gọi réo theo chúng tôi.
– Đốt lửa lò thêm nữa các bạn, đốt thêm lên đi – Holmes hét lớn, nhìn vào buồng máy bên dưới. Nồi súp-de đỏ rực chiếu sóng lên khuôn mặt nóng nảy của anh – Nạp hết hơi nước vào!
– Tôi nghĩ ta đã bắt kịp nó tí đỉnh rồi đó – Jones nói, mắt không rời chiếc “The Aurora”.
– Chắc thế rồi – Tôi nói – Trong ít phút nữa ta bắt kịp nó thôi.
Đúng vào lúc đó, một chiếc tàu kéo ba chiếc xà lan xen vào giữa chúng tôi, như có một vị thần tai ác nào cố tình đặt nó vào đấy. Chúng tôi chỉ có thể tránh khỏi sự va chạm bằng cách kéo mạnh hết cỡ chiếc bánh lái. Thời gian vòng qua đoàn tàu và bẻ lái hướng về những kẻ chạy trốn đủ cho chiếc “The Aurora” lấn tới thêm 200 yard. Tuy nhiên nó vẫn còn trong tầm nhìn.
Ánh hoàng hôn mờ đục nhường chỗ cho ánh sao soi sáng trên bầu trời đêm, sức mạnh khổng lồ ném chúng tôi về phía trước khiến vỏ tàu mỏng nhẹ của chúng tôi rung lên và nghiến rít. Chúng tôi chạy băng qua vực, vượt qua khu bến tàu Tây Ấn, chạy xuống dọc theo khúc sông Deptford rồi quay mũi lên sau khi vòng qua Isle of Dogs. Jones chụp được chiếc “The Aurora” trong chụm tia sáng của chiếc đèn pha; chúng tôi trông thấy rõ bóng người trên boong. Một người ngồi phía đuôi tàu, ôm giữ hai chân một vệt đen và cúi mình lên đó. Nằm cạnh hắn là một khối đen mờ trông giống như con chó giống miền Đất Mới. Cậu bé Smith giữ cần lái trong lúc cha nó lưng trần, bóng, nổi rõ trước lò lửa đỏ rực, tiếp than từng xẻng lớn theo một nhịp độ khủng khiếp. Có lẽ thoạt đầu bọn chúng chưa rõ ý định của chúng tôi, nhưng đến lúc thấy chúng tôi bắt chước chúng theo từng khúc quanh, từng lối ngoằn ngoèo thì chúng không còn ngờ vực gì nữa. Đến Greenwich chúng tôi cách sau tàu chúng độ 300 bộ[3]. Đến Blackwall, chỉ còn cách 250 bộ. Trong cuộc đời sôi nổi của tôi, tôi đã săn bắn nhiều thú tại nhiều nước, nhưng môn thể thao đó chưa bao giờ tạo cho tôi cái kích động man rợ trong cuộc săn đuổi người giữa dòng sông Thames này. Cứ đều đặn, từng yard, từng yard, chúng tôi có thể nghe rõ tiếng máy tàu thở hổn hển và đập ầm ầm. Người trên boong vẫn ngồi xổm, đôi tay cử động tưởng như đang bận vào việc gì đó. Thỉnh thoảng hắn lại lấy mắt đo khoảng cách giữa chúng tôi đang giảm xuống một cách khắc nghiệt. Jones gọi chúng. Chúng tôi chỉ còn cách nhau bốn thân tàu. Hai chiếc vẫn chạy với một tốc độ kinh khủng.
Trước mặt chúng tôi, dòng sông trải rộng mênh mông, bên này bờ là vùng Barking và bên kia là những đầm lầy Plumstead hoang vắng. Nghe chúng tôi gọi, người trên boong nhảy nhổm dậy, đưa hai nắm tay lên và chửi thề với giọng khàn đặc. Hắn có tầm vóc rất vạm vỡ. Lúc đứng thẳng đối diện với chúng tôi, hai chân soạn ra để dữ thăng bằng, tôi có thể thấy từ vế trở xuống chi là cái chân gỗ. Nghe tiếng la hét giận dữ của hắn, cái khối đen ngòm bên cạnh hàn bắt đầu cử động. Khối đen ấy biến thành một con người nhỏ da đen, một con người bé nhỏ mà tôi chưa từng thấy. Nó có cái đầu dị dạng và một mớ tóc rối bời. Holmes đã rút khẩu súng ngắn của anh ra khi trông thấy sinh vật quái dị ấy, và tôi bắt chước theo. Gã man di quấn quanh mình một thứ áo choàng màu sẫm hay cái mền gì đó, chỉ để hở cái mặt, nhưng cái mặt ấy đủ khiến ta không ngủ được. Đường nét trên mặt hằn sâu tính hung bạo súc vật. Cặp mắt ti hí long lanh rực lên một thứ ánh sáng tối tăm. Đôi môi méo xệch thành cái nhếch mép ghê tởm. Răng hắn nghiến vào nhau, đánh vào nhau lập cập khi thấy chúng tôi với vẻ giận dữ thú vật.
– Cứ nổ súng nếu nó đưa tay lên – Holmes bảo khẽ.
Lúc này chúng tôi cách nhau chưa được một thân tàu và gần bắt được con mồi. Bây giờ tôi vẫn còn thấy rõ như in hai người đứng trong ánh đáng ngọn đèn chúng tôi: tên da trắng chân dang rộng, gào thét những câu chửi rủa và tên lùn dị tướng với bộ mặt gớm ghiếc, hàm răng vàng khè rắn chắc như muốn ngoạm lấy chúng tôi.
Thật may là chúng tôi trông thấy nó rõ ràng đến thế. Vì ngay dưới mắt chúng tôi, nó rút từ dưới mền ra một khúc gỗ ngắn tròn, trông giống cây thước kẻ học trò và đưa lên miệng. Hai khẩu súng ngắn của chúng tôi cùng nổ một lúc. Nó quay người, dang hai tay lên trời rồi ngã xuống về một bên, rơi xuống dòng nước, kèm theo tiếng nấc nghẹn. Tôi thoáng thấy cặp mắt đầy đe dọa giữa lớp sóng bạc. Nhưng cùng lúc đó, tên chân gỗ nhoài người về bánh lái và bẻ hết cỡ. Chiếc đò máy xoay mình chạy thẳng về phía bờ nam, vừa lúc chúng tôi qua mặt nó, chỉ nhích qua vài feet là va vào nó. Một lúc sau, chúng tôi đổi hướng chạy, nhưng chúng đã gần đến bên kia bờ. Đó là một vùng đất hoang vu, tiêu điều. Mảnh trăng chiếu ngời trên vùng đất rộng, đầm lầy, đầy ao hồ nước đọng và loài cây cỏ úng thối. Sau một tiếng va mạnh, chiếc đò máy mắc cạn lên bờ sình lầy, mũi tàu dốc ngược lên, đuôi chìm xuống nước. Tên tôi phạm chạy trốn nhảy ra khỏi tàu, nhưng cái chân gỗ lún sâu trong đất nhão. Hắn vùng vây, vặn mình đủ cách: vô ích! Hắn chẳng nhích lên hoặc lùi xuống được lấy một bước. Gào thét trong cơn giận dữ bất lực, hắn dùng cái chân kia điên cuồng đập vào bùn. Nhưng những cố gắng chỉ làm cho chiếc chân gỗ lún sâu thêm. Khi đó máy chúng tôi đỗ ngay sát hắn ta, hắn bị neo chặt trong bùn đến nỗi chúng tôi phải buộc một vòng dây quanh ngực mới kéo được hắn lên về phía chúng tôi y như một con cá. Hai cha con Smith ngồi trên đò, nét mặt cau có, nhưng vẫn ngoan ngoãn bước lên tàu chúng tôi khi Jones ra lệnh. Rồi lại phải kéo chiếc “The Aurora” theo chúng tôi.
Trên boong tàu là một chiếc hộp sắt chế tạo tại Ấn Độ. Đó dĩ nhiên là cái hộp đựng cái kho báu đã gây tang tóc cho Sholto. Nó rất nặng và chúng tôi phải chở nó rất cẩn thận trong khoang tàu chúng tôi. Ổ khóa không có chìa. Chạy chầm chậm ngược dòng sông, chúng tôi quét đèn chiếu chung quanh nhưng chẳng thấy dấu vết con quái vật bé tí. Đâu đó dưới đáy sông Thames, trong sình lầy, yên nghỉ nắm xương của gã du khách lạ lùng đó.
– Hãy nhìn vào đây mà xem này! Holmes vừa nói vừa chỉ vào cửa buồng hầm tàu – Thật vừa đúng lúc ta nhanh tay với hai khẩu súng ngắn.
Thật vậy, ngay phía sau chỗ chúng tôi đứng lúc nãy có ghim một mũi tên giết người mà ta đã biết quá rõ. Chắc nó đã bay đến giữa chúng tôi vừa lúc chúng tôi nổ súng. Holmes, theo cung cách điềm tĩnh của anh, chỉ mỉm cười nhún vai. Riêng phần tôi thú thật là tôi vẫn còn xúc động nghĩ đến cái chết khủng khiếp mà chúng tôi đã thoát khỏi trong chân tơ kẽ tóc đêm ấy.
—
[1] Nguyên văn: Ceylon
[2] Tower of London: Tháp London, xây dựng vào thế kỷ XI, dùng làm cung điện và nơi giam tù chính trị.
[3] Nguyên văn: pace, khoảng cách ước chừng một bước chân
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.