ĐIỆP VỤ THÀNH BÁT ĐA

Chương XVII



Qua đến sáng hôm sau, việc đi ra ngoài với nàng chỉ cần báo cáo ngắn gọn. Nàng hỏi thăm dò nhà Beit Melek Ali nằm ở đâu và được cho hay đó là một ngôi nhà đồ sộ nằm trên bờ Tây. Vừa đi hết một đoạn đường phố chật hẹp là ra đến ngay bên bờ sông. Nàng rẽ qua bên phải thủng thỉnh dạo bước trên bờ đất cao. Có chỗ thì lối đi gập ghềnh – một phía bên bờ bị lỡ đất, bỏ mặc không tu bổ sửa chữa. Phía trước là một ngôi nhà có cầu thang nằm sát bờ sông. Victoria đứng nhìn xuống dòng nước rồi lần theo từng bước đi vòng quanh. Mỗi lúc lối đi càng mở rộng ra, mặt đường lát đá. Dãy nhà nằm bên phải trong có vẻ an nhàn bí ẩn. Nhìn vào giống như nhà bỏ hoang. Chợt cánh cửa lớn mở toang ra, nhìn vao trong Victoria mới thấy một khung cảnh lạ mắt. Nhìn thoáng một lúc nàng nhận ra khoảng sân rộng đặt một vòi phun nước, nhiều ghế nệm và ghế bố xếp bày xung quanh một hàng cây cọ mọc quanh khu vườn, chẳng khác nào một bức màn phông trên sân khấu. Ngôi nhà kế bên, nhìn từ trong ra ngoài rất khác lạ, mọi thứ bày biện lộn xộn nhìn ra những lối đi tối tăm, lũ trẻ năm sáu đứa quần áo lem luốc đang đùa nghịch. Rồi nàng bước tới khu vườn bước trên lối đi gồ ghề hướng xuống bờ sông nơi đó lão chèo đò người Ả Rập đang ngồi đợi trong khoang thuyền thời cổ. Lão xoay người kêu gọi nàng có phải cần đưa qua bên kia sông không. Đến đây Victoria mới đoán ra là lối kiến trúc bên dãy nhà này. Nàng đang đi tới đoạn đường băng qua khu vườn cây cọ rồi mới đến trước hai ngôi nhà cao nghều phía trước có ban công. Xa hơn là ngôi nhà đồ sộ xây sát mé sông có vườn cây và hàng lan can. Lần theo lối đi trên bờ sông dẫn tới bên trong sân nhà, hình như đây là nhà Beit Melek Ali hay còn gọi ngôi nhà của vua Ali.

Một lúc sau Victoria bước ngang cánh cổng đi tới khu vực nhớp nhúa, một rừng cây cọ bao bọc bởi hàng rào kẽm gai rì sét che khuất tầm mắt nhìn ra bờ sông. Nhìn qua phía bên phải là một dãy nhà vách đất đổ nát, xen lẫn những mái lều lụp xụp. Bọn trẻ đang đùa giỡn, bên cạnh đó là bãi rác ruồi nhặng bay đầy trời. Từ đây nhìn tới thấy một con đường hẹp, một chiếc xe ô-tô đang đậu bên đường – loại xe cổ lỗ sĩ. Edward đang đứng bên cạnh chiếc xe.

“Tuyệt”, – Edward cất tiếng “em đến nơi rồi, ta đi thôi”.

“Ta đi đâu” – Victoria hỏi ngay, nàng thích thú bước vào ngồi bên trong chiếc xe tồi tàn. Tay lái xe coi bộ cũng thích đùa bông lơn, hắn xoay qua nhe răng cười với nàng.

“Ta đi về Babylon” – Edward nói “Hôm nay ta mới rảnh một bữa”.

Chiếc xe nổ máy chạy giật một cái xóc nẩy trên mặt đường rải đá gồ ghề.

“Đi về Babylon à?” – Victoria hét vang “Thật là sung sướng. Chúng ta đến Babylon thật sao?”

Chiếc xe ô-tô rẽ qua hướng trái bon bon trên đường cái thênh thang.

“Thật chứ, nhưng đừng có vội mừng nhé – Babylon – nếu em hiểu ý ta – nói vậy mà không phải vậy đâu”

Victoria lầm bầm trong miệng:

Đường đến Babylon còn xa mấy dặm?

Đường dài bảy mươi dặm xa lắm thay.

Ta thắp nến soi đường đến nơi có kịp?

Đến kịp rồi xin nhớ quay về ngay.

Thuở nhỏ em thường ngâm nga mấy câu thơ.

Vậy mà giờ đây em lại về đó!”

“Rồi ta phải về kịp theo ánh nến. Ta phải về thôi. Nói thật. em chưa biết gì về xứ sở này”.

“Xe của anh hình như muốn rã rồi”.

“Nó sắp sụm rồi. Thế mà người dân Irag chỉ cần buộc dây ràng thật chắc rồi khấn Inshallah, nhờ Trời phù hộ là xong ngay, xe chạy êm ru”.

“Vậy là lúc nào cũng khấn Inshallah, đúng không?”

“Đúng rồi, không có gì phải lo ngại cả, ta cứ giao phó mệnh số cho Trời phán”.

“Con đường thật xấu tệ, có phải không?” – Victoria há hốc mồm ngồi lắc lư trên xe. Con đường bằng phẳng, lòng đường thì rộng thênh thang nhưng lắm chỗ đất lún.

“Ta sắp chạy tới đoạn đường xấu hơn”. – Edward la hét om sòm.

Xe chạy cứ nhún nhảy lắc lư vậy mà vui. Bụi đường tung bay mù mịt. Đoàn xe tải chở đầy dân Ả Rập chạy nghênh ngang giữa đường, giả vờ như không chú ý nghe tiếng còi in ỏi đằng sau.

Xe đang băng ngang qua một khu vườn, một đoàn người phụ nữ, trẻ con và lừa nối đuôi đang đi trên đường. Victoria cảm thấy mọi thứ lạ mắt và một phần hân hoan vui mừng khi đến được Babylon lại có Edward ở bên cạnh.

Mất hai tiếng đồng hồ mới đến Babylon, ngồi trên xe Victoria cảm thấy toàn thân mỏi nhừ. Nhìn đống đất bùn và gạch bị thiêu, trong trí tưởng tượng của nàng đó phải là một nơi với nhiều kiểu kiến trúc xây bằng cột đá dựng đứng, những mái vòm như hình ảnh nàng đã nhìn thấy tại nơi đô thị cổ Baalbek ở Libăng.

Nhưng rồi cái cảm giác đó mờ nhạt dần lúc theo người hướng dẫn vượt qua hàng đống gạch cháy vụn. Nàng chỉ nghe được một nửa tai những lời giải thích dồn dập của gã. Rồi trên đường vượt qua lối đi của những đám rước ngày xưa đến trước cổng thần Ishtar, nhìn thấy hình chạm khắc những con thú vật lạ thường trên các bức vách cao ngất bất chợt nàng nhớ lại cái vẻ hùng vĩ của thời xa xưa, rồi ước ao được tìm hiểu vài nét về đô thị cổ hùng vĩ và kiêu hãnh một thời nay đã trở thành phế tích hoang tàn. Đến đây nhiệm vụ tìm ra thành cổ đã hoàn thành, đôi bạn ngồi xuống lại bên cạnh tượng sư tử thành Babylon ăn một bữa cơm trưa ngoài trời mà Edward đem theo. Người hướng dẫn tỏ vẻ biết điều xin cáo lui và hẹn gặp lại trong chuyến tham quan Viện bảo tàng.

“Ta nên đi chứ” – Victoria mơ màng nói. “Những món đồ cổ dán nhãn hiệu đóng khung không biết đâu là đồ thật. Em đã tham quan Bảo tàng Anh quốc một lần. Nơi đó rộng mênh mông đi mỏi cả chân”.

“Những gì thuộc về quá khứ đều nhàm chán”, – Edward nói “chỉ còn lại tương lai mới đáng nói”.

“Còn cái này thì không chán” – Victoria vừa nói tay ve vẫy miếng bánh sandwich về phía đống gạch đổ nát. “Nhìn kìa thật là một khung cảnh hùng vĩ. Lai có bài thơ nữa kìa”.

“Đến khi ngươi làm Vua thành Babylon.

Còn ta là một tín đồ Cơ Đốc làm nô lệ”.

“Có lẽ là hai đứa mình. Ý em muốn nói anh với em”. – Victoria nói, thoáng một chút e thẹn.

“Anh nghĩ là vào cái thời còn túi đồ đạo Cơ Đốc thì chẳng có ai làm Vua thành Babylon cả”, – Edward nói. – “Anh nhớ Babylon không còn tồn tại từ năm sáu trăm năm trước công nguyên. Một số nhà khảo cổ hoặc ai đó bày ra các bài giảng về mấy chuyện thời cổ – mà ta thì không nhớ rõ ngày tháng – nghĩa là trước cả thời đại Hy Lạp”.

“Này Edward anh có thích làm vua thành Babylon”.

Edward hít một hơi thật sâu.

“Có chứ, ta thích chứ”.

“Vậy mọi người gọi anh là Vua. Anh vừa được hóa thân rồi đấy”.

“Ở thời kỳ đó ai cũng biết muốn làm vua là phải thế nào rồi”. – Edward nói – “Bởi vậy vua thống trị cả muôn dân, quy về một mối”.

“Em không biết mình sẽ ra sao nếu được làm nô lệ”. – Victoria trầm ngâm nói “làm một tín đồ Cơ Đốc hay là một cái gì khác”.

“Nghĩ lại nhà thơ Milton nói có lý” – Edward nói “thà làm vua cõi Âm ty còn hơn phục vụ trên Thiên đàng, anh vẫn hâm mộ hình tượng quỷ xa tăng trong thơ Milton”.

“Em không rành về thơ Milton”. – Victoria ra vẻ biết điều nói. “Em có đi xem vở Comus của đoàn múa ba lê Sadler’s Wells rất hay, xem diễn viên múa ba lê Margot Fonteyn trổ tài biểu diễn trên sân khấu như thể là thiên thai bị đóng băng”.

“Nếu em làm nô lệ, Victoria” – Edward nói “ta sẽ giải thoát cho em đưa em về hậu cung – kia kìa”, – gã vừa nói vừa giơ tay chỉ về phía đóng gạch vụn.

Đôi mắt Victoria rạng rỡ.

“Ta nói về hậu cung đi” – Nàng mở lời.

“Chuyện em với cô nàng Catherine thế nào” – Anh chàng Edward vội hỏi ngay.

“Làm sao anh biết em đang nghĩ đến chuyện Catherine?”

“Ồ, em đang nghĩ ngợi dấy, phải không? Thật tình, Viccy này, anh muốn em thân thiện với Catherine”.

“Anh đừng gọi em là Viccy”.

“Thôi được, Charing Cross. Dù sao anh cũng muốn em thân thiện với Catherine”.

“Bọn đàn ông này vớ vẩn thật! Chỉ muốn bọn con gái làm quen với nhau thôi”.

Edward đứng phắt dậy, tay vòng qua sau gáy.

“Em đừng có nghĩ bậy, Charing Cross. Dù sao em vừa nhắc đến chuyện hậu cung mới là vớ vẩn”.

“Không, chuyện em nhắc không phải vậy. Em muốn nhắc mấy nàng nhìn anh say đắm làm cho em muốn nổi khùng”.

“Tuyệt”, – Edward nói “Anh thích nhìn em đang nổi khùng. Ta trở lại chuyện Catherine đi. Lý do em cần phải thân thiện với Catherine chính là nhờ cô nàng ta mới tiếp cận được mọi vấn đề cần tìm hiểu. Bởi vì cô nàng phải biết một số việc”.

“Anh cho là vậy sao?”

“Hẳn em còn nhớ ta nghe nàng nhắc tên Anna Scheele sao?”

“Em quên mất”.

“Em thấy gì khi đọc tác phẩm của Các Mác, có tiếp thu được gì không?”

“Chẳng thấy ai đến gặp để mời em tham gia vào hội. Mà thật, hôm qua Catherine vừa cho hay em chưa được gia nhập Đảng, bởi em chưa hội đủ trình độ giáo dục chính trị. Còn phải đọc hết mớ tác phẩm đó – nói thật, Edward em không tài nào ngôn cho hết”.

“Vậy là em chưa giác ngộ về mặt chính trị, phải không em?” – Edward phá ra cười. “Tội nghiệp Charing Cross quá! Catherine thì điên cuồng vì trí tuệ, vì lòng nhiệt tình và sự giác ngộ chính trị, còn ta thích một con bé thư ký đánh máy mà không đánh nổi những mặt chữ có đủ ba vần”.

Chợt Victoria nhíu mày. Nghe Edward vừa nói xong nàng nhớ lại buổi gặp mặt kỳ lạ với ngài Tiến sĩ Rathbone. Nàng kể cho Edward nghe hết, nhìn vẻ mặt gã coi bộ hoảng hốt hơn là nàng tưởng.

“Có vấn đề đấy Victoria à, em cần phải kể hết cho anh nghe”.

Victoria cố nhớ ra hết từng câu chữ của ngài Rathbone.

“Em không hiểu sao,” – Nàng nói “anh lại có vẻ hoảng hốt đến vậy”.

“Hả?” – Edward có vẻ lơ đễnh. “Em không biết sao, em không nhận ra được một điều đó là họ đã biết tỏng rồi sao. Họ cảnh báo cho em biết đấy. Anh không thích vậy, Victoria – hoàn toàn không thích vậy”.

Rồi gã mới nói giọng nghiêm chỉnh.

“Em biết những người Cộng sản rất nghiêm khắc. Tôn chỉ của họ đề ra là không bao giờ chịu lùi bước. Anh không muốn nhìn thấy em bị đánh vỡ đầu quăng xuống sông Tigris”.

Chán thật, Victoria nghĩ bụng mình phải ngồi giữa đống đổ nát của thành cổ Babylon để tranh cãi liệu rồi sẽ ra sao, nếu chẳng may mình bị đánh vỡ đầu quăng xuống sông Tigris thì sao. Mắt nàng khép hờ, nàng mơ màng. “Ước gì ta đang ở giữa London mơ một giấc mơ đầy kỳ diệu đầy kịch tính về thành cổ Babylon nhiều hiểm nguy. Có lẽ”, – nàng ngẫm nghĩ rồi ngắm nghiền mắt lại “ta đang ở London… đồng hồ báo thức sắp gõ mấy tiếng, thức dậy nàng tới văn phòng ngài Greenholtz – vậy là không còn gặp lại Edward nữa”.

Vừa nghĩ đến đó nàng choàng tỉnh lại xem thử Edward có còn đó không. Kỳ thật thì nàng không nằm mơ. Ánh nắng mặt trời chói chang không giống như bên London, soi sáng rõ đống đổ nát của thành Babylon một màu nhợt nhạt lập lòe trên nền hàng cây cọ tối om. Chàng Edward ngồi xoay lưng về phía nàng, mái tóc dài mọc bám quanh cổ, cái cổ đẹp – màu da sạm nắng, không nhìn ra một tì vết.

Chợt nàng nhớ đến những cái mụn nhọt mọc quanh cổ ngài Rupert, Victoria ngồi thẳng người lại quên đi chuyện mơ màng hão huyền. Nàng cảm thấy ngây ngất kỳ lạ.

Edward quay lại mới hỏi.

“Có chuyện gì vậy, Charing Cross?”

“Em chợt nhớ”, – Victoria đáp – “chuyện ngài Rupert Crofton Lee”.

Nét mặt chàng Edward chưa hết vẻ ngơ ngác, nàng Victoria bình thản kể rõ ngọn ngành mà nàng chưa nói ra hết.

“Một cái mụt nhọt” – Nàng vừa nói “trên cần cổ ông ta”.

“Cái mụt nhọt trên cần cổ à?” – Edward đang luống cuống.

“Lúc còn ngồi trên máy bay, ông ta ngồi ở hàng ghế trước, chiếc mũ trùm đầu hất ngược về phía sau và em nhìn thấy – cái mụt nhọt”.

“Như vậy nghĩa là sao, rất có nhiều người mọc mụn nhọt kia mà”.

“Đúng, đúng, ai cũng có. Nhưng mà điều đáng nói là buổi sáng trên ban công khách sạn em thấy trên cổ ông không còn”.

“Không còn cái gì?”

“Không còn cái mụt nhọt. Ồ Edward, anh ráng nhớ giùm. Ngồi trên máy bay em còn nhìn thấy cái mụt nhọt và đến lúc ngồi trên ban công khách sạn Tio thì không thấy nữa. Cần cổ ông ta láng bóng không tì vết – như cổ của anh đây”.

“Ồ, ta giả sử nó đã tróc ra rồi”.

“Ôi, bậy nào Edward, làm gì có chuyện đó. Nếu nó tróc ra thì qua bữa sau nó sẽ mọc lại, hơn nữa nó phải có tì vết chứ. Vậy anh phải hiểu là người ở khách sạn Tio rõ ràng không phải là ngài Rupert”.

“Em điên mất rồi, Victoria. Rõ ràng chính ngài Rupert mà. Em không nhìn thấy ở ngài có một điểm nào khác hơn sao”.

“Này Edward anh nên nhớ là em chưa được nhìn ngài cho thật kỹ – chỉ nhìn – ồ, có thể nói đó là những nét tổng quát. Từ chiếc mũ – đến tấm áo choàng – và cái tính huyênh hoang khoác lác. Mẫu người như ông rất dễ hóa thân”.

“Nhưng rồi bên Đại sứ quán người ta phải biết mặt chứ”.

“Ông không ở lại Sứ quán, ông đến ở khách sạn Tio, ông chỉ gặp mặt một người tùy viên Sứ quán và mấy người phục vụ, bởi vì lúc đó ngài Đại sứ đang ở bên nước Anh. Hơn nữa ngài Đại sứ thường xê dịch ít khi ông ở lại nước Anh”.

“Nhưng tại sao?”

“Hẳn nhiên là bởi vì Carmichael, hắn đến Bát Đa để tìm gặp ngài ở đó, tường trình lại những điều tai nghe mắt thấy. Bởi trước đây hai người chưa từng gặp mặt. Thế nên Carmichael cứ tưởng là chính ông nên hắn lơ là không cảnh giác. Rõ ràng, chính lão Rupert Crofton Lee giả danh đã đâm chết Carmichael. Ôi này Edward, mọi việc đều ăn khớp với nhau cả”.

“Ta không tin dù chỉ một lời thôi – chuyện thật điên rồ. Đừng quên ngài Rupert sau đó đã bị giết chết ở Cairo”.

“Đó là nơi mọi chuyện đã diễn ra. Ôi Edward, khiếp quá. Em đã thấy hết”.

“Em đã thấy hết – Victoria có thật là em điên không?”

“Ồ không đâu, em chẳng điên khùng đâu. Này Edward, nghe đây. Lúc đó em nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa – em đang ở khách sạn Heliopolis – phải có ai đang đứng ngoài cửa, lúc nhìn ra em lại không thấy – thì ra ở phòng bên, phòng ngài Rupert Crofton Lee. Một nữ tiếp viên hàng không đến cho hay ngài vui lòng đến văn phòng hãng B.O.A.C – đi dọc theo dãy hành lang này. Một lúc sau em đi ra, đi ngang qua cửa phòng có treo bảng B.O.A.C, vừa lúc đó cửa mở ngài bước ra. Em nghĩ bụng chắc ngài vừa nhận được tin nên nhìn bộ dạng bước đi có vẻ khác hơn mọi khi. Anh hiểu chứ, Edward? Ngay lúc đó một cái bẫy đã giăng ra, kẻ thế chân đang chực chờ vừa lúc ngài bước vào trong, bọn chúng nhào tới nện vào đầu, đến lúc quay trở ra thì người đóng vai thế chân đã hóa xác. Biết đâu bọn chúng còn cầm giữ ngài quanh thành phố Cairo, có thể ngài đang trú trong khách sạn như một phế nhân, bọn chúng cho uống thuốc ngủ say rồi giết chết, vừa đúng lúc kẻ đóng vai thế chân quay trở lại Cairo”.

“Một câu chuyện ly kỳ”. – Edward nói. “Mà nói thật với em, Victoria em chỉ có tài bịa ra đủ thứ chuyện, lấy gì làm bằng chứng chuyện đó có thật”.

“Thì cái mụt nhọt đó”.

“Ối giời, chỉ là cái mụt nhọt quái đản!”

“Rồi còn mấy chuyện khác nữa”.

“Chuyện nào?”

“Chuyện tấm bảng treo của hãng máy bay B.O.A.C, sau đó không thấy nữa. Em nhớ lại mình đang rối trí rồi mới tìm ra chỗ hãng B.O.A.C ở dãy bên kia lối ra vào tiền sảnh. Đó là một chuyện, đến chuyện này nữa. Người nữ tiếp viên hàng không bước đến gõ cửa phòng ngài. Em đã gặp mặt đâu một lần – ở thành Bát Đa này – rồi chuyện này nữa, ngay tại trụ sở Hội Cành Ô Liu. Nhớ lại hôm đầu mới đến, em nhìn thấy cô nàng bước vào nói với Catherine. Em nhớ lại đã gặp cô nàng đâu một lần”.

Một lát sau Victoria lại kể:

“Này Edward anh phải nhận ra là, không phải em bịa ra mọi chuyện đâu”.

Edward thủng thẳng nói:

“Này Victoria, em nên xích lại gần với Catherine hơn nữa. Dù sao em cần phải thân thiện với nàng hơn nữa để tìm hiểu ai là bạn bè quen biết của nàng và nàng thường lui tới những chỗ nào để bắt liên lạc với những người bên ngoài trụ sở Hội Cành Ô Liu”.

“Chuyện nghĩ không phải dễ”. – Victoria nói “Em sẽ cố thử xem. Còn ông Dakin thì sao? Em có nên kể cho ông biết không?”

“Có chứ, nhưng mà em nên chờ vài bữa. Anh còn phải tìm hiểu thêm”. – Edward thở ra một hơi. “Để anh mời Catherine đến quán Le Select nghe ca nhạc nhảy đầm một bữa”.

Lần này Victoria không tức tối ganh tỵ như mọi khi. Edward nói với một vẻ nghiêm chỉnh cương quyết khiến nàng không còn mảy may nghi ngờ có chuyện ăn chơi trong nhiệm vụ sắp tới.

II

Quá đỗi vui mừng trước những khám phá mới, Victoria rất tự nhiên lúc gặp lại Catherine sáng hôm sau với một tình bạn thắm thiết. Nàng cám ơn Catherine đã chỉ chỗ nàng đi gội đầu. Nàng phải gội cho nhẹ bớt cái đầu, vì khi từ Babylon trở về tóc nàng bám đầy cát bụi đỏ ngầu.

“Thấy mà ghê”, – Catherine nói, vừa nhìn với một vẻ thích thú tinh quái.

“Mình thuê được xe là đi ngay Babylon” – Victoria nói – “mình thích lắm, lúc trở về bảo cát thổi tới muốn nghẹn thở mắt nhìn không thấy đường”.

“Babylon có lắm chuyện lạ”, – Catherine nói “cậu phải rủ thêm người rành lịch sử họ kể cho mà nghe. Tối nay mình giới thiệu cho cậu cô thợ gội đầu người Mỹ. Cậu sẽ được gội bằng dầu gội kem rất tuyệt vời”.

“Mình lấy làm lạ tóc cậu sao óng mượt”. – Victoria nói, nàng nhìn theo Catherine, ánh mắt nàng thán phục cách uốn tóc dựng đứng như thỏi xúc xích bóng láng.

Một nụ cười vừa thoáng hiện trên nét mặt quanh năm cáu kỉnh của Catherine, Victoria chợt nhớ lời Edward dặn nên o bế vỗ về nàng quả thật không sai.

Buổi tối hôm đó lúc rời khỏi trụ sở Hội Cành Ô Liu hai người bạn mới thấy thân thiết hơn bao giờ hết. Sau một hồi đi lòng vòng quan lối mòn trong con hẻm chật hẹp, Catherine đến gõ cửa trước một cửa hiệu nhìn bề ngoài không ra vẻ hiệu uốn tóc. Một người phụ nữ trẻ bước ra chào khách, nói giọng Ăng-lê chậm rãi, chỉ chỗ Victoria bước tới bồn nước rửa mặt cọ rửa sạch sẽ, vòi nước sáng trứng bày đầy chai lọ và dầu thơm xức tóc. Catherine đi ra ngoài, rồi Victoria bước tới cúi xuống phơi mớ tóc cho cô thợ Ankoumian khéo tay đỡ lấy. Một lát sau tóc nàng nổi đầy bọt dầu gội.

“Bây giờ mời cô qua đây”.

Victoria cúi xuống bồn rửa mặt. Vòi nước xả tóc tuôn ào xuống đường ông sùng sục.

Chợt nàng ngửi thấy một mùi vị ngòn ngọt đến buồn nôn như mùi nhà thương. Một miếng gạc thấm nước cụp vào mũi, nàng cục cựa không chịu nổi, vặn mình uốn éo rồi một tiếng kẹp sắt kẹp cứng miếng gạc lại một chỗ. Nàng ngất đi, đầu cổ choáng váng, tai nàng còn nghe văng vẳng những tiếng rống…

Rồi một lát sau quanh nàng chỉ còn là bóng tối, là hố sâu thăm thẳm.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.