Đoạn đường để nhớ

Chương 13 (Hết)



Tôi không quan tâm trông mình trông như thế nào lúc đến, bởi tôi ngờ rằng Hegbert cũng chẳng quan tâm. Cuối cùng khi vào nhà thờ, tôi đi chậm lại, cố gắng thở đều đặn rồi bước tới phía sau nhà thờ, về văn phòng của Hegbert.

Hegbert ngước lên khi ông trông thấy tôi, và tôi biết tại sao ông ở đây. Ông không mời tôi vào ông chỉ quay lại nhìn về phía cửa sổ. Ở nhà, ông đã chống chọi với bệnh tật của nàng bằng cách lau chùi nhà cửa theo một cách gần như ám ảnh. Ở đây, báo chí nằm rải rác trên bàn, sách vở vương vãi trong phòng như thể không được ai sắp xếp lại hàng tuần rồi. Tôi biết đây là nơi ông nghĩ về Jamie, đây là nơi Hegbert đến để khóc.

“Thưa Cha?” tôi nói khẽ.

Ông không trả lời, nhưng dù gì thì tôi vẫn bước vào.

“Ta muốn ở một mình” ông rền rĩ.

Trông ông già nua, rệu rã và mệt mỏi như những người Israel được miêu tả trong các bài Thánh vịnh của David. Gương mặt ông rúm ró, và tóc ông ngày càng mỏng hơn kể từ tháng Mười hai. Thậm chí hơn cả tôi, có lẽ ông đã phải giữ vững tinh thần mình khi ở bên Jamie, và áp lực của việc này đang làm ông kiệt sức.

Tôi bước tới bên bàn làm việc của ông, ông liếc nhìn tôi rồi quay lại phía cửa sổ.

“Làm ơn”, ông nói với tôi. Giọng ông mệt mỏi, như thể ông không có sức mạnh để đối diện với bất cứ ai, ngay cả tôi.

“Con muốn nói chuyện với Cha”, tôi nói chắc nịch. “Việc này rất quan trọng, nếu không con đã không đến đây”.

Hegbert thở dài, rồi tôi ngồi trên cái ghế mình đã từng ngồi trước đây, lúc xin phép ông cho đưa Jamie đi chơi đêm giao thừa.

Ông lắng nghe tôi trình bày với ông dự định của mình.

Khi tôi dứt lời, Hegbert quay về phía tôi. Tôi không biết ông nghĩ gì lúc ấy, nhưng ơn Chúa, ông không phản đối. Thay vào đó, ông quệt mắt rồi quay về phía cửa sổ.

Ngay cả ông, tôi nghĩ, cũng quá ngỡ ngàng không nói lên lời.

Tôi lại chạy không biết mệt, quyết tâm trong tôi đã đem lại sức mạnh tôi cần để tiếp tục. Khi đến nhà Jamie, tôi ào vào trong mà không gõ cửa, cô y tá đang ở trong phòng ngủ của nàng đi ra để xem cái gì gây ra tiếng ồn. Tôi lên tiếng trước khi cô ta có thể nói.

“Cô ấy thức chứ?” tôi hỏi, vừa háo hức vừa lo sợ.

“Có”, cô y tá cảnh giác nói. “Lúc thức dậy, cô ấy hỏi cậu ở đâu.”

Tôi xin lỗi vì vẻ ngoài tơi tả của mình và cảm ơn cô y tá, rồi hỏi liệu cô có thể để chúng tôi lại một mình không. Tôi đi vào phòng Jamie, nhẹ nhàng đóng cửa sau lưng. Nàng rất nhợt nhạt, xanh xao, nhưng nụ cười của nàng cho tôi biết nàng vẫn đang cố gắng.

“Chào Landon”, nàng nói, giọng yếu ớt, “cảm ơn cậu đã quay lại.”

Tôi kéo một cái ghế ngồi cạnh, đặt tay nàng trong tay tôi. Nhìn nàng nằm đó, tôi cảm thấy lòng quặn lên, tôi cảm thấy gần như muốn khóc.

“Lúc trước mình có ở đây, nhưng cậu ngủ”, tôi nói.

“Mình biết…Mình xin lỗi. Mình không thể chống lại cơn buồn ngủ.”

“Không sao mà, thật đấy.”

Nàng nâng nhẹ tay lên khỏi giường, tôi hôn bàn tay ấy, rồi cúi xuống và hôn vào má nàng.

“Cậu có yêu mình không?” tôi hỏi nàng.

Nàng mỉm cười “Có.”

“Cậu có muốn mình hạnh phúc không?” Khi tôi hỏi nàng câu này, tôi cảm thấy tim mình bắt đầu đập rộn rã.

“Tất nhiên là mình muốn”

“Thế thì cậu sẽ làm một điều cho mình chứ?”

Nàng quay đi, nét mặt buồn bã. “Mình không biết mình có thể làm gì được nữa”, nàng nói.

“Nhưng nếu có thể, cậu sẽ làm chứ?”

Không thể miêu tả đầy đủ sự căng thẳng tôi cảm thấy vào giây phút đó. Yêu thương, giận dữ, buồn bã, hi vọng và sự sợ hãi hòa trộn với nhau càng trở nên rõ rệt thêm bởi nỗi hồi hộp trong tôi. Jamie nhìn tôi dò hỏi, và hơi thở của tôi trở lên gấp gáp hơn. Đột nhiên tôi biết mình sẽ chẳng bao giờ yêu một ai khác mãnh liệt như lúc này. Nhận ra điều đơn giản ấy khi đáp lại cái nhìn chăm chú của nàng khiến tôi cầu mong lần thứ một triệu rằng tôi có thể khiến toàn bộ chuyện này biến mất. Nếu có thể, tôi sẵn sàng đánh đổi cuộc sống của mình cho nàng. Tôi muốn nói với nàng những điều mình đang nghĩ, nhưng giọng nàng vang lên đột ngột làm thinh lặng những cảm xúc trong tôi.

“Ừ”, cuối cùng nàng nói, giọng nàng dù yếu ớt nhưng vẫn tràn đầy hứa hẹn. “Mình sẽ làm.”

Cuối cùng, khi đã lấy lại được bình tĩnh, tôi hôn nàng lần nữa, rồi đưa tay lên mặt nàng, nhẹ nhàng vuốt má nàng. Tôi sửng sốt trước sự mềm mại của làn da nàng, sự dịu dàng tôi thấy trong mắt nàng. Ngay cả lúc ốm nặng nàng vẫn hoàn hảo.

Cổ họng tôi bắt đầu nghẹn lại, nhưng khi tôi nói, tôi biết mình phải làm gì đó. Bởi tôi phải chấp nhận mình không có khả năng cứu nàng, tôi muốn mang lại cho nàng điều nàng luôn mơ ước.

Đó chính là điều trái tim mách bảo.

Lúc này tôi mới hiểu ra Jamie đã từng cho tôi câu trả lời tôi vẫn hằng tìm kiếm, câu trả lời trái tim tôi cần phải tìm ra. Nàng đã nói cho tôi biết câu trả lời khi chúng tôi ngồi bên ngoài văn phòng của ông Jenkins, vào cái đêm hai đứa xin phép ông về việc biểu diễn vở kịch.

Tôi mỉm cười dịu dàng, và nàng đáp lại tình cảm của tôi bằng cách bóp nhẹ tay tôi, như thể tin tưởng những gì tôi sắp làm. Được khuyến khích, tôi cúi xuống gần hơn và hít một hơi thật sâu. Khi tôi thở ra, đây là những từ thốt ra cùng với hơi thở.

“Em sẽ lấy anh chứ?”

Năm mười bảy tuổi, cuộc đời tôi vĩnh viễn thay đổi.

Bốn mươi năm sau, dạo bước trên những con phố ở Beaufort, nghĩ về năm đó trong cuộc đời mình, tôi nhớ mọi thứ rõ ràng như thể tất cả đang được mở ra trước mắt.

Tôi nhớ Jamie nói đồng ý trước câu hỏi hụt hơi của tôi và cả hai chúng tôi bắt đầu cùng khóc như thế nào. Tôi nhớ mình đã nói chuyện với cả Hegbert và bố mẹ tôi, giải thích với họ những gì tôi cần làm. Họ nghĩ tôi làm điều đó chỉ vì Jamie, và cả ba đều cố gắng thuyết phục tôi từ bỏ ý định ấy, đặc biệt khi họ biết Jamie đã đồng ý. Họ không hiểu và tôi phải cho mọi người thấy rằng tôi cần làm điều đó vì chính mình.

Tôi yêu nàng, yêu sâu sắc đến mức tôi không quan tâm chuyện nàng ốm đau. Tôi không cần biết hai đứa sẽ không ở bên nhau được lâu. Không điều gì trong số đó quan trọng với tôi. Tất cả những gì tôi quan tâm là làm điều đúng đắn mà trái tim tôi mách bảo. Tôi nghĩ đó là lần đầu tiên Chúa trực tiếp nói với tôi, và tôi biết chắc mình không thể không vâng lời.

Tôi biết vài người sẽ băn khoăn có phải tôi làm vậy vì lòng trắc ẩn. Vài người cay độc hơn thậm chí tự hỏi có phải tôi làm thế bởi dù gì nàng cũng sớm ra đi và tôi chẳng phải cam kết gì nhiều. Câu trả lời cho cả hai câu hỏi là không. Cho dù có chuyện gì xảy ra, tôi cũng cưới Jamie Sullivan. Nếu điều kỳ diệu tôi cầu nguyện bỗng trở thành sự thật, tôi vẫn cưới Jamie Sullivan. Tôi chắc chắn như vậy lúc cầu hôn nàng, và đến giờ tôi vẫn chắc chắn.

Jamie là người phụ nữ tôi yêu thương vô hạn. Năm đó, Jamie đã giúp tôi trở thành người đàn ông là tôi hiện tại. Với tính kiên định, nàng cho tôi thấy giúp đỡ người khác quan trọng như thế nào; với sự kiên nhẫn và lòng tốt, nàng cho tôi thấy cuộc sống này thực sự là gì. Sự vui vẻ và lạc quan của nàng, ngay cả trong thời gian đau ốm, là điều kỳ diệu nhất tôi từng chứng kiến.

Hegbert làm lễ cưới cho chúng tôi trong nhà thờ Baptist, bố tôi là phù rể, đứng cạnh tôi. Thêm một điều nàng làm được. Để bố làm phù rể là một truyền thống ở miền Nam, nhưng trước khi Jamie xuất hiện trong đời tôi, truyền thống đó không có nhiều ý nghĩa đến vậy. Jamie đưa bố và tôi lại gần nhau; bằng cách nào đó nàng cũng thành công trong việc hàn gắn vết thương giữa hai gia đình. Cuối cùng, sau những gì bố làm cho tôi và Jamie, tôi biết bố là người tôi luôn có thể trông cậy, và nhiều năm sau đó, hai bố con càng lúc càng gắn bó hơn cho đến khi ông mất.

Jamie cũng dạy tôi giá trị của sự tha thứ và sức mạnh chuyển hóa mà nó mang lại. Tôi nhận ra điều này vào ngày Eric và Margaret tới nhà hàng. Jamie không hề hằn học. Nàng sống giống như Kinh thánh đã dạy.

Jamie không chỉ là thiên thần cứu rỗi Tom Thornton mà nàng còn là thiên thần cứu rỗi tất cả chúng tôi.

Đúng như nàng mong muốn, nhà thờ chật cứng người. Khi chúng tôi làm lễ cưới vào ngày 12 tháng Ba năm 1959, trong nhà thờ có hơn hai trăm người tới dự, và ở bên ngoài còn đông hơn. Vì lễ cưới chỉ được báo trước trong một thời gian ngắn như vậy, nên không có thời giờ để chuẩn bị nhiều, và mọi người xuất hiện để khiến ngày hôm đó trở nên đặc biệt nhất có thể, chỉ bằng cách đơn giản là có mặt để ủng hộ chúng tôi. Tôi nhìn thấy tất cả những người tôi biết – cô Garber, Eric, Margaret, Eddie, Sally, Carey, Angela, thậm chí cả Lew và bà cậu ta – và không có lấy một đôi mắt nào không ướt lệ trong nhà thờ khi nhạc lễ cất lên. Mặc dù Jamie rất yếu và đã hai tuần rồi không hề ra khỏi giường, nàng vẫn khăng khăng đòi bố nàng dắt đi giữa hai hàng ghế. “Landon, điều đó rất quan trọng với em,” nàng nói. “Đó là một phần giấc mơ của em, nhớ không?” Mặc dù cho điều đó là không thể, tôi chỉ gật đầu. Tôi không thể không sửng sốt trước đức tin của nàng.

Tôi biết nàng định mặc chiếc váy mà nàng đã mặc ở Nhà hát đêm công diễn vở kịch. Đó là chiếc váy trắng duy nhất có sẵn trong thời gian ngắn ngủi đến thế, mặc dù tôi biết nàng mặc sẽ bị rộng hơn so với trước đây. Trong khi tôi đang băn khoăn không biết Jamie trông như thế nào trong chiếc váy đó thì bố đặt tay lên vai tôi khi chúng tôi đứng trước giáo đoàn.

“Bố tự hào về con, con trai.”

Tôi gật đầu. “Con cũng tự hào về bố.”

Đó là lần đầu tiên tôi nói những lời ấy với ông.

Mẹ tôi ở hàng đầu tiên, chấm khăn tay lên mắt khi bản Wedding March cất lên. Cửa mở ra và tôi nhìn thấy Jamie, ngồi trên xe lăn, cô y tá bên cạnh. Với toàn bộ sức lực còn lại, Jamie run rẩy đứng dậy khi Hegbert đỡ nàng. Rồi Jamie và Hegbert chầm chậm bước giữa hai hàng ghế, trong lúc tất cả mọi người trong nhà thời ngồi yên lặng kinh ngạc. Được nửa đường, Jamie đột nhiên có vẻ mệt mỏi, và họ ngừng lại trong lúc nàng lấy hơi. Mắt nàng nhắm lại, và trong một khoảnh khắc tôi không nghĩ nàng có thể tiếp tục. Tôi biết chỉ mới chưa đến mười hay mười hai giây trôi qua thôi, nhưng tôi có cảm giác như lâu hơn nhiều, cuối cùng nàng khẽ gật đầu. Rồi Jamie và Hegbert tiếp tục bước đi, và tôi thấy trái tim mình trào dâng niềm tự hào.

Tôi nhớ mình đã nghĩ đó là đoạn đường khó khăn nhất đối với bất cứ ai.

Đó là đoạn đường đáng nhớ, về mọi mặt.

Cô y tá đẩy chiếc xe lăn lên trước Jamie và Hegbert trong lúc hai người đi về phía tôi. Cuối cùng, khi nàng đến bên tôi, có những tiếng thở hổn hển vui mừng và tất cả mọi người bắt đầu đồng loạt vỗ tay. Cô y tá đẩy xe lăn tới, và Jamie lại ngồi xuống, kiệt sức. Mỉm cười, tôi quỳ xuống ngang tầm nàng. Bố tôi cũng làm như vậy.

Hegbert, sau khi hôn lên má Jamie, liền cầm lấy cuốn Kinh thánh để bắt đầu buổi lễ. Lúc này thì hoàn toàn là công việc, ông dường như vừa từ bỏ vai trò là cha Jamie để đóng vai một người không mấy quen thân, nơi ông có thể giữ những cảm xúc của mình trong vòng kiểm soát. Vậy nhưng tôi có thể thấy ông đang cố gắng giữ bình tĩnh khi đứng trước chúng tôi. Ông đeo kính lên, mở cuốn Kinh thánh rồi nhìn Jamie và tôi. Hegbert cao vượt lên hẳn so với chúng tôi, và tôi có thể nói rằng ông không liệu trước chúng tôi lại ở thấp đến thế. Trong một thoáng, ông đứng trước chúng tôi, hơi bối rối, rồi bất ngờ cũng quyết định quỳ xuống, Jamie mỉm cười và với lấy bàn tay không cầm Kinh thánh của ông, rồi với lấy tay tôi, liên kết chúng tôi lại với nhau.

Hegbert cử hành buổi lễ theo cách truyền thống, rồi đọc đoạn trích trong cuốn Kinh thánh mà Jamie đã có lần chỉ cho tôi. Biết nàng yếu đến thế nào, tôi nghĩ ông sẽ để chúng tôi đọc lời thề nguyện ngay lập tức, nhưng một lần nữa Hegbert lại làm tôi ngạc nhiên. Ông nhìn Jamie và tôi, rồi giáo đoàn, rồi quay lại nhìn chúng tôi, như thể tìm kiếm lời lẽ thích hợp.

Ông hắng giọng và nói cao giọng để tất cả mọi người có thể nghe thấy. Đây là những gì ông nói:

“Với tư cách là một người cha, tôi có trách nhiệm trao gửi con gái mình, nhưng tôi không chắc có thể làm điều này.”

Giáo đoàn trở nên im lặng, và Hegbert gật đầu với tôi, muốn tôi kiên nhẫn. Jamie bóp tay tôi động viên.

“Tôi không thể trao Jamie đi cũng như chẳng thể cho đi trái tim mình. Nhưng điều tôi có thể làm là để một người khác cùng chia sẻ niềm vui mà con bé đã luôn mang đến cho tôi. Cầu Chúa ban phước lành cho hai con.”

Đó chính là lúc ông đặt cuốn Kinh thánh sang một bên. Ông với tới trước, đưa tay ông cho tôi, và tôi nắm lấy bàn tay ấy, hoàn thiện một vòng tròn.

Rồi ông để chúng tôi đọc lời thề nguyền. Bố đưa cho tôi chiếc nhẫn mẹ tôi đã chọn giúp, và Jamie cũng trao nhẫn cho tôi. Chúng tôi đeo nhẫn cho nhau. Hegbert ngắm nhìn nghi thức ấy, và cuối cùng khi hoàn tất, ông tuyên bố chúng tôi là vợ chồng. Tôi hôn Jamie nhẹ nhàng, rồi nắm tay nàng trong tay tôi, mẹ tôi bắt đầu khóc. Trước mặt Chúa và tất cả những người khác, tôi đã hứa sẽ yêu và tận tâm với nàng, khi ốm đau lẫn khi khỏe mạnh, và tôi chưa bao giờ cảm thấy tuyệt với đến thế.

Tôi nhớ đó là khoảnh khắc đẹp nhất đời mình.

Giờ đây, bốn mươi năm sau, tôi vẫn nhớ được tất cả mọi chi tiết trong ngày đó. Tôi có thể già đi và khôn ngoan hơn, tôi có thể đã sống cuộc sống khác sau ngày đó, nhưng tôi biết rằng cuối cùng, khi tôi rời xa thế giới này, những kỷ niệm về ngày ấy sẽ là những hình ảnh cuối cùng trôi qua tâm trí tôi. Tôi vẫn yêu nàng, bạn thấy đấy, và tôi sẽ chẳng bao giờ tháo bỏ chiếc nhẫn của mình. Trong chừng ấy năm, tôi chưa bao giờ muốn làm thế.

Tôi thở thật sâu, hít hà không khí trong lành của mùa xuân. Dù Beaufort thay đổi và tôi cũng thay đổi nhưng bầu không khí ở đây vẫn vậy. Vẫn là không khí của tuổi thơ tôi, không khí của năm tôi mười bảy tuổi, và cuối củng khi thở ra, tôi đã năm mươi bảy tuổi rồi. Nhưng thế cũng chẳng sao. Tôi khẽ mỉm cười, nhìn lên trời, biết rằng có một điều tôi vẫn chưa nói với bạn: xin thưa, giờ thì tôi tin rằng những điều kỳ diệu có thể xảy ra.

HẾT


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.