Dữ Liệu Tử Thần

CHƯƠNG 3: THẾ MÀ CŨNG ĐÃ LÂU RỒI



Judy Rhyme đang ngồi trong phòng thí nghiệm của anh. Hai bàn tay đan vào nhau, khuôn mặt tái xám, chị tránh nhìn vào đôi mắt của nhà tội phạm học.
Có hai cách phản ứng với cơ thể liệt của Rhyme khiến anh nổi giận. Đó là khi những người đến thăm cố gắng giả vờ như anh không hề tàn tật. Hoặc khi họ coi đó là lý do để cư xử như người bạn thân thiết nhất của anh, tếu táo pha trò và luẩn quẩn xung quanh, huyên thuyên những chuyện đao to búa lớn như thể đã cùng anh vào sinh ra tử suốt một cuộc chiến tranh.
Judy rơi vào loại thứ nhất, rụt rè cân nhắc từng từ trước khi nói với Rhyme. Thế nhưng, dù sao chị vẫn là người nhà và anh vẫn giữ được kiên nhẫn trong khi cố kìm mình không đưa mắt về phía điện thoại.
“Một quãng thời gian thật dài”, nhà tội phạm học đồng ý.
Thom đang giúp bổ khuyết những cách thức xã giao mà Rhyme luôn quên bẵng. Thom mang cà phê mời Judy, nhưng chiếc tách vẫn nằm nguyên trên bàn, trước mặt chị, chưa hề được đụng đến. Rhyme liếc nhìn lần nữa chai whisky, cái nhìn lén lút đầy thèm thuồng và Thom thản nhiên lờ đi.
Vị khách nữ có mái tóc sẫm màu trông rất cuốn hút, gọn gàng và khỏe khoắn hơn so với lần cuối Rhyme gặp chị, khoảng hai năm trước khi anh bị tai nạn. Judy đánh bạo thầm quan sát khuôn mặt của nhà tội phạm học. “Chị rất xin lỗi vì vợ chồng chị chưa bao giờ đến đây thăm cậu. Thật đấy. Chị đã muốn đến.”
Ý Judy không phải là một cuộc ghé thăm xã giao trước khi anh bị thương, mà muốn nói tới một lời chia sẻ đồng cảm sau tai nạn. Những ai đã sống sót qua tai họa có thể hiểu được những gì không được nói ra cũng rõ ràng không kém gì mỗi từ trong từng câu nói đó.
“Cậu nhận được hoa chứ?”
Nhớ lại thời gian sau vụ tai nạn, Rhyme đã thực sự choáng váng: những can thiệp về y tế, những chấn thương thể xác, cũng như cuộc vật lộn tinh thần kinh hoàng với một điều phi lý là anh sẽ không bao giờ đi lại được nữa. Anh không còn nhớ về bất cứ bông hoa nào họ gửi tới nhưng anh biết gia đình đã gửi hoa cho mình. Nhiều người đã làm như thế, gửi mấy bông hoa thật dễ dàng, cất công đến thăm khó khăn hơn nhiều.
“Có, cảm ơn chị.”
Im lặng. Chị nhìn nhanh, gần như vô thức về phía đôi chân của nhà tội phạm học. Người ta hay nghĩ: nếu bạn không đi được, chắc chắn đôi chân của bạn có gì đó không bình thường. Nhưng chúng hoàn toàn ổn. Rắc rối nằm ở việc sai bảo chúng.
“Trông cậu khỏe lắm”, chị nói.
Rhyme không biết anh có cảm thấy mình khỏe hay không. Chưa bao giờ anh bận tâm nghĩ đến điều đó.
“Chị nghe nói cậu đã ly hôn.”
“Vâng.”
“Chị rất tiếc.”
Tại sao? Anh tự hỏi. Nhưng đó là một ý nghĩ quá chua chát, anh khẽ gật đầu, đón nhận sự thông cảm ấy.
“Blaine, cô ấy giờ ra sao rồi?”
“Cô ấy chuyển tới Long Island và đã tái hôn. Chúng em cũng không hay liên lạc. Cũng là chuyện thường tình vì không có con chung.”
“Chị đã rất vui, hồi ở Boston ấy, khi hai đứa tới chơi vào kỳ nghỉ cuối tuần.” Một nụ cười hiện lên, mà cũng không hẳn. Nó giống nét vẽ chết cứng trên một chiếc mặt nạ.
“Phải, hồi đó đúng là vui thật.”
Đó là một kỳ nghỉ cuối tuần tại New England 1. Họ đã đi mua sắm, lái xe về phía nam tới Cape Cod 2, có một buổi picnic bên bờ biển. Lúc đó, anh thầm nghĩ nơi đó thật đẹp biết bao. Trong khi ngắm nghía những tảng đá màu xanh bên bờ biển, anh chợt nảy ra ý tưởng lập một bộ sưu tập các loại tảo lấy từ xung quanh thành phố New York, để làm cơ sở dữ liệu cho phòng thí nghiệm điều tra tội phạm của Sở Cảnh sát New York. Anh đã dành một tuần liền lái xe lượn lờ khắp thành phố để lấy mẫu.
Và trong suốt chuyến đi thăm Arthur và Judy, anh và Blaine đã không cãi cọ lần nào. Thậm chí, chặng dừng chân tại nhà trọ ở Connecticut lúc quay về cũng thật tuyệt vời. Họ đã tựa vào bức vách phía sau căn phòng và làm tình với nhau trong bầu không khí sực nức mùi cây kim ngân.
Chuyến thăm đó là lần cuối cùng anh gặp mặt trực tiếp người anh họ. Họ còn trò chuyện một lần ngắn ngủi nữa nhưng chỉ qua điện thoại. Sau đó là vụ tai nạn và sự im lặng kéo dài.
“Đúng kiểu biến mất tăm khỏi thế giới của Arthur.” Chị bật cười – một tiếng cười có phần bối rối. “Cậu biết bọn chị đã chuyển tới New Jersey chưa?”
“Thật sao?”
“Arthur từng dạy ở Princeton nhưng đã bị sa thải.”
“Có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Anh ấy là trợ giảng và nghiên cứu viên. Bọn họ không ký hợp đồng giảng viên chính thức với anh ấy. Art nói nguyên nhân là do chính sách của trường. Cậu cũng biết điều đó là thế nào ở các trường đại học mà.”
Henry Rhyme, cha của Art, một giáo sư Vật lý danh tiếng tại Đại học Chicago, con đường hàn lâm là một sự nghiệp được coi trọng trong nhánh đó của họ Rhyme. Ở trường trung học, Arthur và Lincoln từng tranh luận về giá trị của công tác nghiên cứu và giảng dạy tại trường đại học so với một công việc cho tư nhân. “Trong môi trường sư phạm, anh có thể đóng góp nghiêm túc cho xã hội”, Art từng nói khi hai cậu nhóc cùng nhau chia sẻ hai lon bia một cách bất hợp pháp khi chưa đủ tuổi. Arthur cũng cố gắng giữ vẻ nghiêm chỉnh trên khuôn mặt khi Lincoln đưa ra câu bổ sung: “Đúng thế và các cô trợ giảng có thể cực kỳ nóng bỏng”.
Rhyme chẳng hề ngạc nhiên khi Art lựa chọn làm việc tại một trường đại học.
“Anh ấy vẫn có thể làm công việc trợ giảng nhưng đã quyết định ra đi. Anh ấy rất phẫn nộ, cho rằng mình có thể tìm thấy một công việc khác ngay lập tức. Nhưng anh ấy đã thất nghiệp một thời gian trước khi vào làm cho một công ty tư nhân sản xuất thiết bị y tế.” Lại một cái nhìn vô thức nữa, lần này mục tiêu là chiếc xe lăn hiện đại phức tạp. Chị đỏ mặt như vừa làm một việc đầy xúc phạm. “Đó không phải là công việc mơ ước của anh ấy và anh ấy không cảm thấy vui vẻ. Chị biết chắc anh ấy muốn đến thăm cậu. Nhưng có lẽ anh ấy xấu hổ vì đã không thành công trong sự nghiệp khi so với danh tiếng cậu có được.”
Cuối cùng chị nhấp một chút cà phê. “Hai người có thật nhiều điểm chung, giống như hai anh em ruột vậy. Chị vẫn nhớ về Boston, về tất cả những câu chuyện cậu từng kể. Chúng ta đã thức trò chuyện đến nửa đêm và cùng phá lên cười. Có những điều chị chưa bao giờ biết về anh ấy. À, bố chồng chị khi còn sống vẫn nhắc đến cậu luôn.”
“Thật vậy sao?” Anh và bác vẫn hay viết thư cho nhau. Anh đã nhận được một lá thư của bác chỉ vài ngày trước khi ông qua đời.
Rhyme có không ít kỷ niệm khó quên với bác anh nhưng có một hình ảnh luôn khiến anh nhớ hơn cả. Người đàn ông cao lớn, đầu hói, với khuôn mặt hồng hào khỏe mạnh ngả đầu ra sau phá lên cười đến độ đinh tai nhức óc, khiến hầu như mọi thành viên gia đình đang quây quần quanh bàn tiệc Giáng sinh phải bối rối trừ bản thân Henry Rhyme, bà vợ nhẫn nhịn của ông và chàng trai trẻ Lincoln, cậu cũng phá lên cười thoải mái cùng ông. Rhyme rất quý người bác này và thường xuyên tới thăm Henry cùng gia đình, khi ấy sống cách đó chừng ba mươi dặm, ngay bên bờ hồ Michigan, Evanston, tiểu bang Illinois.
Thế nhưng lúc này Rhyme không còn tâm trí đâu cho hoài niệm, anh thực sự thấy nhẹ nhõm khi nghe tiếng cửa mở, rồi tiếng bước chân dứt khoát vang lên từ ngưỡng cửa vào tới thảm trải sàn. Tiếng bước chân cho Rhyme biết người mới đến là ai. Lát sau, một người phụ nữ tóc đỏ cao ráo, mảnh mai, với quần jean, áo phông đen bên trong áo khoác đỏ tía bước vào. Chiếc áo phông khá rộng so với vóc dáng người mặc, trong khi hình dáng góc cạnh của chiếc báng khẩu súng ngắn Glock hằn lên rõ mồn một bên hông cô.
Khi Amelia Sachs mỉm cười đặt một nụ hôn lên môi Rhyme, nhà tội phạm học có thể thấy rõ câu trả lời bằng ngôn ngữ cơ thể của Judy vẫn đang ngồi ngay gần đó. Thông điệp này quá rõ ràng và Rhyme tự hỏi chuyện gì đã khiến vị khách bất ngờ như vậy. Hoặc là chị đã nghĩ chị quá sơ suất không hỏi xem Lincoln có hẹn với ai không. Hoặc chị đã tự cho rằng một người tàn tật không thể có được đối tượng hấp dẫn đến mức làm người ta ngơ ngẩn như Sachs, vốn từng làm người mẫu trước khi vào học trường cảnh sát.
Anh giới thiệu hai người với nhau. Sachs lắng nghe câu chuyện về vụ bắt giữ Arthur với sự quan tâm rõ rệt rồi hỏi Judy đang xử trí ra sao với tình thế hiện tại. Rồi cô hỏi một câu riêng tư: “Hai người đã có con chưa?”.
Rhyme nhận ra trong khi anh đang xăm xoi những câu lỡ lời của Judy thì bản thân anh cũng thất thố khi không hỏi han gì về cháu trai mình, thậm chí tên cậu bé anh cũng đã quên mất. Hóa ra gia đình họ đã có thêm thành viên mới. Bên cạnh Arthur Nhỏ 3, đã vào trung học, còn có thêm hai đứa bé nữa. “Một cháu trai chín tuổi, Henry và một cháu gái, Meadow, sáu tuổi.”
“Meadow? 4”, Sachs ngạc nhiên hỏi.
Judy bật cười bối rối. “Chúng tôi sống ở Jersey. Nhưng cái tên Meadow chẳng liên quan gì tới chương trình truyền hình cả. Cháu được sinh ra trước khi tôi xem chương trình đó.”
Chương trình truyền hình?
Judy phá vỡ khoảnh khắc im lặng ngắn ngủi. “Chắc cậu đang tự hỏi sao chị lại gọi cho ông sĩ quan cảnh sát đó hỏi số của cậu. Nhưng trước hết chị cần cho cậu hay Art không biết chị đến đây.”
“Không biết ư?”
“Nói thật với cậu, bản thân chị đã không nghĩ sẽ làm thế. Chị lo lắng đến mất ăn mất ngủ, không thể suy nghĩ được gì. Khi chị nói chuyện với Art vài ngày trước trong trung tâm tạm giam, anh ấy đã nói: ’Anh biết em đang nghĩ gì nhưng đừng gọi cho Lincoln. Đây chỉ là một trường hợp nhầm lẫn danh tính. Chúng ta sẽ sớm ổn thôi mà. Hãy hứa với anh, em sẽ không gọi’. Anh ấy không muốn làm cậu phải bận tâm… Cậu biết tính Art mà. Lúc nào cũng tốt tính, luôn nghĩ đến người khác.”
Rhyme gật đầu.
“Nhưng càng nghĩ nhiều về việc gọi cho cậu, chị càng thấy đúng đắn. Chị sẽ không yêu cầu cậu nhờ đến các mối quan hệ hay làm bất cứ điều gì không minh bạch, chỉ cần cậu gọi một hai cuộc điện thoại. Cậu nghĩ sao?”
Rhyme có thể hình dung ra việc đó sẽ diễn ra như thế nào ở Big Building. Là chuyên gia tư vấn pháp y của Sở Cảnh sát New York, công việc của anh là tìm ra sự thật, cho dù sự thật đó dẫn tới đâu. Rõ ràng bên cảnh sát sẽ cảm thấy thích hơn nhiều nếu anh giúp họ kết án các nghi phạm thay vì giúp những người này thoát tội.
“Chị đã đọc mấy bài cắt từ báo ra viết về cậu.”
“Bài cắt từ báo ra?”
“Art luôn theo dõi những bước đi của mọi người trong gia đình. Anh ấy đã cắt hàng tá bài viết về các vụ án của cậu từ các tờ báo. Những điều cậu làm được thật đáng kinh ngạc.”
Rhyme nói: “Em chỉ là một người làm công ăn lương thôi mà”.
Cuối cùng Judy cũng bộc lộ cảm xúc chân thành bằng một nụ cười trong khi chị chăm chú nhìn thẳng vào mắt Rhyme. “Art nói anh ấy chưa bao giờ tin cậu là người khiêm tốn, cho dù chỉ trong một phút.”
“Thật vậy sao?”
“Vì chính cậu cũng chẳng bao giờ tin vào điều đó.”
Sachs khẽ cười thành tiếng.
Rhyme bật ra tiếng cười mà anh nghĩ có thể coi là thành thật. Sau đó anh trở lại nghiêm túc. “Em không rõ có thể giúp được gì nhiều hay không. Nhưng hãy cho em biết những gì đã xảy ra.”
“Chuyện xảy ra thứ Năm tuần trước, hôm Mười hai. Art luôn về sớm vào những ngày thứ Năm để chạy bộ một lúc trong công viên tiểu bang trên đường về nhà. Anh ấy rất thích chạy.”
Rhyme nhớ lại trước đây đã không biết bao nhiêu lần, hai cậu bé chỉ cách nhau vài tháng tuổi cùng nhau chạy đua trên vỉa hè hay băng qua những đồng cỏ ngả vàng gần những ngôi nhà của gia đình chúng, khiến những con châu chấu có mặt trên đường đua phải bay đi tứ tán, trong khi những con muỗi nhỏ li ti dính bết lên làn da đầm đìa mồ hôi của hai đứa khi chúng dừng lại thở lấy hơi. Art có vẻ khá hơn nhưng Lincoln lại lọt được vào đội tuyển điền kinh của trường. Vì ông anh họ của anh chẳng hề bận tâm thử tham gia tuyển chọn.
Rhyme tạm gác những hồi ức sang bên để tập trung lắng nghe những gì Judy đang nói.
“Anh ấy rời chỗ làm ba rưỡi chiều và đi chạy như thường lệ, sau đó về đến nhà khoảng bảy giờ hay bảy rưỡi tối. Hôm sau, cảnh sát tìm đến nhà, hai người từ New York và một người từ New Jersey. Họ hỏi anh ấy rất nhiều câu hỏi, rồi kiểm tra chiếc xe. Họ tìm thấy những vết máu, chị không biết nữa…”. Giọng nói của chị hiện rõ những dư âm sót lại của cú sốc trong buổi sáng tai họa đó. “Họ khám xét ngôi nhà và lấy đi một vài thứ. Sau đó quay lại và bắt anh ấy vì tội giết người.” Phải khó khăn lắm chị mới nói ra được câu cuối cùng.
“Chính xác thì người ta tình nghi anh ấy đã làm gì?” Sachs hỏi.
“Họ tuyên bố anh ấy đã giết một người phụ nữ và ăn cắp một bức tranh quý của cô ta.” Người phụ nữ mỉa mai đầy cay đắng: “Ăn cắp một bức tranh? Để làm gì? Lại còn giết người nữa. Tại sao? Arthur chưa bao giờ làm hại ai trong cả cuộc đời anh ấy. Anh ấy không có khả năng làm điều đó”.
“Những vết máu được tìm thấy thì sao? Họ có giám định ADN không?”
“Họ làm rồi. Có vẻ như kết quả hoàn toàn khớp. Nhưng những xét nghiệm đó cũng có thể sai, đúng không?”
“Đôi khi”, Rhyme nói trong khi thầm nghĩ. Rất, rất hiếm khi.
“Hoặc có thể kẻ sát nhân thực sự đã tạo ra vết máu đó.”
“Arthur có đặc biệt quan tâm tới bức tranh đó không?”, Sachs hỏi.
Judy mân mê chiếc vòng tay to bản bằng nhựa đen và trắng đeo trên cổ tay trái của chị. “Có, anh ấy từng có một bức tranh của họa sĩ đó. Anh ấy rất thích nó nhưng đã buộc phải bán đi khi mất việc.”
“Bức tranh được tìm thấy ở đâu?”
“Nó chưa được tìm ra.”
“Nhưng làm sao họ biết nó đã bị lấy đi?”
“Có một nhân chứng nói đã nhìn thấy một người đàn ông mang nó từ căn hộ của người phụ nữ ra xe vào đúng khoảng thời gian cô ấy bị giết. Ôi, tất cả chỉ là một mớ hỗn độn khủng khiếp. Những trùng hợp ngẫu nhiên… “. Giọng nói của chị chìm đi trong những tiếng nấc.
“Anh ấy có biết người phụ nữ đó không?”
“Lúc đầu Art nói anh ấy không biết, nhưng rồi sau đó anh ấy nghĩ có thể họ đã từng gặp nhau tại một phòng tranh mà thỉnh thoảng anh ấy có lui tới. Nhưng anh ấy khẳng định chưa từng nói chuyện với người phụ nữ đó.” Giờ đây đôi mắt của vị khách nữ đã thay thế tấm bảng vẽ kế hoạch tóm cổ Logan trong suy nghĩ của Rhyme.
Rhyme chợt nhớ lại quãng thời gian anh và Arthur từng trải qua bên nhau.
Chạy thi tới cái cây đó đi… Không, đồ nhát như cáy… Cái cây thích ở đằng kia kìa. Chạm vào thân cây! Đếm đến ba. Một… hai… chạy!
Anh đâu có đếm đến ba!
“Vẫn còn nữa đúng không, Judy?”, Sachs hỏi.
Rhyme đoán Sachs đã nhìn thấy điều gì đó trong mắt vị khách nữ.
“Tôi chỉ thấy lo lắng thôi, cả về bọn trẻ nữa. Đối với chúng, đúng là một cơn ác mộng. Hàng xóm láng giềng đối xử chẳng khác gì chúng tôi là những tên khủng bố.”
“Tôi rất xin lỗi phải hối thúc nhưng chúng tôi cần biết toàn bộ những gì đã xảy ra, điều đó rất quan trọng.”
Khuôn mặt Judy lại đỏ bừng lên, hai đầu gối ép chặt vào nhau. Rhyme và Sachs có một người bạn làm đặc vụ cho văn phòng Cục Điều tra liên bang ở California, Kathryn Dance. Cô là một chuyên gia nghiên cứu ý nghĩa của ngôn ngữ cử chỉ. Rhyme từng coi những kỹ năng này chỉ có ý nghĩa thứ yếu trong khoa học hình sự. Nhưng dần dần, anh trở nên thực sự tôn trọng Dance và đã học được ít nhiều chuyên ngành của cô. Lúc này anh có thể dễ dàng nhận thấy Judy Rhyme đang ở trong trạng thái căng thẳng tột độ.
“Tiếp tục đi nào”, Sachs động viên.
“Cảnh sát đã tìm ra một vài bằng chứng khác mà thực ra cũng không hẳn là bằng chứng. Nhưng… chúng khiến họ nghĩ rất có thể Art và người phụ nữ kia đang hẹn hò với nhau.”
Sachs hỏi: “Chị nghĩ sao về chuyện này?”.
“Tôi không nghĩ anh ấy lại làm thế.”
Rhyme nhận thấy động từ trong câu trả lời trở nên rụt rè hơn. Không còn là lời phủ nhận mạnh mẽ cương quyết như với các tội danh giết người cướp của. Người phụ nữ khốn khổ mong muốn câu trả lời là không, cho dù cô gần như chắc chắn đã có cùng suy nghĩ như Rhyme: việc người phụ nữ bị giết là tình nhân của Arthur sẽ là một chi tiết có lợi cho anh ta. Sẽ dễ dàng cướp của một người xa lạ hơn của người ta đang bồ bịch. Thế nhưng, là một người vợ và một người mẹ, Judy vẫn mong câu trả lời ngược lại.
Sau đó chị ngước mắt lên, cái nhìn đã bớt thận trọng khi quan sát Rhyme, chiếc ghế anh đang ngồi cũng như các máy móc luôn đồng hành cùng anh.
“Cho dù chuyện gì đã xảy ra đi nữa, anh ấy không giết người phụ nữ đó. Anh ấy không thể. Chị linh cảm được điều đó… Cậu có thể giúp bọn chị được không?”
Rhyme và Sachs nhìn nhau. Anh nói: “Xin lỗi, Judy, lúc này bọn em đang có vào một vụ rất quan trọng. Bọn em sắp tóm được một gã sát nhân rất nguy hiểm. Em không thể dứt ra khỏi vụ này được”.
“Chị không muốn cậu phải làm thế. Nhưng, hãy giúp anh ấy, chỉ một điều gì đóthôi. Chị không còn biết phải làm gì nữa.” Đôi môi chị run rẩy.
Anh nói: “Bọn em sẽ gọi điện thoại để xem có thể làm được gì. Em không thể cho chị biết bất cứ thông tin nào ngoài những gì luật sư có thể nói cho chị, nhưng em sẽ nói thật về cơ hội kháng án thành công của Arthur”.
“Ôi, cảm ơn cậu, Lincoln.”
“Luật sư của anh ấy là ai?”
Chị cho hai người biết tên và số điện thoại của vị luật sư. Một luật sư chuyên bào chữa cho các vụ án hình sự, thành tích thuộc loại đầu bảng, kèm theo mức giá thù lao cũng ngất ngưởng không kém, Rhyme biết rõ người này. Ông ta là một người cực kỳ bận rộn và có nhiều kinh nghiệm về các vụ án tài chính hơn là các tội ác bạo lực.
Sachs hỏi về người sẽ đại diện cho bên nguyên.
“Bernard Grossman. Chị có số điện thoại của ông ta.”
“Không cần đâu”, Sachs nói. “Tôi có rồi. Tôi đã từng làm việc với ông ấy, một con người hiểu biết. Tôi đoán ông đã đề nghị chồng chị nhận tội để hưởng các tình tiết giảm nhẹ?”
“Ông ta đã đề nghị và luật sư của chúng tôi cũng muốn chấp nhận. Nhưng Art từ chối. Anh ấy một mực nói đây chắc chắn là một sự nhầm lẫn, tất cả sẽ được làm sáng tỏ. Nhưng chuyện đó đâu phải lúc nào cũng diễn ra. Người ta vẫn có thể phải vào tù cho dù hoàn toàn vô tội, đúng không?”
Phải, vẫn có thể đấy, Rhyme nghĩ thầm, sau đó nói: “Bọn em sẽ gọi điện thoại thử xem sao”.
Cô đứng dậy. “Chị không biết nói sao để cậu biết chị cảm thấy có lỗi đến thế nào khi bọn chị đã để mặc cậu khi xảy ra chuyện. Không gì có thể bào chữa được cho việc đó.” Bằng cách khiến anh hoàn toàn bất ngờ, Judy Rhyme bước thẳng tới chiếc xe đẩy, cúi xuống, má chị áp sát vào má anh. Rhyme ngửi thấy mùi mồ hôi của một người đang bối rối cùng hai thứ mùi khác là chất khử mùi và keo xịt tóc tỏa ra từ chị. Không có mùi nước hoa. Chị dường như không thuộc về kiểu phụ nữ hay dùng nước hoa. “Cảm ơn cậu, Lincoln.” Chị bước tới phía cửa, rồi chợt dừng bước. Chị nói với cả hai người: “Cho dù hai người có tìm ra bất cứ điều gì về người phụ nữ đó và Arthur thì cũng không sao hết. Điều duy nhất chị quan tâm là anh ấy không phải vào tù”.
“Em sẽ làm những gì có thể. Bọn em sẽ gọi điện cho chị nếu tìm thấy điều gì đó khả quan.”
Sachs tiễn vị khách nữ ra về.
Khi cô quay lại Rhyme nói: “Hãy bắt đầu kiểm tra với các luật sư trước đã”.
“Em rấy tiếc, Rhyme.”
Anh cau mày. Cô nói thêm: “Em chỉ muốn nói là việc này hẳn rất nặng nề vớianh”.
“Tại sao lại thế?”
“Một người họ hàng thân thuộc bị bắt về tội giết người.”
Rhyme nhún vai, một trong những cử chỉ hiếm hoi anh còn tự làm được. “Ted Bundy 5 cũng là con trai của ai đó. Có thể còn là anh họ của một người nào nữa.”
“Nhưng dẫu sao thì…”, Sachs nhấc ống nghe lên. Cô bấm số của vị luật sư bào chữa, cuộc gọi bị rơi vào hộp thư thoại và cô để lại một tin nhắn. Rhyme thầm tự hỏi không biết lúc đó tay luật sư đang đứng ở cạnh lỗ golf thứ mấy.
Sau đó, Sachs liên lạc được với trợ lý ủy viên công tố quận, Grossman, ông này không tận hưởng ngày nghỉ mà vẫn có mặt tại văn phòng. Ông không hề ngờ đến mối liên hệ họ hàng giữa nghi phạm với nhà tội phạm học. “Lincoln, tôi thực sự rất tiếc”, ông ta chân thành nói. “Nhưng tôi cần phải nói rằng, đây là một vụ rất rõ ràng. Tôi không tung hỏa mù đâu. Tôi sẽ nói cho anh biết nếu có kẽ hở nào. Nhưng không hề có. Bồi thẩm đoàn chắc chắn sẽ đóng đinh anh ta. Nếu có thể thuyết phục anh ta nhận tội, anh sẽ giúp được anh ta một việc lớn đấy. Rất có thể tôi sẽ giảm xuống, chỉ còn mười hai năm không giảm án.”
Mười hai năm, không trả tự do trước thời hạn. Chừng đó sẽ giết chết Arthur, Rhyme thầm nghĩ.
“Rất cảm ơn ông”, Sachs nói.
Người trợ lý ủy viên công tố quận nói thêm, ông có một phiên tòa rất phức tạp sẽ bắt đầu vào sáng hôm sau, vì thế không thể dành thêm thời gian trao đổi với Rhyme hay Sachs. Nếu họ muốn, trong tuần sau ông sẽ gọi lại.
Tuy vậy, ông cũng cho họ biết tên thám tử phụ trách vụ án, Bobby LaGrange.
“Em biết anh ta”, cô nói, đồng thời gọi điện đến nhà viên thám tử. Lại hộp thư thoại. Nhưng khi cô gọi vào di động, anh chàng thám tử lập tức trả lời.
“LaGrange đây.”
Tiếng rít của những cơn gió cùng tiếng sóng vỗ cho biết viên thám tử đang bận rộn làm gì trong ngày đẹp trời ấm áp này.
Sachs nói tên mình.
“À phải rồi. Cô vẫn khỏe chứ, Amelia? Tôi đang đợi điện thoại của một tay bán tin. Chúng tôi đang chờ một thứ sẽ tới Red Hook vào bất cứ lúc nào.”
Vậy là anh ta không phải đang ngồi trên chiếc thuyền câu cá của mình.
“Tôi có thể không nói lâu được đâu.”
“Hiểu rồi. Anh đang ở loa ngoài đấy.”
“Thám tử, tôi là Lincoln Rhyme.”
Một thoáng chần chừ. “Ồ, vâng.” Một cuộc gọi của Lincoln Rhyme luôn nhanh chóng khiến người nghe tập trung chú ý.
Rhyme giải thích về anh họ mình.
“Đợi đã… Tôi nghĩ Rhyme là một cái họ thật buồn cười. Ý tôi muốn nói là khác thường. Nhưng tôi đã không nhận ra mối liên hệ giữa họ của hai người. Trong suốt các cuộc thẩm vấn, cậu ta cũng không hề nói gì về ông. Tôi thực sự rất tiếc.”
“Thám tử, tôi không muốn can dự vào vụ án. Nhưng tôi đã hứa sẽ gọi điện hỏi tình hình vụ việc. Tôi biết nó đã lên tới trợ lý ủy viên công tố quận. Tôi vừa nói chuyện với ông ấy.”
“Tôi buộc phải nói vụ này rõ như ban ngày rồi. Tôi đã điều tra các vụ án mạng từ năm năm nay và trừ trường hợp ai đó trong phiên tuần tra tận mắt trông thấy một vụ thanh toán băng đảng thì đây là vụ chắc chắn nhất tôi từng chứng kiến.”
“Đầu đuôi câu chuyện ra sao? Vợ của Art chỉ cho tôi biết vài chi tiết rời rạc.”
Tay thám tử trả lời bằng giọng nói cứng nhắc, khô khốc, hoàn toàn vô cảm mà những anh chàng cớm luôn dùng đến mỗi khi thuật lại tình tiết của một tội ác: “Anh họ ông rời chỗ làm sớm. Anh ta tới căn hộ của một phụ nữ có tên Alice Sanderson ở khu Village. Cô ta cũng rời chỗ làm sớm. Không rõ anh ta ở đó bao lâu nhưng vào khoảng sáu giờ chiều, cô gái đã bị đâm chết bằng dao và một bức tranh đã bị đánh cắp”.
“Tranh hiếm phải không?”
“Phải. Nhưng chưa đến mức như tranh của Van Gogh 6.”
“Tác giả là ai?”
“Một tay Prescott nào đó, qua đời cách đây chưa lâu.”
“Vậy là tranh của ông ta đang lên giá?”
“Đoán vậy. Nhưng bức tranh này cũng chỉ có giá khoảng một trăm năm mươi nghìn đô. À, chúng tôi cũng đã tìm thấy vài bức thư gửi trực tiếp, như kiểu tờ rơi quảng cáo, của một vài phòng tranh gửi cho anh họ ông về Prescott. Có vẻ không phải là những bằng chứng hay ho cho lắm.”
“Hãy cho tôi biết thêm về ngày Mười hai tháng Năm”, Rhyme nói.
“Vào lúc khoảng sáu giờ, một nhân chứng nghe thấy những tiếng thét, vài phút sau đó cũng nhân chứng này trông thấy một người đàn ông mang theo một bức tranh chạy ra ngoài, tới một chiếc Mercedes màu xanh sáng đỗ bên đường. Chiếc xe chạy ngay khỏi hiện trường. Nhân chứng chỉ nhìn thấy ba chữ cái đầu trên biển số, không rõ được tên tiểu bang nhưng chúng tôi đã tìm kiếm trong phạm vi thành phố. Sau đó thu hẹp danh sách tình nghi và thẩm vấn các chủ xe. Một trong số này là anh họ ông. Tôi, người cùng nhóm và một nhân viên cảnh sát tới Jersey để gặp anh ta. Chúng tôi phát hiện thấy những vết giống vết máu trên cửa sau xe và băng ghế sau. Có một chiếc khăn lau thấm đầy máu giấu dưới băng ghế. Chiếc khăn này trùng khớp với bộ khăn được dùng tại căn hộ của nạn nhân.”
“Và ADN cũng dương tính?”
“Phải, là máu của cô ta.”
“Nhân chứng đã nhận ra anh ấy trong một buổi nhận dạng trực tiếp?”
“Không, hoàn toàn nặc danh. Nhân chứng gọi đến từ một thuê bao trả trước và không cho biết tên vì không muốn gặp rắc rối. Nhưng chúng tôi cũng không cần thêm. Nhóm điều tra hiện trường đã thu hoạch được nhiều thứ. Bọn họ lấy được một dấu giày ngay trên lối vào căn hộ nạn nhân, cùng loại với giày anh họ ông đi và thu lượm được vài dấu vết hoàn hảo.”
“Bằng chứng ‘theo lớp’ 7?”
“Phải, theo lớp. Vết kem cạo râu, đồ ăn vặt, phân bón cỏ lấy từ ga ra của anh ta. Hoàn toàn trùng khớp với những gì tìm thấy trong căn hộ nạn nhân.”
Không, chúng không trùng khớp, Rhyme thầm nghĩ. Bằng chứng gồm nhiều loại khác nhau. Bằng chứng “cá thể” 8> lấy từ một nguồn duy nhất, chẳng hạn như ADN hay dấu vân tay. Bằng chứng “theo lớp” có chung một số đặc tính nhất định với các vật liệu tương tự, nhưng không nhất thiết từ cùng một nguồn. Chẳng hạn như sợi dệt thảm. Xét nghiệm ADN của mẫu máu lấy từ hiện trường vụ án có thể chắc chắn “trùng khớp” với máu của thủ phạm. Nhưng việc so sánh giữa mẫu sợi dệt thảm từ hiện trường với những sợi thảm tìm thấy trong nhà kẻ tình nghi nếu “có mối liên hệ” chỉ có thể cho phép bồi thẩm đoàn suy ra kẻ tình nghi đã có mặt tại hiện trường.
“Theo ông, nghi phạm có quen cô ta hay không?”, Sachs hỏi.
“Anh ta khăng khăng là không, nhưng chúng tôi đã tìm thấy hai ghi chú nạn nhân đã viết. Một tại chỗ làm việc, một tại nhà. Ghi chú thứ nhất: ‘Art – đồ uống’. Ghi chú thứ hai chỉ vẻn vẹn: ‘Arthur’. Không có gì khác. À, tên anh ta có trong điện thoại của nạn nhân.”
“Số điện thoại của anh ấy?”, Rhyme cau mày.
“Không. Chỉ có số máy di động trả trước. Không có thông tin người dùng.”
“Vậy anh cho rằng hai người thậm chí còn hơn là bạn bè?”
“Cũng từng nghĩ đến. Nếu không tại sao chỉ đưa cho cô ta số di động trả trước, mà không phải số nhà riêng hay nơi làm việc?”, anh chàng thám tử bật cười. “Có vẻ như cô ta chẳng hề bận tâm. Ông sẽ ngạc nhiên khi biết người ta sẵn sàng chấp nhận điều gì mà không hề đặt câu hỏi.”
Không ngạc nhiên đến mức đó đâu, Rhyme thầm nghĩ.
“Còn chiếc điện thoại?”
“Bốc hơi. Không tìm thấy dấu vết nào.”
“Anh có nghĩ anh ấy đã giết cô gái vì cô ta gây sức ép đòi anh ấy phải bỏ vợ?”
“Đó là một lý do ủy viên công tố sẽ moi đến.”
Rhyme so sánh giữa những gì anh từng biết về người anh họ đã hơn chục năm nay chưa gặp mặt với ý tưởng này, anh không thể khẳng định hay phủ nhận mối nghi ngờ.
Sachs hỏi: “Còn ai khác có động cơ không?”.
“Không ai cả. Gia đình và bạn bè nói cô ta có hẹn hò vài người, nhưng đều là những cuộc gặp gỡ tình cờ. Không có cuộc đổ vỡ ghê gớm nào. Tôi thậm chí đã tự hỏi liệu có phải do cô vợ, Judy, ra tay không, nhưng vợ anh ta có bằng chứng ngoại phạm vào khoảng thời gian đó.”
“Arthur có bằng chứng ngoại phạm nào không?”
“Không hề. Anh ta nói đi tập chạy nhưng không ai xác nhận đã trông thấy anh ta ở Công viên Clinton State. Đó là một chỗ rất rộng và cực kỳ vắng vẻ.”
“Tôi tò mò một chút”, Sachs nói, “thái độ anh ta trong lúc thẩm vấn ra sao?”.
LaGrange cười. “Cô nhắc đến lại làm tôi buồn cười, đó là phần kỳ quặc nhất của cả vụ án này. Anh ta trông cực kỳ sửng sốt, chỉ đứng chết sững ra khi nhìn thấy bọn tôi. Tôi đã tóm cổ không ít loại người trong đời làm cảnh sát của mình, một số trong đó là những tay chuyên nghiệp thực sự. Còn anh chàng này diễn thật ngọt vở Tôi vô tội. Quả là một diễn viên xuất chúng. Chắc ông vẫn nhớ tài năng này của anh ta chứ, thám tử Rhyme?”
Nhà tội phạm học không trả lời. “Chuyện gì đã xảy ra với bức tranh?”
Một thoáng im lặng. “Đấy lại là chuyện khác. Đến giờ chúng tôi vẫn chưa tìm thấy. Nó không có trong nhà hay trong ga ra nhưng nhóm điều tra hiện trường phát hiện ra đất bám trên băng ghế sau và trong ga ra của anh ta trùng khớp với đất ở khu vực công viên tiểu bang nơi anh ta vẫn tới chạy mỗi tối. Chúng tôi đoán anh ta đã chôn bức tranh ở đâu đó.”
“Tôi có một câu hỏi, thám tử”, Rhyme nói.
Lại một khoảng im lặng ở đầu dây bên kia, trong khoảng thời gian đó có thể nghe thấy những tiếng không rõ ràng cùng tiếng gió thổi. “Cứ nói đi.”
“Tôi có thể xem qua hồ sơ không?”
“Hồ sơ?” Đây không phải là một câu hỏi, chỉ là một cách trì hoãn để cân nhắc của tay thám tử. “Vụ này đã quá rõ ràng. Chúng tôi đã làm y như sách dạy.”
Sachs nói: “Chúng tôi không hề nghi ngờ chuyện đó. Tuy nhiên, theo chúng tôi biết anh ta từ chối nhận tội”.
“À. Các vị muốn thuyết phục anh ta nhận tội chứ gì? Tôi hiểu rồi. Đó là cách tốt nhất cho anh ta. Tôi chỉ có bản sao, ông trợ lý ủy viên công tố quận nắm giữ tất cả hồ sơ gốc và bằng chứng. Nhưng tôi có thể tìm cho hai vị các báo cáo trong một hay hai ngày nữa, được chứ?”
Rhyme lắc đầu. Sachs nói với anh chàng thám tử: “Anh có thể nói chuyện với bên Lưu trữ và thuyết phục họ đồng ý được không? Tôi sẽ tự tới đó lấy hồ sơ về”.
Tiếng gió lại ập vào đầu dây bên kia, rồi tắt lịm đi đột ngột không kém. Chắc LaGrange vừa chạy vào chỗ nào đó kín gió.
“Được thôi. Tôi sẽ gọi bọn họ ngay.”
“Cảm ơn.”
“Không có gì. Chúc may mắn.”
Sau khi ngắt liên lạc, Rhyme khẽ mỉm cười. “Ý tưởng vụ nhận tội để hưởng giảm án đó quả thực không tồi chút nào.”
“Anh phải hiểu rõ thính giả của mình thì mới làm việc hiệu quả được chứ”, Sachs nói rồi quàng túi lên vai, quay người đi ra cửa.
——————————–
1 Một vùng ở Đông Bắc nước Mỹ.
2 Mũi đất ở cực Đông của tiểu bang Massachusetts.
3 Junior (Jr.) thường thêm vào sau tên riêng khi người con được đặt trùng tên với bố đẻ.
4 Đồng cỏ (tiếng Anh)
5 Một kẻ giết người hàng loạt bị kết án tử hình năm 1989 ở Florida.
6 Tức Vincent Willem Van Gogh, một danh hoạ nổi tiếng người Hà Lan thuộctrường phái hậu ấn tượng.
7 Nguyên văn là “class evidence”.
8 Nguyên văn là “individuating evidence”.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.