Gặp chính mình nơi miền đất tuyết

6. Ba Tùng Thố Trung Thố



Vừa thức giấc, tinh thần sảng khoái, phảng phất như được hồi sinh.
Hàn Hàn muốn tiếp tục đi về phía Tây đến Tingri, sau đó tới Everest; còn tôi muốn quay về Lhasa.
Tôi chào tạm biệt Hàn Hàn, cũng cảm ơn sự giúp đỡ của anh ta trong mấy ngày qua.

“Thấy bảo ra khỏi Shigatse, đường sẽ không dễ đi, hầu như toàn là đường đất với đường bùn đá”.
Tôi nắm tay anh ta, “Đi đường cẩn thận.”
“Đừng lo.” Hàn Hàn cười, “Tôi từng đoạt giải vô địch đua xe đấy.”
Hàn Hàn vẫy vẫy tay, liền chui vào xe.

“Phải đóng phim thật hay vào đấy!” Xe Hàn Hàn khởi động xong, tôi hướng về phía sau xe hét to:
“Đừng chỉ mải mê yêu đương nhé!”
“Sư huynh!” Hàn Hàn thò đầu ra ngoài cửa sổ gào lên: “Như vậy cũng là một loại chấp nhất đấy!”

Sau khi từ biệt Hàn Hàn, tôi tới đường Cống Giác Lâm bắt xe về Lhasa.
Xe bus ở Tây Tạng chỉ là xe bus mini, không phải là loại xe bus thường thấy trong thành phố.
Bởi vì chỉ có xe bus mini mới có thể chạy trên đường núi trùng điệp mấy ngàn km.
Dọc đường mấy lần nhìn thấy từng đợt khói trắng, đều đặn bay lên phía xa xa.
Đó là “Ôi Tang”, là hoạt động cúng bái phổ biến nhất ở Tây Tạng, theo từng sợi khói trắng bay lên, người ta cho rằng thân thể, lời nói, ý nghĩ cùng với nguyện vọng của bản thân, đã được truyền đạt đến thần linh.
Tôi cũng nhắm mắt cầu nguyện, mong sao có thể sắm tròn vai diễn của cuộc đời này.

Khoảng bốn giờ chiều về đến Lhasa, sau đó lại tới khách sạn đã ở ngày đầu tiên khi đến Lhasa.
Sau khi thu xếp hành lý ổn thỏa, đi thẳng đến Mã Cát A Mễ.
“Chà!” Thạch Khang mang theo một bình rượu lúa mì Thanh Khoa đến bên tôi, “Mấy ngày không gặp!”
Tôi bèn cùng Thạch Khang chuyện trò về những điều đã nghe đã thấy mấy ngày qua.
“Thì ra lam thiên thứ bạch mâu, khô liễu phi kim y có ý nghĩa này.” Thạch Khang như bừng tỉnh đại ngộ.

Tôi nói kỳ nghỉ của tôi sắp kết thúc, không có ý định đi Everest, tính ngày mai rời khỏi Tây Tạng.
Thạch Khang nói thân phận ông chủ đại diện này của anh ta cũng sẽ chấm dứt vào ngày hôm nay, ngày mai ông chủ thực sự sẽ quay về.
“Ngày mai tôi tiễn anh đến sân bay nhé.” Thạch Khang nói, “Sau đó tôi cũng muốn đi Everest.”

Hành trình đến Tây Tạng lần này đã làm quen với một vài người bạn mới, trước lúc chia tay có chút không đành lòng.
Tôi cùng Thạch Khang chụp mấy tấm ảnh ngay trong Mã Cát A Mễ, lưu lại làm kỷ niệm.
“Hả? Cái này…” Tôi nhìn mấy tấm hình trong máy ảnh kỹ thuật số, nói không nên lời.
Thạch Khang chụm đầu qua nhìn một cái, kinh ngạc nói: “Lại là vòng tròn ánh sáng!”
“Hay là tôi đi in ra nhé.” Sau một hồi chúng tôi cùng nhau trầm mặc, Thạch Khang rốt cuộc lên tiếng.

Đó là ảnh chụp chung tôi và Thạch Khang đứng trước bức tường màu vàng treo đầy những tấm ảnh cũ, vòng tròn ánh sáng xuất hiện phía trên một tấm ảnh cũ.
Lần này chỉ có một vòng tròn ánh sáng, hơn nữa lại hiện lên màu vàng, rõ ràng không giống với vòng tròn ánh sáng trên bích họa tượng Phật ở cung Potala.

Tôi không đánh cuộc với Thạch Khang là phải trở về trong vòng 20 phút nữa, chỉ lặng im ngồi chờ anh ta.
Thạch Khang cắt hình tấm ảnh cũ có chứa vòng tròn ánh sáng xuống, phóng to in ra một tờ giấy A4.
Chúng tôi ngồi suy nghĩ một lúc, lại đứng lên tới trước bức tường nghiên cứu xem tấm ảnh cũ kia có chỗ nào khác thường?
Thậm chí nghiên cứu cả của khung của tấm ảnh cũ đó.
Kết quả đều như nhau, không nhìn ra chỗ nào kỳ lạ.
Thạch Khang cầm máy ảnh kỹ thuật số lên, dùng góc độ tương tự hướng về cùng một chỗ chụp mấy tấm ảnh, tất cả ảnh chụp đều rất bình thường.

“Chẳng lẽ vẫn phải đi hỏi Lạt Ma đền Jokhang nữa sao?” Tôi cười khổ.
“Không được đâu.” Thạch Khang cũng gượng cười, “Tiếp tục hỏi nữa, Lạt Ma liền có thể kiêm cả chức giúp người phân tích hình ảnh siêu nhiên.”
“Hỏi tôi đi.”
Tôi và Thạch Khang nghe thấy tiếng bèn quay đầu lại, lại là người thần bí mặc áo đen quần đen đội mũ đen Thái Tuấn.

“Mày chắc là hiểu cái mông.” Thạch Khang nói.
“Ý anh là gì?” Thái Tuấn hỏi.
“Mày thì biết cái quái gì!” Thạch Khang to tiếng.

Thái Tuấn không thèm đếm xỉa tới Thạch Khang, trực tiếp ngồi xuống, vươn tay về phía tôi.
Tôi đưa tờ giấy A4 kia cho anh ta.
“Ừm…” Thái Tuấn trầm tư một lúc, nói: “Tôi hiểu rồi.”
“Thật à?” Tôi rất ngạc nhiên.
“Đúng vậy.” Thái Tuấn đứng lên, đột nhiên đưa tay chỉ về phía sau tôi và Thạch Khang, nói:
“Người ngoài hành tinh!”

Tôi và Thạch Khang quay đầu lại theo phản xạ, nhưng không thấy gì.
Lúc ngoảnh lại, Thái Tuấn đã cầm tờ giấy kia chạy đến đầu cầu thang.
“Thằng khốn!” Thạch Khang mắng to.
“Tôi không phải là thằng khốn, tôi là người thần bí Thái Tuấn.” Thái Tuấn chạy xuống lầu, vừa chạy vừa nói:
“Tôi đến hỏi Lạt Ma đền Jokhang.”

Giờ cơm tối chẳng mấy chốc đã đến, Thạch Khang nói tối nay dứt khoát để anh ta mời cơm.
Thịnh tình khó khước, tôi bèn ở lại ăn tối.
Đồ ăn thật phong phú, món bánh thịt bò cùng món sữa chua bò thơm nồng để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc.
Sau khi ăn cơm xong, đang chuẩn bị cáo từ, Thái Tuấn lại bất thình lình xuất hiện ở đầu cầu thang.

“Lạt Ma đã gặp được tôi.” Thái Tuấn nói.
“Nói ngược rồi đấy.” Thạch Khang nói.
“Tôi không nói ngược.” Thái Tuấn nói, “Tôi không gặp được Lạt Ma, nhưng Lạt Ma đã gặp được tôi.”
“Nghĩa là sao?” Tôi nghe mà không hiểu lắm.

Thì ra Thái Tuấn chạy vào trong đền Jokhang, ra sức dập đầu bái lạy trước tượng Đẳng Thân của Phật Tổ.
Có thể là vì miệng anh ta cắn chặt tờ giấy, thở không nổi; cũng có thể là do anh ta dập đầu quá hăng, sau một hồi dập đầu, anh ta liền ngất đi.
Đến khi anh ta tỉnh lại, Lạt Ma đã đứng bên cạnh, Lạt Ma nói đúng lúc Lạt Ma đi ngang qua thấy anh ta bất tỉnh, cũng nhìn thấy tờ giấy trong miệng anh ta.
Ngoài việc giúp anh ta rưới nước lành lên đầu, Lạt Ma còn nói một câu.

“Câu gì?” Thạch Khang hỏi.
“Lạt Ma dịch lời của Lạt Ma thành Hán ngữ, viết lên một tờ giấy đưa cho tôi.” Thái Tuấn nói.
“Tờ giấy đâu?” Thạch Khang hỏi.
Thái Tuấn không trả lời, lấy từ trong túi ra một thứ.
“Xem phi tiêu đây!” Thái Tuấn đột nhiên nói.

Chỉ thấy một thứ gì đó tròn tròn bay thẳng về phía tôi và Thạch Khang, tôi né tránh theo phản xạ.
“Ái ôi!” Thạch Khang kêu một tiếng thảm thiết.
Tôi thấy thứ tròn tròn đó nằm trên mặt đất, khom lưng xuống nhặt lên.
Đó là một tờ giấy được vò thành nắm bọc lấy một hòn đá nhỏ.

“Là đá máu gà à?”
Tôi nhìn vào vị trí màu đỏ trên hòn đá, bèn dùng ngón tay lau lau, thế mà màu lại rớt ra.
“Hả?” Tôi hoảng sợ, “là máu ư!”
“Thằng khốn!” Tay phải Thạch Khang sờ sờ gáy, sau đó nhìn lòng bàn tay, “tao chảy máu rồi!”

Thái Tuấn lại chuồn mất, Thạch Khang không ngừng chửi rửa.
Tôi mở tờ giấy ra, trên giấy viết: Ba Tùng Thố Trung Thố.
“Câu Ba Tùng Thố Trung Thố này, khiến anh nghĩ đến điều gì?” Tôi hỏi.
“Đau quá.” Thạch Khang đáp lời.

Tôi đợi Thạch Khang lau sạch miệng vết thương, rắc qua loa ít thuốc, rồi tiếp tục cùng nhau nghiên cứu về Ba Tùng Thố Trung Thố.
Tôi biết “Thố” trong tiếng Tạng có nghĩa là hồ, vậy Thố Trung Thố thì sao? Hồ trong hồ ư?
Thế này không hợp lý cho lắm.

“Tôi biết Ba Tùng Thố, đó là thánh hồ của phái Ninh Mã (Nyingma) tục gọi là Hồng giáo.” Thạch Khang nói, “Nhưng tôi cũng không hiểu Thố Trung Thố.”
Quả nhiên Thạch Khang cũng không hiểu, chúng tôi lại rơi vào trầm tư.

“Chẳng bằng ngày mai chúng ta đi Ba Tùng Thố một chuyến đi.” Thạch Khang nói.
“Có xa không?” Tôi hỏi.
“Cách Lhasa hơn 300 km, nếu lái xe cần sáu tiếng đồng hồ.”
“Ừm…”
Vốn định ngày mai rời Tây Tạng, nhưng lại rất muốn biết Ba Tùng Thố Trung Thố rốt cuộc là gì?

“Đừng chấp nhất.” Thạch Khang nói, “Ở lại thêm ngày nữa rồi hẵng đi.”
“Nói rất đúng.” Tôi cười cười.
“Tôi cũng muốn đi.” Thái Tuấn lại xuất hiện ở đầu cầu thang.
“Mày còn dám tới!”
Thạch Khang vọt lên như con mãnh thú, Thái Tuấn trốn cũng rất mau, bóng dáng hai người nhanh chóng mất hút.

Một lát sau, Thạch Khang mới quay lại.
“Đồ khốn, chạy rõ nhanh.”
Thạch Khang lấy lại hơi, nói sáng mai anh ta sẽ lái xe đến khách sạn đón tôi.
Hẹn thời gian xong xuôi, tôi liền rời Mã Cát A Mễ.

Sớm tinh mơ hôm sau, trời còn chưa sáng, chúng tôi đã lên đường đi Ba Tùng Thố.
Để tiết kiệm thời gian, Thạch Khang mang theo trên xe một ít tảm ba, thịt bò khô cùng với trà bơ, không có ý định xuống xe tìm nhà hàng món Trung.
Hành trình rất thuận lợi, khoảng một giờ rưỡi chiều đã đến Ba Tùng Thố.

Chúng tôi giẫm lên lớp tuyết đọng trên mặt đất đi dọc ven hồ, rừng cây nguyên thủy ven hồ um tùm rậm rạp.
Tôi quá đỗi kinh ngạc vì nước hồ Ba Tùng Thố có thể trong trẻo sâu thẳm đến thế.
Nước hồ trong suốt nhìn thấu đáy, những ngọn núi xung quanh in bóng trong đó, cứ như thể chốn bồng lai.
Nếu bạn đủ nhàm chán, trồng cây chuối tại chỗ cũng có thể nhìn thấy cảnh tượng tương tự.
Tôi dừng bước bên một đống đá.
“Đó là đống đá Mani.” Thạch Khang nói.

Trên những hòn đá này dù không khắc bất cứ văn tự và hình vẽ nào, nhưng sau khi được xếp thành hình kim tự tháp, chúng liền bắt đầu khác với những hòn đá thông thường, phảng phất tràn ngập linh khí.
“Mỗi một hòn đá trong đống đá Mani, đều đại biểu cho tấm lòng thành kính mà thuần khiết của người Tạng.”
Thạch Khang tiện tay nhặt một hòn đá trên mặt đất, trước tiên áp hòn đá vào trán thành kính đọc thầm lời cầu nguyện, sau đó đặt hòn đá này lên đống đá Mani.
“Anh có thể chuyển ba vòng quanh đống đá Mani, điều này sẽ mang đến cho anh sự an ủi.” Thạch Khang nói.

Tôi chuyển ba vòng quanh đống đá Mani theo chiều kim đồng hồ, chuyển xong cảm thấy bản thân tựa như nước hồ Ba Tùng Thố, đáy lòng trong sạch mà bình lặng.
Sau đó tôi thấp thoáng nhìn thấy một góc phòng trong rừng cây phía xa, trông như mái hiên điện thờ nơi chùa miếu.
Đi đến gần vừa nhìn thấy, phát hiện ra là một hòn đảo nhỏ, hơn nữa còn nối với đất liền bằng cầu phao.
Mùa hạ mực nước cao, hình dáng hòn đảo nhỏ hẳn là rất rõ rệt, có lẽ phải đi thuyền mới có thể tới đảo;
Nhưng mùa đông mực nước hạ thấp, hòn đảo nhỏ cơ hồ như sắp nối liền với đất liền, cầu phao chỉ dài khoảng 20 mét.
Xa xa nhìn lại, rất dễ lầm tưởng hòn đảo nhỏ này là một bộ phận của phần đất liền bên hồ.

Tôi và Thạch Khang không chút lưỡng lự, đi lên cầu phao tới hòn đảo nhỏ.
Trên đảo có một số kì nham quái thụ, còn có một cây đào và cây tùng sinh trưởng cùng nhau gọi là “Đào ôm tùng”.
Đi không bao lâu liền sáng tỏ, nhìn thấy một tu viện nhỏ.
Đây là cổ tự của phái Ninh Mã, hai bên cửa chính đều có tượng điêu khắc gỗ hình người nửa thân dưới của nam và nữ.

Tu viện này rất nhỏ, chủ yếu thờ phụng thuỷ tổ của phái Ninh Mã —— Đại sư Liên Hoa Sinh.
Pho tượng Phật đại sư Liên Hoa Sinh này rất đặc biệt, tạo hình vô cùng hung ác, giống như ma quỷ phẫn nộ.

Theo truyền thuyết, đại sư Liên Hoa Sinh vì để phổ độ chúng sinh, có tám hóa thân, tức Liên Sư Bát Biến.
Pho tượng Phật này hẳn là Kim Cương phẫn nộ trong số đó.
Dưới ánh đèn mờ nhạt trong tu viện, trước mặt đột nhiên đứng sừng sững một pho Kim Cương phẫn nộ như thế này, trong lòng không khỏi hoảng hốt.
Như vậy cũng tốt, nếu tôi có tâm ma, ma chướng có lẽ sẽ bị xua đuổi.

Đi ra ngoài tu viện, giơ máy ảnh lên chụp phía ngoài tu viện này.
Sau khi chụp xong, thử xem ảnh chụp, không ngờ tôi lại nhìn thấy vòng tròn ánh sáng nơi bầu trời xanh phía trên tu viện.
Trước tiên là sửng sốt, tiếp đó có cảm giác quen thuộc.
Tôi nhớ ra rồi, buổi chiều hôm ấy chuẩn bị điền nguyện vọng sau khi hoàn thành kỳ thi đại học, tôi từng nhìn thấy một thứ như quang lại như ảnh trên bầu trời phía ngoài cửa sổ, chính là loại vòng tròn ánh sáng này.

“Trát Tây Đức Lặc.”
Tôi nghe tiếng ngẩng đầu lên, chỉ thấy một vị Lạt Ma thân mặc Hồng Y tuổi chừng 60 đứng trước mặt tôi.
Trên đầu ngài còn đội một chiếc mũ lông màu trắng để chống rét.
“Trát Tây Đức Lặc.” Tôi chắp hai tay trước ngực.

“Anh đến từ thành phố?” Lạt Ma hỏi.
“Dạ.” Tôi gật đầu.
“Anh thấy thành phố và Tây Tạng có gì khác biệt?”
“Ở thành phố, đường tuy rộng, nhưng tầm nhìn chật hẹp.” Tôi trả lời, “ở Tây Tạng, đường tuy hẹp, nhưng tầm nhìn bát ngát.”

“Có chụp ra được vẻ đẹp của chùa không?” Thầy lại hỏi.
“Vẻ đẹp của chùa, căn bản không chụp ra được.” Tôi lắc đầu, “bởi vì vẻ đẹp của chùa, không nằm ở bên ngoài.”

Thầy gật đầu, lại hỏi: “Khoảng cách giữa thiên đường và địa ngục có xa lắm không?”
“Chỉ bởi nhất niệm.” Tuy khó hiểu khi thầy hỏi như vậy, nhưng tôi vẫn cung kính trả lời:
“Bởi vì nhất niệm thiên đường; nhất niệm địa ngục.”
Thầy rốt cuộc mỉm cười, nói: “Hoan nghênh đến tu viện cổ ngàn năm —— Thố Tông Tự.”
Tu viện này tên là Thố Tông Tự?
Thì ra Ba Tùng Thố Trung Thố không phải chỉ hồ trong hồ, mà là Thố Tông Tự trong hồ Ba Tùng Thố!


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.