Gió Lẻ Và 9 Câu Chuyện Khác

Thổ Sầu



Lúc vào nách một con sông gầy gò chảy cắt qua đồng, Thổ Sầu như một đứa trẻ tuyệt vọng níu tìm vú mẹ. Dọc triền sông, cỏ kết dày, từ trên bờ thò xuống nước như đất đang gục đầu gội tóc, những cây bần de xa khỏi mé sông, những cây sộp rũ rượi xõa chùm rễ nâu, những thân cau lẻ đâm thẳng lên trời, vài tiếng gà nhói lên xa xa… tất cả những thứ đó làm cho vẻ mặt của Thổ Sầu buồn thiu. Những chiều phai, nhìn ra sông thấy lục bình trôi, lơ phơ mấy cái bông lục bình quá thì, cũng phai như chiều. Ngó ra sau nhà thấy một vạt đồng trũng sâu, ngoi lên mặt nước những bông lúa thưa thớt, xanh xao. Vườn cũ có vài cây vú sữa, mù u rụng trái đầy mặt đất, mấy bụi tre bụi trúc vút lên trời một chòm xanh ngắt…

Khi tôi ra đời, Thổ Sầu đã buồn thâm căn cố đế. Đến nỗi những người ở đây không còn cảm giác để nhận biết buồn nữa. Chỉ khách phương xa mới ngây ngất trước bộ mặt sầu muộn của quê tôi. Họ lặng đi. Bàng hoàng. Ngây dại. Và cơn choáng váng đó đã bật lên một ý nghĩ lạ lùng, Thổ Sầu sẽ làm du lịch.

Tía tôi trở tính lầm lì ngay từ khi Thổ Sầu đón lượt khách đầu tiên. Họ săm soi cái nồi méo mó cháy đen và chụp hình chúng tôi ăn cơm chiều bên ơ kho quẹt mặn chát. Tía tôi nói, giọng nẫu nê, tao muốn chết quá, Đậu ơi. Tôi cũng thấy ngột ngạt cứng mình, nên chỉ biết lúng búng nói, thôi kệ họ… Không giải thích được, tại sao khách lại hớn hở và háo hức khi nhìn thấy những căn nhà cột cặm gió thổi lá mục rơi lả tả, chiếc ti vi đen trắng xài bình ắc qui làm thót tim bọn trẻ con khi vở cải lương vẫn còn dài mà khung hình chỉ còn chút xíu vì thiếu điện. Những cái cối xay bột bằng đá xám. Những cái vách buồng được đan bằng sậy đập giập…

Nhà tôi xiêu vẹo đã lâu. Nhánh khế de trên nóc nhà có bữa rụng xuống mâm cơm của chúng tôi mấy trái chín rục. Vẻ hiu hắt, cũ kỹ của ngôi nhà thường cuốn hút khách dừng chân, ghé vào. Tía tôi tạt vào họ một bộ mặt lạnh tanh, te te bỏ ra vườn, cây gậy dấm dứ trên tay như chực phang vào ai đó. Tôi cũng khó chịu khi người ta hãi hùng níu vai nhau coi tôi lột da chuột dưới cầu ao. Tôi thấy hình ảnh mình – một thằng con trai tàn bạo, man rợ trong mắt họ. Tôi ngọ ngoạy, giãy giụa một cách tuyệt vọng. Bởi suốt một mùa nắng đó, hai tía con tôi chỉ sống nhờ vào tiền bán chuột đồng, nên tôi không làm sao cải thiện được hình ảnh của mình.

Khi trời trở gió Nam, mùa mưa kéo theo một bầy sấm chớp ập tới, bộ dạng tôi đã bớt tàn nhẫn nhưng vẫn lem luốc vì bận cắm câu, đặt trúm, soi nhái. Điều đó làm tôi bị thêm một tật là tắm lâu, bùn đất sạch rồi, nhưng những ánh mắt vừa thương cảm vừa ghê sợ của những người xa lạ cứ rát trên da tôi. Giữa mùa, mưa dẳng dai. Tưởng khách chán Thổ Sầu rồi, không dè khách tới đây ngày càng đông. Thổ Sầu quá quyến rũ, khiến người ta mụ mị đi bởi cái nghèo, giản dị đến mức nguyên thủy. Nhiều người khách mô tả, họ như rơi tõm vào một vũng buồn, và chìm trong thứ bùn mát rượi và thơm ngọt mùi đồng bãi.

Những bữa mưa nhiều, khách mừng húm, khoái chí sì sụp lội ra đường. Họ xách dép lội trật vuột trên con đường ọp ẹp bùn sình, người này nhờ người kia chụp cho kiểu hình ngoi ngóp. Người nào người nấy hớn hở hết biết.

Tía nhìn thấy cảnh đó, ngao ngán lắc đầu. Lại nói, tao chết à, Đậu. Với tía tôi, chỉ ở Thổ Sầu hoặc chết, phải tía kêu, mình dời đi chỗ khác, Đậu ơi. Ngay lập tức tôi sẽ đốt phứt cái nhà và dắt tía xuống đò. Chưa biết đi đâu, về đâu nhưng rời bỏ chỗ này trước đã. Nhưng đó không phải là lựa chọn của tía, tôi chỉ biết cười buồn, “Sức mấy mà tía chết. Từ từ rồi quen thôi, tía”.

Quen, như hầu hết bà con ở Thổ sầu bắt đầu quen làm du lịch. Họ thôi núp trốn mà để mặc khách chụp hình mình đang nấu cơm trong gian bếp thấp chật chội, củi ướt sủi tăm, mù mịt khói, hay đang hứng nước dột xuống từ mái nhà, hay đang khâu chiếc mền bằng vải vụn… Khách có quá nhiều thứ để giới thiệu Thổ sầu với bạn bè, một chiếc mùng chi chít những miếng vá nhiều màu, mấy cái đèn cóc lụn tim, chiếc giường ngủ ghép bằng thân tre chẻ hai, mắt tre dù đã chuốt kỹ vẫn gù lên, lông chông.

Nhưng ngộ, người đông đúc, lượn lờ khắp Thổ Sầu nhưng xóm vẫn buồn. Vài nhà định mở quán phở nhưng rốt cuộc, để giữ nét hoang sơ cho xóm, họ chỉ được bán bánh dừa, bánh khọt, cốm gạo… Chái bếp nhà tôi sập do bị mối ăn nhưng không lợp được, phải chờ phơi mưa nắng cho mớ lá mới ngả màu cũ kỹ một chút. Tía tôi hay kêu trời, bất chợt. Thảng thốt như trong lòng có những ý nghĩ nào đó bị nhào lộn, bóp ngẹt vọt ra ba tiếng, trời ơi trời. Có bữa, tía với tôi ngồi vót tre đan thúng trên tấm đệm rách te tua ngoài hàng ba, vài người khách xăng xái sà vào, kinh ngạc hết hồn khi biết cái thúng kia chỉ bán được chừng mười ngàn, mà trật vuột lắm, lúc bán được, lúc không. Một chị nọ bỗng ngó tôi, cất giọng thảng thốt, không hiểu sao người ở đây ai cũng thấy buồn buồn hết. Làm du lịch phải vui chớ. Tía tôi cắm phập cây mác vót xuống đất, cười khan, “Vui. Nhưng mà nhục…”. Khách cun cút bỏ đi.

Vì thái độ đó mà tía tôi bị ông trưởng xóm phê bình dữ dội. Chòm tóc thưa của ông chỉ phơ phất ngang vai tôi, tay chém vào không khí liên tục, trưởng xóm nói, “Xóm mình không tài nguyên đất cát gì hết, chỉ sống nhờ du lịch, không kéo khách tới thì thôi, sao anh Hai lại đuổi khách đi”. Tía tôi ngồi im re, không thưa thốt, phân bua gì, nhưng ánh mắt lầm lì, khinh khỉnh.

Khi nắng trở lại ủ Thổ Sầu trong màu vàng úa hoang hoải, sự thù ghét người lạ trong lòng tía tôi càng chất chứa. Tánh tía tôi rất cố chấp. Mà, cũng do khách không thèm giấu che những ý nghĩ của mình. Những người có quá khứ nghèo thì phơ phởn thấy mình đã thoát được cái nơi (tương tự) như Thổ Sầu. Những người chưa từng nếm trãi cuộc sống quê mùa thì trầm trồ, thắc mắc nhiều chuyện không đâu, thí dụ như vì sao vài đứa nhỏ ở đây chỉ ăn cơm suông, chừng hết cơm mới đụng đến mớ đồ ăn ít ỏi. Người thấy cuộc sống chật chội nặng nề đến đây, bỗng thấy mình ham sống, thấy tràn trề sức lực trong cuộc chen chúc mưu sinh. Phụ nữ luôn có nụ cười rất kỳ lạ, như thể không ngậm miệng được, nụ cười biết nói, “vậy là mình quá giàu so với đám người này”. Đám đàn ông ánh mắt cũng mãn nguyện không kém, “dám chắc là trong ba tháng nữa bà vợ mình không than vãn chuyện lương thấp lương cao”.

Chỉ mấy đứa trẻ là dễ thương. Tôi thích nhìn vẻ thất vọng não nề của chúng khi tới xóm tôi. Tôi bỏ rất nhiều thời gian la cà ngoài bến, ngó mấy đứa nhỏ giãy nảy, kêu khóc bên đôi giày leo núi và bộ đồ tắm biển thừa thãi. Tôi cười ngất. Nhất là khi ra về, nhiều đứa ấm ức, cằn nhằn :

– Hổng vui gì hết… Nhìn người ta nghèo hổng vui gì hết.

Nghe câu đó, tôi vừa thích, vừa thương. Ông trời mà cho tôi thằng con như vậy, dám tôi đội lên đầu lắm.

Tôi nói điều đó với Huệ, đứa con gái bên xóm, chuyên thắt cào cào bằng lá dừa bán cho khách du lịch. Nó cười buồn, biểu tôi, muốn có con thì rủ con Mận hay con Đèo. Mai mốt nhà Huệ đã dời ra chợ huyện. Má nó ao ước trước lúc chết trong nhà có cái ti vi màu.

Khách sẽ bực lắm, thất vọng lắm nếu giữa Thổ Sầu đìu hiu lại có ti vi màu.

Huệ nhìn tôi một cách vô vọng, “Đậu đi với Huệ nghen?”. Tôi cúi mặt nhìn đôi bàn chân đang ngập trong bùn, không, tôi không bỏ Thổ Sầu được, vì tía tôi không đời nào chịu rời đi. Vì sau vườn, cỏ lại đang mon men bò lên mộ má tôi, ông bà tôi…


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.