Giờ Này Anh Ở Đâu?

CHƯƠNG 11



Bằng giọng mệt mỏi, bác sĩ David Andrews nói: “Thám tử Barrott, Leesey đã rời khỏi quán rượu đó vào lúc ba giờ sáng hôm qua. Bây giờ là một giờ trưa thứ Tư. Con bé đã mất tích ba mươi tư tiếng đồng hồ. Ông có thấy cần phải kiểm tra lại với bệnh viện không? Nếu có bất kỳ ai biết rằng những phòng cấp cứu bận rộn như thế nào, Chúa biết đó là tôi”.
Cha của Leesey đang ngồi tại cái bàn nhỏ trong nhà bếp ở căn hộ ký túc xá trường cao đẳng của con gái, tay ông nắm lại, đầu ông cúi xuống. Trái tim đau đớn, không ngủ được và tuyệt vọng, ông từ chối lời cầu khẩn của con trai muốn ông quay về căn hộ của nó và chờ tin ở đó. Sau khi có mặt ở đây cả đêm, Gregg đã quay về nhà để tắm táp và thay quần áo trước khi ghé qua bệnh viện gặp các bệnh nhân sau phẫu thuật của anh.
Roy Barrott đang ngồi đối diện cha Leesey tại cái bàn đó. Cái đêm con gái ta đi dự dạ vũ, thì con gái ông ấy đi đến hắc điếm rồi biến mất. Roy nghĩ với cảm giác có tội bất chợt vì sự may mắn tốt đẹp của chính mình. “Bác sĩ Andrews,” ông nói, “ông cần phải tiếp tục nghĩ đến khả năng rằng Leesey hoàn toàn bình an. Cô ấy là một người lớn, và có quyền được riêng tư”.
Barrott thấy được khuôn mặt người bác sĩ rắn lại vì cơn tức giận và sự khinh miệt. Ta thấy mình nói giống như cô ấy là một loại người lang bạt, dễ tính, ông nghĩ thế và vội vã nói thêm: “Xin đừng nghĩ tôi tin rằng đây là trường hợp của Leesey. Chúng tôi xem việc cô ấy biến mất là một vấn đề nghiêm trọng”. sếp của Barrott, đội trưởng Larry Ahearn rõ ràng đã đặt trường hợp này vào hạng mục khẩn cấp rồi.
“Thế thì ông đang làm gì để tìm ra con bé?” Nỗi tức giận toát ra trên khuôn mặt của David Andrews. Giọng nói của ông trầm xuống, ngắc ngứ.
Rõ ràng là ông ấy đang ở trong tình trạng bị sốc rồi, Barrott nghĩ thế. “Chúng tôi đã xem lại những máy camera an ninh ở Woodshed, và cô ấy thực sự đã ra về một mình. Những người duy nhất còn lại trong quán rượu là ban nhạc chơi ở đấy, người nhân viên pha chế rượu và người bảo vệ. Tất cả những người đó đều thề rằng không ai trong bọn họ rời khỏi nơi đó sau Leesey trong vòng ít nhất là hai mươi phút. Vì thế chúng tôi cho rằng chẳng có ai trong bọn họ đi theo cô ấy cả. Cho đến nay tất cả bọn họ đều được kiểm tra và xem như không có vấn đề gì. Ngay bây giờ, người của chúng tôi đang đi kiểm tra từng khung hình camera tại quán rượu đó vào đêm thứ Hai để xem chúng tôi có thể xác định được tung tích những kẻ nào có khả năng quấy rối không”.
“Có lẽ có kẻ nào đó đã đến sớm hơn chờ con bé bên ngoài”. David Andrews biết giọng nói của mình thật vô hồn, đơn điệu. Phải chăng viên thám tử này đang cố gắng trấn an ta? Ông tự hỏi mình. Rồi cùng một ý nghĩ chợt lướt qua tâm trí ông đến lần thứ một ngàn: Ta biết có điều gì đó thật khủng khiếp đã xảy ra cho Leesey mất rồi!
Ông đẩy ghế ra khỏi cái bàn và đứng lên. “Tôi sẽ trao giải thưởng hai mươi lăm ngàn đô-la cho bất kỳ ai giúp chúng ta tìm ra con bé”. Ông nói. “Tôi sẽ đưa hình của con bé và bản mô tả nó mặc gì lúc đó vào những tấm áp phích. Ông đã gặp Kate, người bạn cùng phòng của con gái tôi. Cô ấy sẽ bảo bạn bè Leesey dán chúng trên mọi ngả đường giữa quán rượu ấy và tòa nhà này. Hẳn là có ai đó đã trông thấy điều gì đó”.
Với tư cách là một người cha, chính xác đó là điều ta sẽ làm nếu ở vào địa vị của ông ấy. Roy Barrott nghĩ thế khi ông đứng lên. “Bác sĩ Andrews, thật là một ý kiến rất hay. Hãy đưa chúng tôi tấm hình trong ví của ông, cùng chi tiết chiều cao, cân nặng và màu tóc của cô ấy. Chúng tôi sẽ lo thu xếp làm áp phích. Sẽ rất có ích nếu dán những tấm áp phích lên trước khi đám đông sẽ đến quán rượu đó vào tối nay. Tôi có thể hứa với ông rằng các nhân viên chìm của chúng tôi sẽ có mặt ở Woodshed và khắp các ngả đường quanh đây để nói chuyện với mọi người. May mắn chúng ta có thể tìm ra người trông thấy kẻ nào đó chú ý nhiều đến cô ấy. Nhưng thưa ông, tôi cũng đề nghị ông đi đến căn hộ của con trai ông và nghỉ ngơi đôi chút ở đó. Tôi sẽ cho một sĩ quan đưa ông đến đó nhé”.
Ta chỉ mới đang trên đường đi thôi, David Andrews chán chường suy nghĩ. Nhưng ông ấy nói đúng – Ta thực sự cần phải ngủ. Chẳng nói năng gì, ông gật đầu.
Cánh cửa từ phòng ngủ được mở ra. Kate Carlisle đã trải qua một đêm không ngủ, và giờ đây, sau khi chợp mắt một chút, cô trông thấy họ ra đi, với bàn tay Barrott nắm chặt dưới cánh tay vị bác sĩ. “Bác Andrews, bác khỏe chứ?” Cô lo lắng hỏi.
“Bác sĩ Andrews sẽ đi đến căn hộ của con trai ông ấy”. Barrott giải thích. “Tôi sẽ còn chạy tới chạy lui. Kate ơi, cô có ngẫu nhiên có được tấm hình chụp mới nhất của Leesey không? Cái tấm mà tôi thấy trong ví của bác sĩ Andrews đã cách đây hơn một năm rồi”.
“Vâng, tôi có một tấm rõ lắm. Tôi chỉ mới chụp nó hồi tuần trước. Angelina Jolie và Brad Pitt đang đi dạo trên SoHo với con cái của họ và những tay săn ảnh có mặt quanh quẩn bên họ. Tôi bảo Leesey giả vờ như cô ấy là một ngôi sao điện ảnh. Và tôi đã chụp hai tấm hình của cô ấy bằng máy điện thoại di động của tôi. Một trong hai tấm đó Tất tuyệt vời. Cô ấy đang định đem đi lộng khung rồi gửi cho bác đấy, bác Andrews ạ”. Giọng cô vỡ vụn ra. Bối rối, Kate chạy vào trong phòng ngủ, mở ngăn kéo cái bàn cạnh giường ngủ, lấy một tấm hình từ đó ra và vội vã quay trở lại với họ.
Trong tấm hình, Leesey đang tạo dáng người mẫu, khuôn mặt tươi cười của cô hướng về máy chụp hình, mái tóc dài tung bay trước cơn gió thoảng, thân hình thon mảnh hâu như đang uốn lượn, đôi tay ủ sâu trong hai túi của chiếc áo khoác vải bông.
Cặp mắt Barrott lướt từ cô gái đáng yêu ở vị trí trung tâm sang những người khách qua đường ở phía sau. Chẳng có khuôn mặt nào rõ ràng cả. Phải chăng một trong những kẻ đó đã chú ý đến Leesey? Ông tự hỏi. Một kẻ háo sắc đang rình mồi.
Ta sẽ cho phóng lớn tấm hình này, ông nghĩ, rồi nhận nó từ tay Kate. “Đây là một tấm hình rất rõ của Leesey”. Ông nói. “Tôi cũng muốn cô cho tôi tấm hình kia mà cô đã chụp cô ấy. Từ những điều mà tôi biết thì cô ấy đã mặc áo khoác vải bông vào đêm cô ấy đi đến câu lạc bộ. Trong tấm hình này cô ấy cũng đang mặc chiếc áo khoác vải bông”.
“Cô ấy mặc cùng một chiếc áo khoác”. Kate nói.
“Con bé đã mua nó cách đây hai năm, chỉ trước ngày mẹ nó mất”. David Andrews nói. “Nó có một cái váy để mặc cùng. Mẹ nó đã cười, trêu nó về cái váy có những sợi tua lủng lẳng trèn đó. Leesey bảo với bà ấy rằng đó là thời trang. Mẹ nó bảo nếu đấy được xem là thời trang thì đã đến lúc quay trở lại với loại váy phồng”.
Ta có vẻ ủy mị quá. David Andrews tự nói với chính mình. Ta đang giữ tay thám tử này lại, không để hắn đi tìm Leesey. Ta phải tránh ra khỏi nơi đây thôi. “Kate, đây là một tấm hình đẹp của Leesey. Bất kỳ ai nhìn thấy con bé cũng có thể xác định ra nó từ tấm hình này. Cám ơn cháu rất nhiều”.
Không chờ cô trả lời, ông bắt đầu đi ra cửa, biết ơn vì cánh tay mạnh mẽ đang kẹp dưới nách mình. Một cách thầm lặng, ông bước xuống ba đợt câu thang. Ông ý thức một cách mơ hồ ánh đèn camera lóe sáng và có ai đó la lên những câu hỏi với ông khi ông băng qua lối đi và được giúp đưa vào chiếc xe của tổ công tác. Ông nhớ đã hỏi thám tử Barrott về những điều sẽ làm để cố tìm cho ra Leesey. Barrott đóng cửa xe lại và dựa người vào đó.
“Bác sĩ Andrews, chúng tôi đã vận động tất cả những người trong tòa nhà này. Chúng tôi biết theo như máy camera an ninh ở đây thì Leesey đã không bước vào cánh cửa này, nhưng tất cả các ngôi nhà này đều giống hệt nhau. Cô ấy có thể bước lầm vào ngôi nhà khác. Chúng tôi đang bắt đầu từng nhà một, làm việc với toàn bộ khu vực lân cận này. Việc có hình của cô ấy sẽ giúp đỡ chúng tôi”.
“Tại sao con bé lại bước lầm vào cánh cửa khác trên cõi đời này? Con bé đâu có uống rượu quá nhiều, chính ông đã bảo tôi thế mà. Người nhân viên pha chế rượu và tất cả những người khác ở Woodshed đều thề rằng con bé tỉnh táo khi nó rời chỗ đó mà”. David Andrews nhắc nhở mình ngay lập tức.
Đấy chỉ là lời nói đầu môi chót lưỡi của Barrott để đáp lại, trừ phi có thể chứng minh khác đi, chín mươi chín phần trăm nhân viên pha chế rượu luôn thề thốt rằng người bị mất tích đều rời quán rượu trong trạng thái tỉnh táo. Thay vì thế ông nói “Bác sĩ ơi, không có vấn đề gì xảy ra đâu. Đó là lời hứa của tôi với ông”.
Một phóng viên duy nhất có mặt tại hiện trường đã gí micro vào mặt Barrott khi ông quay trở lại xe tổ công tác. “Nghe này,” Barrott mất kiên nhẫn nói. “Đội trưởng Aheam sẽ tổ chức họp báo vào lúc năm giờ. Ông ấy được ủy quyền phát biểu. Tôi thì không”.
Ông quay trở lại khu vực tiền sảnh của tòa nhà, chờ cho đến lúc người phóng viên và thợ chụp hình bước vào chiếc xe van và lái đi, rồi mới quay trở ra và bước đến tòa nhà kế đó. Giống như hầu hết các cánh cửa trong khối nhà này, cánh cửa bên ngoài không khóa, và có thể đi vào bằng chiếc chìa khóa hay người thuê mướn có thể gọi điện thoại liên lạc.
Cặp mắt Barrott đảo lên xuống danh sách những người thuê mướn, rồi chúng mở to ra khi ông chộp lấy cái tên “Carolyn MacKenzie”. Lý thuyết “Sáu chặng phân cách” 1 ư? Ông tự hỏi mình. Rất có thể.
Roy Barrott đứng sững lại, rồi sau đó dùng ngón trỏ rà quanh cái tên Carolyn MacKenzie.
Bản năng chưa hề sai sót khiến ông trở thành một thám tử tuyệt vời đã mách bảo với ông rằng dẫu sao, theo một cách nào đó, có sự liên kết giữa hai trường hợp này.
Chú thích
1.Sáu chặng phân cách: Lý thuyết về việc có thể kết nối hai người bất kỳ trên hành tinh này thông qua vài chặng người quen.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.